Chương 1
BA-LA-DI (PÀRÀJIKÀ)
Ba-la-di: Pali là Pàràjikà Trung Hoa dịch là ba-la-thị-ca, có 8 nghĩa:1. Khí: Tỳ-kheo-ni phạm giới này rồi bỏ ngoài biển Phật pháp, đuổi ra khỏi hàng tăng thanh tịnh, không cho chung thuyết giới, yết-ma, mất hết tư cách của tỳ-kheo-ni.
2. Tha-thắng: Bị ma quân phiền não thắng.
3. Vô-dư: Không còn phương pháp nào để cứu vãn được.
4. Cực-ác: Không còn ác nào hơn đây.
5. Đọan-đầu: Như người bị chặt đầu.
6. Đọa-phụ-xứ: Rơi vào chỗ không vừa ý, tức tam đồ.
7. Bất-cộng-trụ: Không được sống chung với tăng thanh tịnh.
8. Thối-một: Mất hết phần đạo quả của niết-bàn, như lá vàng rời cành rơi xuống đất.
Pháp này thuộc tánh tội, lại nữa ba-la-di với nhiều ý nghĩa như trên nên tỳ-kheo-ni phạm ba-la-di không có pháp sám hối. Tỳ-kheo-ni phạm phải những điều giới này thật tâm ăn năn, phải sám hối suốt đời nhưng không thể phục hồi phẩm chất tỳ-kheo-ni như cũ, không thể đạt được thánh quả trong đời này, nhưng có thể chuyển được khổ báo nơi địa ngục thành quả báo nhẹ trong hiện tại. Nếu như không sám hối sẽ chịu cảnh đọa nơi địa ngục Diễm-nhiệt, gồm tám điều giới.
I. PHÂN TÍCH ĐIỀU GIỚI
ĐIỀU GIỚI 1: Dâm dục
Nếu tỳ-kheo-ni làm việc dâm dục, phạm hạnh bất tịnh cho đến cùng với loài súc sanh, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Vào năm thứ mười hai sau khi đức Phật thành đạo, sau ba tháng an cư tại thôn Tỳ-lan-nhã, đức Thế Tôn cùng với các tỳ-kheo du hóa đến thôn Ca-lan-đà. Đây chính là quê hương của tỳ-kheo Tu-đề-na, ngài là con của trưởng thôn Ca-lan-đà vì lòng tín kính Tam bảo nên xuất gia làm tỳ-kheo. Nhân lúc mất mùa, việc khất thực của các tỳ-kheo gặp khó khăn nên Tu-đề-na nghĩ mình nên hướng dẫn các tỳ-kheo về quê hương để các tỳ-kheo được đầy đủ vật thực mà tịnh tu phạm hạnh và nhân dịp này để dòng họ mình cúng dường tạo phước. Nghĩ thế rồi Tu-đề-na hướng dẫn các tỳ-kheo về thôn mình khất thực.
Biết được con mình về làng, mẹ của Tu-đề-na liền đến khuyên bảo đủ điều, khuyến dụ hoàn tục, nhưng Tu-đề-na một lòng từ chối. Bà trở về nói với nàng dâu khi nào đến thời kỳ kinh nguyệt con hãy cho mẹ biết. Đến ngày nguyệt kỳ vợ Tu-đề-na đến báo cho mẹ chồng, bà dặn cô dâu trang điểm những gì trước đây chồng con thích nhất rồi dẫn đến chỗ Tu-đề-na. Đến nơi bà bảo Tu-đề-na: “Nay đã đến lúc con nên bỏ đạo về đời, vợ con như vầy không thể để sống cô đơn và cha con đã chết rồi gia sản sẽ bị thu vào cửa quan vì không có người thừa kế”. Tu-đề-na một mực từ chối. Sau ba lần khuyên dụ không được bà bảo: “Hôm nay hoa thuỷ của vợ con đã xuất, nếu con không trở về thì nên lưu lại đứa con để nối dõi dòng họ tổ tông”. Tu-đề-na thưa: “Nếu như vậy thì con làm được”. Thế rồi Tu-đề-na cùng với người vợ dẫn vào chỗ khuất ba lần làm việc bất tịnh.
Từ khi làm việc bất tịnh rồi, Tu-đề-na thường ưu sầu, lo nghĩ, bất an. Các tỳ-kheo đồng phạm hạnh thăm hỏi, Tu-đề-na trình bày sự việc. Các tỳ-kheo phạm hạnh chê trách và bạch lên Phật. Đức Phật cho mời tất cả các tỳ-kheo lại và hỏi Tu-đề-na có làm việc bất tịnh như thế hay không? Tu-đề-na trình bày sự việc, đức Phật dùng vô số phương tiện quở trách Tu-đề-na và chế ra điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
Sau đó có tỳ-kheo Bạt-xà-tử ưu sầu chán đời sống phạm hạnh, một hôm trở về nhà cùng với người vợ cũ làm việc bất tịnh. Sau đó lo lắng không biết việc đó có phạm giới hay không nên đến thưa cùng các tỳ-kheo phạm hạnh. Chư tỳ-kheo trình việc này lên đức Phật. Đức Phật bổ túc thêm: “Chưa xả giới, giới sút kém nhưng không phát lồ”.
Có một tỳ-kheo sống trong rừng, thường ngày khất thực về thọ trai xong, còn thức ăn thừa tỳ-kheo cho con vượn cái ăn, dần dần tỳ-kheo hành dâm với con vượn cái đó. Chư tỳ-kheo biết được việc này bạch lên Phật, nhân đây Phật bổ túc thêm: “Cho đến cùng với súc sanh”.
Nếu tìm hiểu chi tiết, thì ngoài 3 nhân duyên trên, còn có mười bốn duyên khác Phật chế giới:
1- Na-Đề bị thiên ma phá, hành dâm với tử thi ngựa cái.
2- Tỳ-kheo khất thực vì yêu cầu của nữ nhơn để vào phi đạo.
3- Tỳ-kheo khất thực hành dâm cùng một nam tử.
4- Tỳ-kheo cùng một hoàng môn.
5- Tỳ-kheo khỏa hình, nữ nhơn lộ hình.
6- Tỳ-kheo lộ hình, nữ nhơn khỏa hình.
7- Tỳ-kheo trường căn tự để nam căn vào đại tiện.
8- Tỳ-kheo nhược yêu, tự đưa nam căn vào miệng.
9- Tỳ-kheo cùng dâm nữ hành dâm lưu xuất vật bất tịnh ra bên ngoài.
10-Tỳ-kheo hành dâm với một nữ căn bị vua cắt vất bỏ bên đường.
11-Đồng tử Ưu-đà-di con vua A-xà-thế nơi dương vật sanh trùng ngứa dùng miệng ngậm.
12-Tỳ-kheo với một nữ nhơn tà dâm bị vua chặt tay chân vất bỏ nơi gò mã.
13-Tỳ-kheo với một nữ nhơn điên cuồng trong rừng Khai-nhãn.
14-Tỳ-kheo với thây chết của vợ một cư sĩ bỏ trong rừng đêm mưa.
Ngoài ra, còn các trường hợp liên quan đến giới dâm nhưng đức Phật không kết tội:
- Tỳ-kheo ngủ không đóng cửa, nam căn khởi lên, bị dâm nữ cưỡng bức.
- Tỳ-kheo bệnh ghẻ, nam căn khởi lên, bị người chăn bò cưỡng bức.
- Tỳ-kheo-ni Liên-hoa-sắc ngủ ban ngày không đóng cửa, bị một nam tử cưỡng bức.
- Tỳ-kheo-ni Nan-đà ngủ dưới gốc cây bị một nam tử cưỡng bức.
- Tỳ-kheo-ni Kim-sắc-nữ chứng quả A-la-hán bị vương tử cưỡng bức.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ 5 dữ kiện:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Cố ý, nghĩa là có ý hành dâm.
+ Đối tượng là người, phi nhân hoặc súc sanh.
+ Vào một trong ba đường là đại tiện, tiểu tiện và miệng.
+ Xúc cảm, thọ lạc một trong ba giai đoạn là nhập, trụ và xuất.
Thâu-lan-giá, không hội đủ yếu tố ba-la-di
+ Sử dụng các dụng cụ khác để làm việc dâm.
+ Dạy người khác làm, họ làm theo.
Đột-kiết-la
Bảo người khác làm mà họ không làm theo.
KHÔNG PHẠM
+ Trước khi Phật chế giới.
+ Bị cưỡng bức nhưng tâm không thọ lạc.
+ Người cuồng si, mất trí, ngủ say.
ĐIỀU GIỚI 2: Trộm cướp
Nếu tỳ-kheo-ni ở chỗ đông đảo, hoặc chỗ vắng vẻ, của người không cho mà cố lòng trộm lấy, theo pháp luật định, hoặc là vua, quan bắt được hoặc giết, hoặc giam, hoặc đuổi ra khỏi nước, hay mắng là trộm cướp, là ngu si không biết chi, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật du hoá tại thành La-duyệt, thời gian này tỳ-kheo Đàn-ni-ca dối gạt người giữ cây của vua Bình-sa, lấy gỗ cất thất. đại thần tấu trình sự việc lên vua, vua vì tôn kính các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni nên không nỡ giết, bèn quở trách rồi thả về. Các tỳ-kheo bạch lên Phật, Phật hỏi tỳ-kheo Ca-lâu phép nhà vua trộm bao nhiêu tiền thì bị xử tử. Tỳ-kheo Ca-lâu thưa: “Lấy năm tiền hoặc trị giá vật đủ năm tiền thì bị xử tử”. Đức Phật liền y theo pháp vua mà chế giới cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Trộm đủ năm tiền phạm tội ba-la-di.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có tâm trộm cắp.
+ Vật có chủ.
+ Vật trị giá năm tiền trở lên.
+ Tự mình lấy hoặc sai bảo người lấy về mình
+ Vật dời khỏi chỗ cũ.
Thâu-lan-giá
Chưa hội đủ sáu điều kiện của ba-la-di
Đột-kiết-la
+ Muốn trộm vật năm tiền, nhưng chưa chạm đến.
+ Muốn trộm vật dưới năm tiền, tay đã sờ nhưng chưa dời chỗ.
KHÔNG PHẠM
+ Tưởng vật người cho.
+ Tưởng là của mình.
+ Tưởng là vật người vất bỏ.
+ Với ý định lấy tạm dùng.
+ Với ý tưởng là của người thân.
+ Lấy vật trước khi Phật chế giới.
+ Người điên cuồng tâm loạn.
ĐIỀU GIỚI 3: Giới giết người
Nếu tỳ-kheo-ni tự tay mình cố giết mạng người, hoặc cầm dao trao cho người, khen ngợi chết, khuyên nhủ chết, mà nói rằng: “Này em xấu hổ như vậy, sống làm chi, thà chết còn hơn”. Khởi tâm nghĩ nhiều chước khéo, khen ngợi chết, khuyên nhủ chết như vậy, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn du hoá trong nước Tỳ-xá-ly, tại giảng đường bên sông Di-hầu, Ngài nói pháp bất tịnh cho chúng tỳ-kheo. Sau đó, các tỳ-kheo tu tập theo pháp quán bất tịnh và thấy rõ thân xác đáng ghê tởm, lòng ưu sầu bi quan, cầm dao tự sát, khen ngợi cổ vũ sự chết. Trong khi ấy có tỳ-kheo Vật-lực-già-nan-đề tay cầm dao bén vào trong vườn Bà-cầu. Một tỳ-kheo nói với Vật-lực rằng: “Đây y bát tôi cho ông, ông hãy cắt đứt mạng sống của tôi đi”. Nan-đề giết vị đó. Giết xong ông ta đến bờ sông rửa dao lòng đầy hối hận. Bấy giờ thiên ma xuất hiện khen ngợi sự giết của Nan-đề: “Tốt lắm, ông đã độ được cho người không thể tự độ”. Với lời ca tụng của thiên ma, Nan-đề vào lại trong vườn tiếp tục giết. A-nan đem việc này bạch Phật, nhân đây Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có tâm sát.
+ Đối tượng là người và thai người.
+ Giết đúng đối tượng không nhầm lẫn.
+ Tiến hành giết bằng phương tiện, thân và khẩu.
+ Khiến cho đoạn mạng.
Thâu-lan-giá, không hội đủ các đều kiện ba-la-di.
+ Đối tượng không phải người, loài biến hóa người.
+ Thật loài người, nhưng tưởng không phải là người.
+ Giết không đúng đối tượng muốn giết.
+ Gây thương tích trên đối tượng mà không chết.
Đột-kết-la
+ Giết tám bộ quỷ thần, súc sanh biến hóa nhưng không chết.
+ Tự chặt một ngón tay.
KHÔNG PHẠM
+ Trước Phật chế giới.
+ Ngọ sát, không có tâm sát hại.
+ Cuồng si tâm loạn.
ĐIỀU GIỚI 4: Nói dối nghiêm trọng
Nếu tỳ-kheo-ni thiệt không biết chi mà xưng rằng: “Tôi đặng phép hơn người, tôi đã chứng nhập pháp cao của bậc thánh trí, tôi biết việc ấy, tôi thấy việc ấy”. Vị này đến khi khác hoặc có người hỏi, hoặc không ai hỏi, vì muốn cho mình thanh tịnh nên nói như vầy: “Tôi thật sự không biết, không thấy mà nói là biết, nói thấy”. Đó là lời dối gạt, không thiệt như thế tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung. Trừ bậc tăng thượng mạn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn đi hoá độ chúng sanh ở nước Tỳ-xá-ly, nơi giảng đường bên bờ sông Di-hầu. Gặp lúc mất mùa việc khất thực khó được, các tỳ-kheo bên bờ sông Bà-cầu đến nhà cư sĩ cùng tán thán nhau rằng: “Các tỳ-kheo đều chứng đắc pháp thượng nhân”. Hàng cư sĩ đem vật thực cúng dường đầy đủ lên các tỳ-kheo. Phật biết được liền quở trách và chế điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
Lại có một tỳ-kheo tu tập chỉ quán, hàng phục được các phiền não rồi nói với mọi người rằng: “Tôi đắc đạo”. Sau đó du hành trong nhân gian, không chế ngự được các căn, phiền não khởi lên tự biết xấu hổ mà tinh tấn tu tập chứng đắc quả a-la-hán. Nghĩ lại lời nói trước, sợ phạm giới nên bạch Phật. Phật nói không phạm và chế thêm trừ “tăng thượng mạn”.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ bảy yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Đối tượng là loài người.
+ Nội dung là nói pháp thượng nhân.
+ Biết rõ đó là pháp thượng nhân.
+ Cố ý nói dối với tâm tham cầu lợi dưỡng.
+ Đã nói thành lời, đối tượng hiểu được nội dung.
Thâu-lan-giá, các yếu tố ba-la-di không trọn vẹn
+ Đối tượng là tám bộ quỷ thần, súc sanh biến hình, chúng có nghe và hiểu được lời nói.
+ Đối tượng là người tưởng chẳng phải người.
+ Chỗ có người tưởng là không người.
+ Người khác nghe nhưng chẳng hiểu lời nói.
+ Nói tôi không còn đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
+ Vì lợi dưỡng, trước mọi người giả trang thiền tướng chứng tỏ mình chứng ngộ.
Đột-kiết-la
+ Đối tượng không phải là người, có nghe nhưng chẳng hiểu.
+ Đối tượng nghi ngờ là người, có nghe nhưng chẳng hiểu.
+ Tỳ-kheo-ni được pháp thượng nhân mà nói với tỳ-kheo-ni không đồng chí hướng.
KHÔNG PHẠM
Bậc tăng thượng mạn, nói giỡn chơi, cuồng si, mất trí, nói chỗ khuất, nói một mình, nói trong chiêm bao, Phật chưa chế giới.
ĐIỀU GIỚI 5: Xúc chạm
Nếu tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cùng với người nam có tâm nhiễm ô, kề cọ trên từ nách xuống, dưới từ đầu gối trở lên hoặc nhận, hoặc rờ, hoặc lôi, hoặc kéo, hoặc rờ trên, rờ dưới, hoặc nâng lên, để xuống, hoặc nắm, hoặc bóp chặt, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Khi Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ-thọ Cấp-cô-độc, có vị trưởng giả tên Đại-thiện Lộc-lạc dáng vẻ đẹp người và tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà nhan sắc mỹ lệ, hai bên có tình cảm luyến ái với nhau. Một hôm, trưởng giả sắm sửa thực phẩm thết đãi ni chúng, người thức suốt đêm sắm sửa các thức ăn uống, sáng sớm đến chùa mời chư ni về nhà thọ trai. Thâu-la-nan-đà biết trưởng giả vì mình mà cúng dường nên giả bệnh ở lại chùa. Trưởng giả biết Thâu-la-nan-đà không đến bèn vội sang chùa, từ xa trông thấy, Thâu-la-nan-đà liền lên giường nằm. Trưởng giả đến thăm hỏi rồi lên giường ôm ấp, vuốt ve…
Bấy giờ, có sa-di-ni nhỏ ở chùa trông thấy việc ấy nên chư ni thọ trai về sa-di-ni kể lại sự việc. Các tỳ-kheo-ni biết được việc ấy, trong đó có những vị biết hổ thẹn chê trách Thâu-la-nan-đà. Sau đó bạch việc này lên các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni bạch sự việc lên đức Phật. Đức Phật nhóm họp hai bộ tăng, rồi dùng vô số cách thức, lời lẽ quở trách Thâu-la-nan-đà rồi kết giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ bảy yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Đối tượng là người nam.
+ Tưởng là người nam.
+ Cả hai bên đều có tâm nhớp bẩn.
+ Từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên.
+ Hai thân ôm ấp, tiếp xúc nhau.
+ Cảm nhận sự vui sướng
Thâu-lan-giá
+ Nhiễm tâm xúc chạm thân người nữ, huỳnh môn, hoặc người nam tưởng là nữ, loài quỷ nam, súc sanh đực.
+ Bị người xúc chạm, khởi tâm nhiễm ô.
+ Xúc chạm vào thân cha, con, anh em có tâm cảm thọ khoái lạc.
Đột-kiết-la
+ Xúc chạm thân người nam, không có nhiễm tâm.
+ Xúc chạm thân người nam đã chết có nhiễm tâm.
+ Với nhiễm tâm xúc chạm vào y bát, y phục người nam đang mặc.
KHÔNG PHẠM
+ Khi nhận hoặc trao đồ vật mà chạm nhau.
+ Cứu vớt, giúp đỡ người khi cần thiết mà không có nhiễm tâm.
+ Khi đi xe, hoặc nơi công cộng xúc chạm nhau mà không có nhiễm tâm.
ĐIỀU GIỚI 6: Đủ tám việc phạm tội nặng
Nếu tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô, biết người nam có tâm nhiễm ô, chịu cho phép nắm tay, nắm áo, vào chỗ vắng, cùng đi, đứng, nói chuyện, hoặc dựa kề, hoặc hẹn hò, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Khi Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ-thọ Cấp-cô-độc, có vị trưởng giả tên Sa-lâu Lộc-lạc dáng vẻ đẹp trai và tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà nhan sắc tuyệt mỹ hai bên có tình cảm luyến ái với nhau. Bấy giờ, tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà có tâm dục để cho trưởng giả nắm tay, nắm y, cùng nhau vào chỗ khuất đứng chung nói chuyện, cùng đi chung, hai thân dựa kề, cùng nhau hẹn hò. Các tỳ-kheo-ni biết được việc ấy, trong đó có những vị biết hổ thẹn chê trách Thâu-la-nan-đà, sau đó bạch việc này lên các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni bạch sự việc lên đức Phật. Đức Phật nhóm họp hai bộ tăng, rồi dùng vô số cách thức, lời lẽ quở trách Thâu-la-nan-đà rồi kết giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Đối tượng là người nam.
+ Tưởng là người nam.
+ Cả hai bên đều có tâm nhớp bẩn.
+ Đã làm bảy việc chưa sám hối.
+ Làm đến việc thứ tám liền phạm.
Thâu-lan-giá
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô nắm tay.
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô nắm y.
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô cùng vào chỗ khuất.
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô đứng chung ở chỗ khuất.
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô nói chuyện với nhau ở chỗ khuất.
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô đi chung ở chỗ khuất lấy đó làm vui.
+ Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô hai thân dựa kề với nhau.
Đột-kiết-la
+ Đối với trời, rồng, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sanh, loài biến hình mà làm bảy việc như trên thì mỗi việc phạm một đột-kiết-la.
+ Đối với súc sanh không biến hình được mà làm việc thứ tám thì phạm đột-kiết-la.
+ Đối với người nữ có tâm nhớp bẩn mà làm việc thứ tám thì phạm đột-kiết-la.
KHÔNG PHẠM
+ Khi nhận hoặc trao đồ vật mà chạm nhau.
+ Cứu vớt, giúp đỡ người khi cần thiết mà không có nhiễm tâm.
+ Khi bị người đánh, hoặc khi lễ bái, sám hối, thọ pháp.
+ Hẹn gặp ở những nơi không thể làm việc bậy được thì không phạm.
ĐIỀU GIỚI 7: Che dấu tội nặng của tỳ-kheo-ni khác
Nếu tỳ-kheo-ni biết tỳ-kheo-ni kia phạm tội ba-la-di mà không tự phát lồ không nói với ai, không bạch với đại chúng. Thời gian khác, tỳ-kheo-ni kia hoặc chết, hoặc trong chúng cử tội, hoặc thôi tu, hoặc theo ngoại đạo lại nói rằng: “Trước tôi biết cô đó có tội như vậy”. Vì che giấu tội nặng cho bạn, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ-thọ Cấp-cô-độc. Lúc bấy giờ tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà có người em gái xuất gia làm tỳ-kheo-ni Để-xá-nan-đà phạm pháp ba-la-di. Sau thời gian sống đời phạm hạnh Để-xá-nan-đà hoàn tục, các tỳ-kheo-ni hỏi Thâu-la-nan-đà có biết việc đó hay không? Thâu-la-nan-đà nói: “Em tôi làm việc đó cũng phải, vì trước đây nó phạm pháp ba-la-di như thế”. Các tỳ-kheo-ni nói nếu biết sao không nói cho các tỳ-kheo-ni biết. Thâu-la-nan-đà nói: “Tôi cũng định nói cho mọi người biết, nhưng nó là em tôi phạm pháp ba-la-di, tôi sợ mình cũng bị mang tiếng xấu theo nên không nói”. Các tỳ-kheo-ni nghe việc ấy, trong đó có những vị biết hổ thẹn chê trách Thâu-la-nan-đà, sau đó bạch việc này lên các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni bạch sự việc lên đức Phật. Đức Phật nhóm họp hai bộ tăng, rồi dùng vô số cách thức, lời lẽ quở trách Thâu-la-nan-đà rồi kết giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có người phạm trọng tội.
+ Biết người kia phạm trọng tội.
+ Có tâm che dấu.
+ Không phát lồ.
+ Để qua đêm.
Thâu-lan-giá
Can ngăn không cho các tỳ-kheo-ni nói tội ba-la-di lên đại chúng.
Đột-kiết-la
+ Che dấu tội tăng-tàn, hoặc ba-đạt-đề.
KHÔNG PHẠM
+ Trường hợp không biết.
+ Biết mà không có người để nói.
+ Biết nhưng chưa nói thì trời đã sáng.
+ Nếu nói thì sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng, đến phạm hạnh.
ĐIỀU GIỚI 8: Tùy thuận theo người bị nêu tội, chư tăng can ngăn ba lần không bỏ
Nếu tỳ-kheo-ni biết tỳ-kheo-ni khác bị chúng tăng cử tội đúng như pháp, như luật, như lời Phật dạy mà tỳ-kheo-ni ấy không thuận theo, không sám hối, chúng tăng chưa cho làm phép ở chung mà cô tỳ-kheo-ni lại thuận theo. Các tỳ-kheo-ni khác can rằng: “Thưa đại tỷ, tỳ-kheo-ni đó bị chúng tăng cử tội đúng như pháp, như luật, như lời Phật dạy mà cô không tuân theo, không sám hối, chúng tăng chưa cho làm phép ở chung, đại tỷ chớ thuận theo”. Khi can như vậy, tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ, các tỳ-kheo-ni phải can hai lần, ba lần để bỏ việc ấy. Nếu can hai lần, ba lần bỏ thì tốt, không bỏ thì tỳ-kheo-ni ấy mắc tội tùy cử, tỳ-kheo-ni ấy phạm tội ba-la-di không được ở chung.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật ngự trong vườn Thi-la, nước Câu-thiểm-di-cù. Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội ăn riêng chúng, vào xóm làng không đúng giờ, tăng làm pháp yết ma cử tội đúng như pháp mà Xiển-đà không chịu sám hối. Tăng chưa làm yết ma cho vị ấy cộng trú. tỳ-kheo-ni Ủy-thứ qua lại giúp đỡ tỳ-kheo Xiển-đà, các tỳ-kheo-ni can ngăn Ủy-thứ không nghe theo lại trả lời rằng: “Tỳ-kheo Xiển-đà là anh tôi, lúc này tôi không cúng dường đợi đến lúc nào mới cúng dường?” Các tỳ-kheo-ni nghe việc ấy, trong đó có những vị biết hổ thẹn chê trách Ủy-thứ, sau đó bạch việc này lên các tỳ-kheo, các tỳ-kheo bạch sự việc lên đức Phật. Đức Phật nhóm họp hai bộ tăng, rồi dùng vô số cách thức, lời lẽ quở trách tỳ-kheo-ni Ủy-thứ xong bảo các tỳ-kheo-ni cho phép tăng bạch tứ yết-ma quở trách Ủy-thứ. Ni chúng hãy làm phép yết-ma quở trách:
“Đại tỷ tăng chú ý nghe cho! Tỳ-kheo-ni Ủy-thứ biết tỳ-kheo Xiển-đà bị tăng cử tội đúng pháp, đúng luật, như lời Phật dạy mà không thuận theo, không sám hối, tăng chưa cho cộng trú, mà cô ấy cứ thuận theo tỳ-kheo Xiển-đà. Các tỳ-kheo-ni can gián: “Tỳ-kheo Xiển-đà bị tăng cử tội đúng pháp, đúng luật, như lời Phật dạy mà không thuận theo, không sám hối, tăng chưa cho cộng trú, chị chớ theo vị ấy” nhưng tỳ-kheo-ni ấy vẫn cố theo. Nếu tăng đến đúng lúc, xin chú ý nghe cho! Nay tăng làm yết-ma quở trách tỳ-kheo-ni Ủy-thứ khiến bỏ việc ấy. Tác bạch như vậy.
“Đại tỷ tăng chú ý nghe cho! … (như trên) khiến bỏ việc ấy. Ai bằng lòng tăng quở trách tỳ-kheo-ni Ủy-thứ khiến bỏ việc ấy thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. (3 lần)
Tăng đã bằng lòng quở trách tỳ-kheo-ni Ủy-thứ khiến bỏ việc ấy. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này tôi xin ghi nhận như vậy.
Bạch tứ yết-ma xong, đến bạch tỳ-kheo, các tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Phật bảo các tỳ-kheo: “Nếu có tỳ-kheo-ni thuận theo tỳ-kheo-ni đã bị tăng cử tội, thì tăng cũng bạch tứ yết-ma quở trách như vậy. Giới này kết như thế.
PHẠM TƯỚNG
Ba-la-di, hội đủ tám yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Tỳ-kheo-ni bị tăng cử tội chưa làm phép yết-ma cộng trú.
+ Biết rõ.
+ Thuận theo.
+ Được can ngăn.
+ Không nghe theo.
+ Can ngăn đúng pháp.
+ Ba lần yết-ma xong.
Thâu-lan-giá
+ Yết-ma lần hai xong chịu bỏ phạm ba thâu-lan-giá.
+ Yết-ma lần một xong chịu bỏ phạm hai thâu-lan-giá.
Đột-kiết-la
+ Tác bạch xong mà bỏ phạm đột-kiết-la.
+ Thuận theo lúc chưa tác bạch cả hai phạm đột-kiết-la.
+ Tỳ-kheo-ni cúng dường vật dụng phạm đột-kiết-la.
KHÔNG PHẠM
+ Mới can ngăn đã bỏ.
+ Trước khi thực hành quở trách.
II. TRỊ PHẠT NGƯỜI PHẠM BA-LA-DI
Tỳ-kheo-ni phạm vào một trong tám giới này, xét có ba trường hợp:
1. Trường hợp phạm mà che giấu
Tỳ-kheo-ni phạm tội sau đó được tăng phát hiện và tỳ-kheo-ni ấy xác nhận tội trạng (nếu che giấu thì tăng sẽ làm pháp yết-ma ức-niệm để vị ấy nhớ lại tội phạm của mình). Sau khi vị ấy xác nhận tội trạng rồi, tăng tập hợp tác pháp yết-ma đuổi hẳn ra khỏi chúng. Hiện đời người này không được xuất gia làm tỳ-kheo-ni trở lại và khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục chịu khổ thiêu đốt. Khi tác pháp xong, vị thiền chủ mời vị đó vào an ủi, khuyến khích vị đó tìm nơi thanh vắng nổ lực tụng kinh, trì chú, lễ sám hối để tội chướng sớm tiêu dần.
2. Trường hợp phạm mà phát lồ ngay
Tỳ-kheo-ni phạm một trong tám pháp ba-la-di, muốn ở lại trong Phật pháp, không muốn rời pháp phục, không có tâm che giấu, mà thực tâm phát lồ sám hối. Liền đến trước đại Tăng thanh tịnh ba phen khất cầu pháp yết-ma trừ tội. Sau khi được đại tăng yết-ma trao giới ba-la-di được gọi là “tỳ-kheo-ni học giới”. Đương sự trọn đời phải tuân theo lời chỉ giáo của chúng Tăng, mỗi việc phải tùy thuận và thực hành ba mươi lăm pháp.
Do sự thiết tha phát lồ sám hối nên có công năng ngăn cản khỏi sa vào địa ngục, tuy nhiên hiện đời vẫn phải chịu sanh tử luân hồi, không chứng được tứ thánh quả, cũng không chứng được những pháp vô lậu. Mặc dù người này cùng với chúng tăng sống chung một chỗ, nhưng vẫn cách xa muôn dặm. Chỉ được dự vào hai phép yết-ma của tăng là bố-tát và tự-tứ, nhưng đối với yết-ma bố-tát thì chỉ với tinh thần dự thính. Khi ngồi phải ngồi dưới tỳ-kheo-ni nhỏ nhất và phải cẩn mật giữ gìn tám pháp này trọn đời không cho trái phạm.
3. Trường hợp tái phạm Ba-la-di
Khi được trao học pháp ba-la-di mà phạm lại một trong tám giới trên, tăng sẽ tác pháp yết-ma đuổi hẳn ra khỏi chúng. Suốt đời không được xuất gia trở lại, sau khi chết sẽ chịu cảnh thiêu đốt khổ sở nơi địa ngục.
PHÂN TÍCH GIỚI TƯỚNG TỲ KHEO NI
Chương 2
TĂNG TÀN (SANGHAVASENA)
Tăng-tàn nói cho đủ là tăng-già-bà-thi-sa, Phạn ngữ Sanghavasena. Tăng-già dịch là tăng, bà-thi-sa dịch là tàn. Tỳ-kheo-ni phạm vào một trong mười bảy giới này như người ra trận bị trọng thương sắp chết, như bị chặt đầu còn sót lại yết hầu, có thể cứu chữa được. Cốt yếu là phải nương vào bốn vị tỳ-kheo và bốn vị tỳ-kheo-ni thanh tịnh mà thực hiện biện pháp sám hối và phải hội đủ hai mươi vị tỳ-kheo và hai mươi vị tỳ-kheo-ni thanh tịnh tác pháp xuất tội thì tội tăng-tàn mới giải khỏi. Trường hợp không sám hối sẽ bị đọa vào địa ngục Đại-khiếu-oán chịu khổ không dứt.
Nhóm tội này gồm mười bảy điều giới, chia làm hai phần:
Phần một: Gồm chín giới đầu, liên hệ đến cá nhân của tỳ-kheo-ni nên hội đủ các yếu tố liền phạm tội.
Phần hai: Gồm tám giới sau, hành vi có liên hệ đến tăng, cho nên nếu không nghe theo sự can thiệp và phán quyết của tăng mới kết thành tội.
I. PHÂN TÍCH ĐIỀU GIỚI
ĐIỀU GIỚI 1: Làm mai mối
Nếu tỳ-kheo-ni làm mai mối, đem lời người nam nói với người nữ, đem lời người nữ nói với người nam, hoặc thành việc vợ chồng, hoặc làm việc tư thông cho đến trong giây phút, phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật ở thành Vương-xá, tại núi Linh-thứu. Trong thành có tỳ-kheo Ca-la vốn là vị quan lớn khéo biết pháp thế tục. Tỳ-kheo này thường làm việc mai mối giới thiệu người nam với người nữ và ngược lại giới thiệu người nữ với người nam. Những cặp thành vợ chồng sống hạnh phúc thì vui vẻ cúng dường, những cặp vợ chồng cơm không lành canh không ngọt thì oán giận, chê trách tỳ-kheo Ca-la. Những người không tin tam-bảo chê bai tỳ-kheo mà còn đi làm mai mối. Các tỳ-kheo biết được bạch việc này lên đức Phật. Nhân đây Phật nhóm các tỳ-kheo lại rồi quở trách tỳ-kheo Ca-la rồi chế điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Nhận lời làm trung gian cho hai bên giữa người nam và người nữ.
+ Đối tượng là người nam, người nữ.
+ Lời nói rõ ràng.
+ Việc làm mai mối thành tựu.
+ Hai bên giao hợp dù trong chốc lát.
Thâu-lan-giá
+ Đã nhận lời bên này qua nói bên kia, sau đó không về báo lại.
+ Thiếu một trong sáu yếu tố trên.
Đột-kiết-la
+ Gặp nam nữ lớn lên khuyên lập gia đình.
+ Nhận lời mai mối, nhưng không nói lại cho hai bên.
+ Không nhận lời mai mối sau đó chỉ đến nói một bên.
KHÔNG PHẠM
Hai bên thuận ý với nhau đến chùa làm lễ hằng thuận.
ĐIỀU GIỚI 2: Vu khống tỳ-kheo-ni khác phạm ba-la-di mà không có căn cứ
Nếu tỳ-kheo-ni vì giận hờn, không ưa thích, muốn phá hạnh thanh tịnh của cô khác, bèn đem tội ba-la-di không căn cứ vu khống. Khi khác, hoặc có người hỏi, hoặc không ai hỏi, biết là việc không căn cứ, nói tôi vì sân hận nên nói như vậy. Tỳ-kheo-ni nào nói như vậy phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ, đức Phật đang ngự tại núi Kỳ-xà-quật, nơi thành Vương-xá. Khi ấy tôn giả Đạp-bà-ma-la-tử là thái tử của đức vua Ba-ba xuất gia năm bảy tuổi, lúc thế phát tóc ngài vừa rơi xuống tới đất là Ngài chứng quả A-la-hán, năm hai mươi tuổi thọ giới cụ túc được tăng yết-ma làm tri sự trong chúng, trông coi việc phân chia đồ vật và sắp xếp việc đi thọ trai của chư tăng. Một hôm, tỳ-kheo Từ-địa thuộc hàng hạ tọa đến sau, theo thứ lớp nhận tọa cụ và phòng xấu nên sanh tâm bất mãn. Sáng hôm sau, theo thứ lớp sắp xếp của tôn giả Đạp-bà, Từ-địa đến nhà cư sĩ nhận phần thức ăn không ngon nên nghĩ tôn giả Đạp-bà có tâm riêng tư, ai mà Đạp-bà thích thì được ở phòng tốt và nhận thức ăn ngon, còn ta Đạp-bà không thích nên sắp ở phòng xấu lại thức ăn dở. Thế rồi Từ-địa nhờ em gái là tỳ-kheo-ni Từ-mi vu khống trước đức Phật và chúng tăng rằng tôn giả Đạp-bà đã phạm giới trọng với cô. Đức Thế Tôn sai các thầy tỳ-kheo mời tôn giả Đạp-bà và Từ-địa đến, qua việc tra hỏi. Tỳ-kheo Từ-địa thú nhận vì giận hờn mà vu khống tôn giả Đạp-bà. Đức Phật nhóm các tỳ-kheo lại rồi quở trách tỳ-kheo Từ-địa rồi chế điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ bảy yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có tâm thù hận người.
+ Có ý định hủy hoại phạm hạnh của tỳ-kheo-ni.
+ Đối tượng vu khống là tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Nội dung vu khống là một trong tám giới ba-la-di.
+ Nói thành lời.
+ Người nghe hiểu rõ.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
Nói đúng sự thật, nói giỡn, nói nhầm.
ĐIỀU GIỚI 3: Mượn chi tiết nhỏ của sự việc khác để vu khống tỳ-kheo-ni phạm ba-la-di
Nếu tỳ-kheo-ni giận hờn, không ưa thích muốn ở trong các việc khác, lấy chút duyên cớ rồi đem tội ba-la-di không căn cứ mà vu báng. Khi khác, hoặc có người hỏi, hoặc không ai hỏi, biết là trong việc khác mà viện chút cớ. Tỳ-kheo-ni ấy tự nhận rằng: “Tôi vì sân hận nên nói như vậy” phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Do bị Phật quở trách giữa chúng tăng, tỳ-kheo Từ-địa càng căm tức, một hôm từ trên núi Linh-thứu đi xuống nhìn thấy dê đực hành dâm cùng với dê cái, hình ảnh này khiến Từ-địa liên tưởng tôn giả Đạp-bà-ma-la-tử và tỳ-kheo-ni Từ-mi. Ngài đến tuyên bố trong tăng lần này chính mắt tôi trông thấy hai người giao hợp với nhau. Các tỳ-kheo nghe nói liền gạn hỏi, Từ-địa thuật lại sự việc, các tỳ-kheo bạch lên đức Thế Tôn, đức Thế Tôn dùng vô số phương tiện quở mắng Từ-địa rồi nhóm chúng lại kết điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ bảy yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có tâm thù hận người.
+ Có ý định hủy hoại phạm hạnh của tỳ-kheo-ni.
+ Đối tượng vu khống là tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Nội dung dựa vào chi tiết nhỏ trong sự việc khác mà vu khống tỳ-kheo-ni phạm ba-la-di.
+ Đã nói thành lời.
+ Có người nghe hiểu.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
Nói đúng sự thật, nói giỡn, nói nhầm
ĐIỀU GIỚI 4: Đến cửa quan thưa kiện người khác
Nếu tỳ-kheo-ni đến quan thưa kiện cư sĩ, hoặc con cư sĩ, kẻ tôi tớ, người làm thuê, hoặc ngày đêm trong khoảnh khắc, trong khải móng tay, trong giây phút phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Phật tại thành Xá-vệ, có một vị thí chủ xây ngôi tinh xá cúng dường cho tỳ-kheo-ni tăng an trú. Về sau có việc nên các vị tỳ-kheo-ni này bỏ đi, vị cư sĩ đó cũng qua đời. Con của vị cư sĩ này nghĩ rằng các vị tỳ-kheo-ni này đã bỏ đi, cha mình cũng đã chết mình là người thừa kế nên có quyền làm ruộng trên mãnh đất đó. Thời gian sau các tỳ-kheo-ni về đòi lại miếng đất, hai bên không thỏa thuận được với nhau nên đưa đến quan. Quan xét xử và xung mãnh đất vào của công. Các tỳ-kheo-ni biết được việc này, trong đó có các tỳ-kheo-ni biết hổ thẹn quở trách vị tỳ-kheo-ni kia rồi bạch việc này lên các tỳ-kheo, chư tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Nhân đây Phật chế giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ năm yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Đến cửa quan thưa kiện.
+ Thưa kiện cư sĩ tại gia.
+ Dùng lời kể lại sự việc.
+ Quan xử kiện ghi chép sự việc.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
Tỳ-kheo-ni bị đòi đến chỗ quan, hoặc có việc muốn đến trình bày, hoặc bị nạn có thể nguy hiểm đến phạm hạnh.
ĐIỀU GIỚI 5: Thế độ cho người nữ trộm cướp
Nếu tỳ-kheo-ni trước biết cô gái gian bị tội đáng chết, mọi người đều biết mà không hỏi vua, đại thần, không hỏi dòng họ, liền độ cho xuất gia, cho thọ giới cụ túc phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Phật tại giảng đường Lâm-các, bên bờ sông Thắng-huệ, nơi thành Tỳ-xá-ly, có một nữ tướng cướp đang bị truy đuổi liền chạy vào trong chùa xin xuất gia làm tỳ-kheo-ni. Qua việc tìm kiếm, biết nữ tướng cướp giờ đã làm tỳ-kheo-ni. Các vị cư sĩ chê trách các tỳ-kheo-ni. Các tỳ-kheo-ni biết hổ thẹn bạch việc này lên các tỳ-kheo, chư tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Nhân đây Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Là nữ tướng cướp đáng tội chết.
+ Biết là nữ tướng cướp.
+ Không hỏi vua và các quan.
+ Thế độ xuất gia và cho thọ giới cụ túc.
+ Yết-ma thành tựu.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
Không biết hoặc có bạch với dòng họ của vua, của các quan; hoặc người đó đáng tội chết mà vua cho phép xuất gia.
ĐIỀU GIỚI 6: Không hỏi chư tăng mà giải tội ở bên ngoài giới
Nếu tỳ-kheo-ni biết tỳ-kheo-ni kia bị chúng tăng cử tội như pháp, như luật, như lời Phật dạy, mà không thuận theo, chưa sám hối, chúng tăng chưa cho làm pháp yết-ma ở chung, nhưng vì tình thương không hỏi chúng tăng, chúng tăng không dạy bảo, cô lại ra ngoài giới làm phép yết-ma giải tội cho tỳ-kheo-ni kia như thế phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ngự tại vườn trưởng giả Cấp-cô-độc, thuộc thành Xá-vệ. Bấy giờ tỳ-kheo-ni Ủy-thứ phạm nhiều lỗi, ni tăng cử tội mà không nghe theo nên bị ni tăng làm pháp yết-ma không cho ở chung. Khi ấy, tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà không bạch với ni Tăng mà ra ngoài giới làm pháp yết-ma giải tội cho tỳ-kheo-ni Ủy-thứ. Các tỳ-kheo-ni biết hổ thẹn quở trách Thâu-la-nan-đà xong rồi bạch việc này lên các tỳ-kheo, chư tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Nhân đây Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ năm yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Bị tăng cử tội nhưng chưa làm phép yết-ma cộng trụ.
+ Biết rõ sự việc.
+ Liền ra ngoài giới làm yết-ma giải tội.
+ Ba lần yết-ma xong.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
- Có bạch với chư tăng, hoặc đã sám hối mà chư tăng vì giận tức nên không giải tội cho họ người ấy giải tội thì không phạm.
- Trước chư tăng đã làm pháp yết-ma cho rồi, hoặc chư tăng này dời đi, hoặc qua đời… người ấy giải tội cho thì không phạm.
ĐIỀU GIỚI 7: Bốn trường hợp một mình
Nếu tỳ-kheo-ni lội qua chỗ nước sâu một mình, vào trong làng một mình, ngủ một mình, đi sau một mình phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ngự tại vườn trưởng giả Cấp-cô-độc, thuộc thành Xá-vệ. Khi ấy có vị tỳ-kheo-ni nhan sắc xinh đẹp vén cao y lội qua sông một mình. Bên bờ sông có tên cướp đứng chờ sẳn liền đến ôm cô định làm việc bất tịnh. Các cư sĩ thấy vậy chê trách các tỳ-kheo-ni.
Lại có tỳ-kheo-ni Sai-ma, chùa có nuôi nhiều đệ tử. Nhân lúc có việc sư cô đi vào làng một mình, các cư sĩ thấy vậy cùng nhau nói rằng: “Sở dĩ tỳ-kheo-ni Sai-ma này đi một mình là muốn kiếm trai”.
Bấy giờ, tại nước Câu-tát-la các tỳ-kheo-ni đi trong đồng trống. Nhóm sáu vị tỳ-kheo-ni (trong đó có tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà) thường đi phía sau. Các tỳ-kheo-ni nói rằng: “Các chị nên đi cùng chúng tôi vì đức Thế Tôn đã chế giới cấm không được đi sau”. Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà nói rằng: “Chúng tôi đi sau là muốn kiếm trai”.
Các tỳ-kheo-ni nghe việc này, trong đó có những vị biết hổ thẹn quở trách Thâu-la-nan-đà xong rồi bạch việc này lên các tỳ-kheo, chư tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Nhân đây Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Phạm Tăng-tàn, có bốn trường hợp:
1. Trường hợp lội qua sông một mình, hội đủ năm yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Là sông.
+ Lội qua một mình.
+ Không có nhân duyên.
+ Lội một mình đến bờ.
2. Trường hợp vào xóm làng một mình, hội đủ năm yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Vào xóm làng.
+ Đi một mình.
+ Không có nhân duyên.
+ Vượt qua ranh giới.
3. Trường hợp ngủ một mình, hội đủ bốn yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Ngủ ở chỗ đưa thẳng tay không đụng người khác.
+ Không có nhân duyên.
+ Hễ nằm một lần là phạm một tội.
4. Trường hợp đi sau một mình, hội đủ ba yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Cố tình đi ở chỗ bạn đồng hành không thấy, không nghe.
+ Bạn không có nạn duyên.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
Có duyên sự cần đi một mình thì không phạm.
ĐIỀU GIỚI 8: Thọ nhận y phục, thức ăn của người nam có tâm nhiễm ô
Nếu tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô, biết người nam có tâm nhiễm ô mà theo họ nhận đồ ăn và các vật khác phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật trú tại thành Xá-vệ, khi ấy gặp lúc lúa gạo mất mùa, lúa gạo khang hiếm, việc khất thực khó khăn. Bấy giờ có vị Tỳ-kheo-ni Đê-xá-nan-đà thường đến khất thực ở nhà người buôn bán và nhận được thức ăn ngon. Vào ngày khác tỳ-kheo-ni Đê-xá-nan-đà đến khất thực, người buôn nghĩ rằng số thức ăn mà ông ta cúng cho vị tỳ-kheo-ni này đáng giá 500 đồng tiền đủ để cưới một cô gái, thế rồi gã ôm tỳ-kheo-ni này định hành dâm. Đê-xá la to, mọi người xung quanh biết chuyện hỏi cô có biết ý định của ông ta hay không? Cô trả lời biết. Mọi người nói đã biết rồi sao còn la to thế. Các tỳ-kheo-ni biết được việc này, trong đó có vị biết hổ thẹn quở trách Đề-xá và thưa việc này lên các tỳ-kheo, chư tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Nhân đây Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Đối tượng là người nam.
+ Nghĩ là người nam.
+ Có tâm nhiễm ô cúng dường y phục, thức ăn.
+ Biết người nam có tâm nhiễm ô, cúng dường y phục, thức ăn.
+ Đưa tay thọ nhận.
Thâu-lan-giá
Tỳ-kheo-ni không có tâm nhiễm ô, nghi ngờ người nam có tâm nhiễm ô mà thọ nhận thức ăn.
Tỳ-kheo-ni không có tâm nhiễm ô, tưởng người nam có tâm nhiễm ô mà thọ nhận thức ăn.
Tỳ-kheo-ni không có tâm nhiễm ô, nghe người nam không có tâm nhiễm ô mà thọ nhận thức ăn.
KHÔNG PHẠM
Người nam không có tâm nhiễm ô, một lòng thành kính.
ĐIỀU GIỚI 9: Xúi giục thọ nhận y phục, thức ăn của người nam có tâm nhiễm ô
Nếu tỳ-kheo-ni dạy tỳ-kheo-ni khác rằng: “Đại tỷ, người nam kia có tâm nhiễm ô hay không cũng mặc họ miễn mình không nhiễm thì thôi, nếu khi được thức ăn đúng thời thanh tịnh thì cứ thọ”. Dạy như vậy phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật trú tại thành Xá-vệ, vườn trưởng giả Cấp-cô-độc. Khi ấy gặp lúc lúa gạo khang hiếm, việc khất thực khó khăn. Tỳ-kheo-ni Đề-xá mang bát vào thành khất thực phải về không. Các tỳ-kheo-ni liền hỏi chị thường về với chiếc bát đầy hôm nay sao lại phải về không? Tỳ-kheo-ni Đề-xá trả lời: “Trước tôi thường đến nhà người buôn bán ấy nên được cúng đầy đủ thức ăn, từ khi biết người đó có nhiễm tâm tôi không đến nhà người ấy nữa nên phải về không”.
Nhóm sáu vị tỳ-kheo-ni khuyên rằng: “Dù cho người đó có tâm nhiễm ô cũng đâu làm gì được cô. Chính cô không có tâm nhớp bẩn là được”. Nếu đến đó mà được thức ăn thì cứ nhận với tâm thanh tịnh. Các tỳ-kheo-ni biết được việc này, trong đó có vị biết hổ thẹn bạch việc này lên các tỳ-kheo, chư tỳ-kheo bạch lên đức Phật. Nhân đây đức Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tố:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Đối tượng là người nam.
+ Bố thí thức ăn với tâm nhiễm ô.
+ Biết người ấy bố thí thức ăn với tâm nhiễm ô.
+ Nói lời xúi giục bảo thọ nhận.
+ Nói rõ ràng.
Thâu-lan-giá
Không hội đủ các yếu tố của tăng-tàn.
KHÔNG PHẠM
Hoặc nói chơi, nói một mình, nói trong chiêm bao; muốn nói việc này mà nói nhầm qua việc khác.
ĐIỀU GIỚI 10: Phá tăng không nghe lời can ngăn
Nếu tỳ-kheo-ni muốn phá hoại hòa hợp tăng. Phương tiện thọ việc phá tăng giữ chặt không bỏ tỳ-kheo-ni bạn phải nên can gián tỳ-kheo-ni này rằng “Xin chị chớ phá hòa hợp tăng, phương tiện phá hòa hợp tăng, thọ việc phá tăng, giữ chặt không bỏ, chị phải cùng với chúng tăng hòa hiệp vui vẻ không đua tranh, đồng học một thầy như sữa hòa với nước, ở trong Phật pháp mới có sự ích an vui”. Khi can như vậy mà tỳ-kheo-ni ấy quyết định không bỏ. tỳ-kheo-ni kia phải can gián ba lần khiến bỏ việc đó. Can ba lần bỏ thì tốt, nếu không bỏ, phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Bấy giờ đức Thế Tôn ngự trên núi Kỳ-xà-quật, thành Vương-xá. Lúc này mùa màng thất thu nên việc khất thực gặp khó khăn. Đề-bà-đạt-đa là em chú bác với Phật, theo Phật xuất gia. Vốn bản tánh thông minh lại học được phép thần thông nên thường lấy thức ăn ngon và trái cây tốt mang về cho các vị khác rất là vui thích. Đề-bà khuyến dụ thái tử A-xà-thế và một số vị tỳ-kheo trẻ nghe theo. Sau đó rồi liền đến bạch lên đức Phật xin Phật trao phó quyền lãnh chúng. Đức Phật quở trách, Đề-bà-đạt-đa sanh bất mãn lại xúi giục A-xà-thế giam vua cha vào ngục thất đến khi chết và dùng voi sai hại Phật nhưng không thành. Đề-bà-đạt-đa lại lên núi lăn đá hại Phật. Tiếng xấu ác đồn xa nên việc khất thực gặp trở ngại, ông kết hợp với bốn tỳ-kheo đi khất thực ăn riêng, Phật cấm không được ăn riêng chúng. Lòng Đề-bà-đạt-đa càng phẩn nhuế, oán thù thề “Phá nát Tăng luân để khi chết còn được nổi tiếng”. Do vậy ông bèn chế ra năm pháp:
+ Suốt đời mặc y phấn tảo.
+ Suốt đời khất thực để sống.
+ Suốt đời ở trong rừng.
+ Suốt đời không ăn muối và sữa.
+ Suốt đời không ăn cá thịt.
Các vị tỳ-kheo mới xuất gia chưa hiểu biết nên tin theo. Chư tỳ-kheo bạch việc này lên Phật. Đức Phật nhóm các tỳ-kheo lại nói: “Phá hòa hiệp Tăng phạm đại trọng tội”, sau đó Phật quở trách rồi khiến Tăng bạch tứ yết-ma, tác pháp ha gián rồi chế giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn
Giới này gồm hai điểm là phá hòa hợp tăng và cưỡng lại sự can gián của tăng nên phải hội đủ các yếu tố căn bản:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có chủ tâm phá hòa hợp tăng.
+ Đã và đang tiến hành, vận động mọi hình thức phá tăng.
+ Đã có lời khuyên can của tăng mà không từ bỏ ý định.
+ Phạm tăng-tàn sau khi yết-ma lần thứ ba xong.
Thâu-lan-giá
+ Chịu bỏ sau lần yết-ma thứ nhất phạm một thâu-lan-giá
+ Chịu bỏ sau yết-ma lần hai phạm hai thâu-lan-giá
Đột-kiết-la
+ Phạm một đột-kiết-la, chịu bỏ sau khi một tỳ-kheo-ni can gián.
+ Phạm hai đột-kiết-la, chịu bỏ sau khi hai hoặc ba tỳ-kheo-ni can gián.
+ Phạm ba đột-kiết-la, chịu bỏ sau khi tác bạch để tác pháp yết-ma.
KHÔNG PHẠM
+ Bỏ trước khi can gián.
+ Tác yết-ma phi pháp mà chúng hòa hợp.
+ Tác yết-ma như pháp mà chúng không hòa hợp.
+ Bỉnh pháp không như pháp, như luật, như lời Phật dạy.
ĐIỀU GIỚI 11: Giúp sức cho người phá tăng chống lại lời can ngăn
Nếu tỳ-kheo-ni có phe đảng từ một, hoặc hai, hoặc ba đến vô số tỳ-kheo-ni bảo tỳ-kheo-ni kia rằng “Chị chớ can tỳ-kheo-ni ấy, tỳ-kheo-ni ấy là tỳ-kheo-ni nói pháp, nói luật nói chi chúng tôi cũng nghe, ưng chịu, ưa thích. Vì sao? Vì tỳ-kheo-ni ấy chẳng phải nói pháp, nói luật, chị chẳng nên phá hòa hợp tăng, chị phải vui vẻ, muốn tăng hòa hợp chị phải cùng với chúng tăng hòa hợp, vui vẻ không rầy rà, đồng học một thầy như sữa hòa với nước, ở trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui”. Khi can như thế mà tỳ-kheo-ni đó quyết định không bỏ, tỳ-kheo-ni kia phải can ba lần cho bỏ việc ấy. Can ba lần bỏ thì tốt, nếu không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Khi đức Phật ở núi Linh-thứu, lúc ấy Đề-bà-đạt-đa là người cố tình đưa ra năm điều:
1. Suốt đời mặc y phấn tảo.
2. Suốt đời khất thực để sống.
3. Suốt đời ở trong rừng.
4. Suốt đời không ăn muối và sữa.
5. Suốt đời không ăn cá thịt.
Các tỳ-kheo nói với Đề-bà-đạt-đa rằng: “Thầy chớ phá hoại sự hòa hợp của tăng, đừng giữ pháp phá tăng khư khư không chịu dứt bỏ. Vì sao? Vì hòa hợp với tăng vui vẻ không tranh chấp, như nước hòa tan với sữa thì sẽ được sống một cách an vui trong Phật pháp”.
Những tỳ-kheo theo Đề-bà-đạt-đa nói lại với các tỳ-kheo kia rằng: “Thầy chớ quở trách lời do Đề-bà-đạt-đa nói, vì Đề-bà-đạt-đa là tỳ-kheo nói đúng pháp, đúng luật, chúng tôi chấp nhận những lời nói đó”.
Khi nghe nhóm tỳ-kheo theo Đề-bà-đạt-đa nói như vậy, các tỳ-kheo quở trách và đem việc này trình lên Phật. Đức Phật liền chế ra điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ năm yếu tố căn bản:
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Có chủ tâm phá hòa hợp tăng.
+ Đã và đang tiến hành, vận động mọi hình thức phá tăng.
+ Đã có lời khuyên can của tăng mà không từ bỏ ý định.
+ Phạm tăng-tàn sau khi yết-ma lần thứ ba xong.
Thâu-lan-giá
+ Chịu bỏ sau lần yết-ma thứ nhất phạm một thâu-lan-giá
+ Chịu bỏ sau yết-ma lần hai phạm hai thâu-lan-giá
Đột-kiết-la
+ Phạm một đột-kiết-la, chịu bỏ sau khi một tỳ-kheo-ni can gián.
+ Phạm hai đột-kiết-la, chịu bỏ sau khi hai hoặc ba tỳ-kheo-ni can gián.
+ Phạm ba đột-kiết-la, chịu bỏ sau khi tác bạch để tác pháp yết-ma.
KHÔNG PHẠM
+ Bỏ trước khi can gián.
+ Tác yết-ma phi pháp mà chúng hòa hợp.
+ Tác yết-ma như pháp mà chúng không hòa hợp.
+ Bỉnh pháp không như pháp, như luật, như lời Phật dạy.
ĐIỀU GIỚI 12: Làm mất tín tâm của người, bị đuổi, sinh ra phỉ báng, không nghe lời can ngăn
Nếu tỳ-kheo-ni nương ở trong thành ấp, hoặc xóm làng làm hạnh xấu nhơ nhà người, làm hạnh xấu ai cũng thấy, cũng nghe; nhơ nhà người ai cũng thấy cũng nghe, các tỳ-kheo-ni can tỳ-kheo-ni ấy rằng: “Chị làm hạnh xấu nhơ nhà người ai cũng thấy cũng nghe, nay hãy bỏ xóm ấy đi, không nên ở đấy nữa”. Tỳ-kheo-ni đó lại nói: “Chị à, các tỳ-kheo-ni có thương, có giận, có sợ, có si, có người đồng tội như tôi, sao người đuổi người không đuổi”. Các tỳ-kheo-ni phải can rằng: “Chị chớ nói các tỳ-kheo-ni có thương, giận, sợ, si, có người đồng tội như chị mà người đuổi người không đuổi. Vì sao? Vì các tỳ-kheo-ni có thương giận sợ si, cũng không ai đồng tội như chị mà đuổi hay không đuổi. Chị làm nhơ nhà người, làm hạnh xấu ai cũng thấy nghe”. Khi can như vậy mà tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ, các tỳ-kheo-ni phải can ba lần khiến bỏ việc ấy. Can ba lần bỏ thì tốt, nếu không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ, Phật ngự tại thành Xá-vệ, tại vườn Cấp-cô-độc. Vùng Kì-liên có hai tỳ-kheo tên là A-thấp-bà và Phú-na-bà-sa làm hạnh phi pháp. Hai vị này tự trồng hoa kiểng, hái hoa làm tràng biếu tặng cư sĩ và cùng phụ nữ ngồi chung một giường, ăn chung một bát, ca múa giỡn cười…
Bấy giờ các tỳ-kheo từ nước Ca-thi đến khất thực như pháp, các cư sĩ này thấy các tỳ-kheo không vui vẻ như hai tỳ-kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà-sa nên không cúng dường thức ăn, các tỳ-kheo hỏi ra mới biết sự việc bèn bạch lên đức Phật. Đức Phật sai hai tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến đó tác pháp yết-ma khu tẩn. Hai tỳ-kheo đó không chịu phục tùng còn nói “Các tỳ-kheo có yêu, có giận, có sợ, có si, có người đồng phạm, người bị đuổi, người không bị đuổi. Nay lại đuổi chúng tôi”. Hai tôn giả trở về bạch Phật, Phật bảo tăng bạch tứ yết-ma ha gián và chế điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ bảy yếu tố thành phạm
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Làm mất tín tâm của người, gây ra các việc xấu xa.
+ Tâm không sửa đổi.
+ Tăng làm yết-ma đuổi đi.
+ Hủy báng tăng một cách phi lý.
+ Tăng làm pháp can ngăn đúng pháp.
+ Sau yết-ma lần thứ ba.
Thâu-lan-giá
+ Phạm ba thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ hai thành tựu.
+ Phạm hai thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ nhất thành tựu.
+ Phạm một thâu-lan-giá, sau lời tác bạch.
Đột-kiết-la
Nếu hối cải trước khi lời tác bạch thành tựu.
KHÔNG PHẠM
Trồng hoa, kết hoa để cúng dường tam bảo.
ĐIỀU GIỚI 13: Có tính ngoan cố, chống đối chúng tăng, không nghe lời can ngăn
Nếu tỳ-kheo-ni có tánh ác không chịu nghe lời người can gián, các tỳ-kheo-ni y pháp mà can cô không nghe lại nói “Các chị đừng nói với tôi việc tốt việc xấu gì; tôi cũng không nói với các chị việc tốt xấu gì, các chị hãy thôi đi đừng can gián tôi nữa”. Các tỳ-kheo-ni phải can tỳ-kheo-ni ấy rằng “Chị chớ tự mình không nghe lời can gián, chị phải nghe theo lời can, chị cứ như pháp mà can gián các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni cũng như pháp mà can chị như thế, đệ tử của Phật nhờ can gián lẫn nhau, dạy bảo nhau, sám hối nhau, mới thêm nhiều lợi ích”. Khi can như vậy mà tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ. Phải can ba lần cho bỏ việc ấy, can ba lần bỏ thì tốt, không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ, đức Phật tại Câu-diệm-di, tinh-xá Cù-sư-la, tỳ-kheo Xiển-đà (Xa-nặc) phạm tội. Các tỳ-kheo đúng như luật muốn Xiển-đà sám hối để nhớ tội. Do bản tính ngoan cố hay cãi bướng, không chịu nghe lời khuyên của các tỳ-kheo đồng học. Đức Phật dạy các tỳ-kheo những biện pháp xử lý đối với những tỳ-kheo có bản tính như vậy. Nhân đây Phật chế điều giới này cho các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tốt thành phạm
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Tự mình không thể dứt bỏ tánh ngang bướng định gây ra việc ác.
+ Các tỳ-kheo-ni chân chính đúng như pháp khuyên bảo can ngăn.
+ Không chịu nghe lời can ngăn, tự ỷ mình, lăng nhục người khác.
+ Chư tăng đúng như pháp can ngăn.
+ Sau yết-ma lần thứ ba.
Thâu-lan-giá
+ Phạm ba thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ hai thành tựu.
+ Phạm hai thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ nhất thành tựu.
+ Phạm một thâu-lan-giá, sau lời tác bạch.
Đột-kiết-la
Nếu hối cải trước khi lời tác bạch thành tựu.
KHÔNG PHẠM
Lúc mới khuyên liền bỏ, hoặc nói việc này nhằm sang việc khác, hay nói chơi.
ĐIỀU GIỚI 14: Che giấu cho nhau làm những điều xấu xa
Nếu tỳ-kheo-ni cùng nhau ở chung làm hạnh ác tiếng xấu đồn vang, lại dấu tội nhau. Tỳ-kheo-ni kia phải can tỳ-kheo-ni ấy rằng: “Các chị chớ ở chung làm hạnh ác, tiếng xấu đồn vang lại dấu tội cho nhau, các chị nếu không ở chung, thì ở trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui”. Khi can như vậy mà tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ, tỳ-kheo-ni ấy phải can ba lần cho bỏ việc đó, can ba lần bỏ thì tốt, nếu không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Bấy giờ, đức Phật ngự tại vườn trưởng giả Cấp-cô-độc, thành Xá-vệ hai tỳ-kheo-ni Tô-ma và Bà-phả-di thường sống với nhau và làm những việc xấu xa, tiếng xấu đồn vang khắp nơi, hai vị này không chịu sửa lỗi mà tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Các tỳ-kheo-ni nghe biết việc này, trong đó có những vị biết hổ thẹn liền quở trách Tô-ma và Bà-phả-di đồng thời bạch lên các tỳ-kheo, các tỳ-kheo bạch lên đức Thế Tôn. Nhân việc này đức Phật nhóm hai bộ tăng, dùng mọi cách thức, lời lẽ quở mắng hai vị tỳ-kheo-ni này và chế ra điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, cần hội đủ sáu duyên
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Làm việc xấu xa rồi che giấu.
+ Can ngăn ở chỗ khuất.
+ Can ngăn đúng như pháp.
+ Không chịu nghe lời can ngăn.
+ Sau yết-ma lần thứ ba.
Thâu-lan-giá
+ Phạm ba thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ hai thành tựu.
+ Phạm hai thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ nhất thành tựu.
+ Phạm một thâu-lan-giá, sau lời tác bạch.
Đột-kiết-la
Nếu hối cải trước khi lời tác bạch thành tựu.
KHÔNG PHẠM
Lúc mới khuyên liền bỏ, hoặc can ngăn không đúng pháp riêng chúng, hoặc quở trách không đúng pháp; tất cả không làm pháp quở trách can ngăn đều không phạm.
ĐIỀU GIỚI 15: Xúi giục người khác trái phạm qui định của tăng, không thực hành ở riêng
Nếu tỳ-kheo-ni biết tỳ-kheo-ni kia bị chúng Tăng quở trách lại dạy cô ấy rằng: “Các chị chớ ở riêng, cứ ở chung, tôi cũng thấy các tỳ-kheo-ni ở chung làm hạnh ác, tiếng xấu đồn vang, lại giấu tội cho nhau. Đây chúng tăng vì giận chị nên bảo chị ở riêng”. Các tỳ-kheo-ni nên can tỳ-kheo-ni ấy rằng: “Chị chớ dạy các tỳ-kheo-ni kia: “Các chị chớ ở riêng, tôi cũng thấy các tỳ-kheo-ni ở chung làm hạnh ác, tiếng xấu đồn vang, lại giấu tội nhau. Chúng tăng vì giận chị nên bảo ở riêng, nay kỳ thật chỉ có hai tỳ-kheo-ni ở chung làm hạnh xấu tiếng xấu, tiếng ác đồn vang, lại giấu tội nhau, chớ không có ai hết, nếu các chị ấy ở riêng thì trong Phật pháp được thêm lợi ích an vui”. Khi can như vậy mà tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ, các tỳ-kheo-ni phải ba lần can gián cho bỏ việc đó, can ba lần bỏ thì tốt, không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Đức Phật ngự tại vườn trưởng giả Cấp-cô-độc, thành Xá-vệ hai tỳ-kheo-ni Tô-ma và Bà-phả-di làm việc sai trái bị tăng quở trách, can ngăn. Lúc đó nhóm sáu vị tỳ-kheo-ni (trong đó có tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà) xúi giục hai vị tỳ-kheo-ni ấy rằng: “Các chị cứ việc ở chung, vì sao? Vì tôi thấy cũng có tỳ-kheo-ni khác ở chung, gần gủi với nhau, cũng cùng nhau làm những việc xấu xa, tiếng xấu đồn vang khắp nơi, cũng cùng che giấu tội lỗi cho nhau, chỉ vì tăng oán giận các chị nên bắt các chị ở riêng mà thôi”.
Các tỳ-kheo-ni nghe biết việc này, trong đó có những vị biết hổ thẹn liền quở trách nhóm sáu vị tỳ-kheo-ni và tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà đồng thời đem việc này trình lên các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni bạch lên đức Thế Tôn. Nhân việc này đức Phật nhóm hai bộ tăng, dùng mọi cách thức, lời lẽ quở trách nhóm sáu vị tỳ-kheo-ni và tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà và chế ra điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ bảy yếu tố
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Ni tăng đã làm phép quở trách, can ngăn người làm những việc xấu xa, che giấu cho nhau.
+ Xúi giục ở chung.
+ Khuyên bảo bằng những lời êm đẹp.
+ Không chịu nghe lời.
+ Can ngăn đúng pháp.
+ Sau yết-ma lần thứ ba.
Thâu-lan-giá
+ Phạm ba thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ hai thành tựu.
+ Phạm hai thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ nhất thành tựu.
+ Phạm một thâu-lan-giá, sau lời tác bạch.
Đột-kiết-la
Nếu hối cải trước khi lời tác bạch thành tựu.
KHÔNG PHẠM
Lúc mới nói liền bỏ, hoặc quở trách không đúng pháp, nói việc này nhằm sang việc khác, hay nói chơi.
ĐIỀU GIỚI 16: Nói lời khinh thường, xả bỏ tam bảo
Nếu tỳ-kheo-ni vì chút việc giận hờn không vui, vội nói rằng: “Tôi bỏ Phật, bỏ pháp, không những riêng hàng Thích-tử mới có sa môn, bên bà-la-môn cũng có nhiều sa-môn tu phạm hạnh, chúng tôi cũng có thể đến đó tu phạm hạnh”. Tỳ-kheo-ni ấy nói rằng: “Chị chớ vì chút việc giận hờn không vui mà nói bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng; không phải riêng đây mới có sa-môn mà bên bà-la-môn cũng có lắm bực phạm hạnh, ta cũng có thể đến đó tu phạm hạnh”. Khi can như vậy mà tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ. Nên can ba lần khiến cho bỏ, can ba lần bỏ thì tốt, không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Bấy giờ, đức Phật ngự tại vườn trưởng giả Cấp-cô-độc, thành Xá-vệ nhóm tỳ-kheo-ni sáu vị thường dựa vào một việc nhỏ giận tức không vui mà nói rằng: “Tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng bởi đâu chỉ có loại sa-môn Thích tử này mà còn có những bậc sa-môn bà-la-môn tu phạm hạnh khác. Chúng tôi cũng có thể tu tập theo họ”. Các tỳ-kheo-ni nghe biết sự việc, trong đó có những vị biết hổ thẹn liền quở trách nhóm tỳ-kheo-ni sáu vị này đồng thời bạch lên các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni bạch lên đức Thế Tôn. Nhân việc này đức Phật nhóm hai bộ tăng, dùng mọi cách thức, lời lẽ quở trách nhóm sáu vị tỳ-kheo-ni và chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tố
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Tức giận nói những lời xả bỏ tam-bảo.
+ Các tỳ-kheo-ni dùng lời mềm mỏng khuyên bảo can ngăn.
+ Tỳ-kheo-ni này không nghe lời can ngăn.
+ Chư tăng can ngăn đúng như pháp.
+ Sau yết-ma lần thứ ba thành tựu.
Thâu-lan-giá
+ Phạm ba thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ hai thành tựu.
+ Phạm hai thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ nhất thành tựu.
+ Phạm một thâu-lan-giá, sau lời tác bạch.
Đột-kiết-la
Nếu hối cải trước khi lời tác bạch thành tựu.
KHÔNG PHẠM
Lúc mới can ngăn liền bỏ, hoặc quở trách không đúng như pháp, hay nói việc này nhằm sang việc khác, hay nói chơi.
ĐIỀU GIỚI 17: Có tâm tức giận, làm não loạn chúng tăng
Nếu tỳ-kheo-ni ưa rầy rà mà không khéo ghi nhớ, lại nói rằng: “Chúng tăng có thương, giận, sợ, si”. Tỳ-kheo-ni phải can cô ấy rằng: “Chị chớ ham rầy rà, rồi không khéo ghi nhớ việc rầy rà, sau sân giận lại nói chúng tăng có thương, giận, sợ, si, mà thực ra chúng tăng đâu có như vậy”. Khi can như thế mà tỳ-kheo-ni ấy quyết không bỏ, tỳ-kheo-ni kia phải can ba lần cho bỏ việc ấy, can ba lần bỏ thì tốt, không bỏ phạm tăng-tàn.
DUYÊN KHỞI
Lúc bấy giờ, đức Phật ngự tại vườn Sư-la, thuộc nước Câu-thiểm-di-cù. Khi ấy, có tỳ-kheo-ni tên là Hắc ưa tranh chấp nhưng không ghi nhớ việc tranh chấp. Về sau giận tức nói rằng: “Chúng tăng thiên vị, có người thương, có người giận, có người sợ, có người si”. Các tỳ-kheo-ni nghe biết việc này, trong đó có những vị biết hổ thẹn liền quở trách tỳ-kheo-ni Hắc đồng thời trình bày việc này lên các tỳ-kheo-ni, các tỳ-kheo-ni bạch lên đức Thế Tôn. Nhân việc này đức Phật nhóm hai bộ tăng, dùng mọi cách thức, lời lẽ quở trách vị tỳ-kheo-ni Hắc và chế điều giới này cho các tỳ-kheo-ni.
PHẠM TƯỚNG
Tăng-tàn, hội đủ sáu yếu tố
+ Tỳ-kheo-ni như pháp.
+ Giận tức nói chư tăng có thiên vị, có người thì thương, có người thì giận, có người thì sợ, có người thì si.
+ Chư tăng dùng lời mềm mỏng can ngăn.
+ Không chịu nghe lời.
+ Chư tăng can ngăn đúng như pháp.
+ Sau yết-ma lần thứ ba thành tựu.
Thâu-lan-giá
+ Phạm ba thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ hai thành tựu.
+ Phạm hai thâu-lan-giá, sau yết-ma lần thứ nhất thành tựu.
+ Phạm một thâu-lan-giá, sau lời tác bạch.
Đột-kiết-la
Nếu hối cải trước khi lời tác bạch thành tựu.
KHÔNG PHẠM
Lúc mới khuyên bảo liền bỏ, hoặc nói việc này nhằm sang việc khác, hay nói chơi.
II. PHÁP SÁM HỐI TỘI TĂNG-TÀN
Nếu tỳ-kheo-ni phạm tội tăng-tàn nên đến trước hai bộ tăng và ni cầu xin nửa tháng pháp ma-na-đỏa. Hai bộ tăng mỗi bộ ít nhất cũng phải đủ số bốn vị, làm pháp yết-ma ma-na-đỏa buộc phải thực hành trong mười lăm ngày đêm để tâm ý chúng tăng được vui vẻ. Trường hợp không đủ thì không thể tác pháp được.
Trong thời gian này, vị phạm giới phải thực hành tất cả những việc nhọc nhằn mà chúng tăng giao phó bên trú xứ của tỳ-kheo-ni, xong cùng với một vị tỳ-kheo-ni làm bạn đến bên trú xứ của tăng để làm tất cả những việc cần làm như bên tỳ-kheo-ni. Nếu thấy khách tỳ-kheo-ni nào đến cũng đều phải bạch tội của mình và hạnh ma-na-đỏa đang làm cho đến khi chiều tối mới về lại bên chúng ni. Đồng thời phải nghiêm chỉnh chấp hành ba mươi lăm pháp như người học giới ba-la-di và phải thực hành thêm bảy việc:
1. Khi đến chùa khác, thấy tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nào phải bạch tội của mình và mình đang hành ma-na-đỏa.
2. Khi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni khách đến phải bạch.
3. Gặp tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ngoài giới cũng phải bạch.
4. Cùng chùa có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni đi tản bộ cũng phải bạch.
5. Đau bệnh nhờ tỳ-kheo-ni khác báo tin cho đại tăng xin được nghỉ.
6. Không được ở chung một nơi có hai ba tỳ-kheo-ni, phải ở trú xứ có bốn tỳ-kheo-ni thanh tịnh trở lên.
7. Phải thưa trước tăng mỗi kỳ bố-tát về tội mình phạm.
Sau mười lăm ngày đêm thực hành pháp ma-na-đỏa, vị này đến trước tăng xin pháp yết-ma xuất tội. Tăng sẽ tập hợp ít nhất hai mươi vị tỳ-kheo và hai mươi vị tỳ-kheo-ni tăng thanh tịnh để làm pháp yết-ma giải tội tăng-tàn cho vị đó. Sau khi xuất tội, vị này được phục hồi đầy đủ phẩm chất của vị tỳ-kheo-ni và trở lại sinh hoạt bình thường với chúng tăng.
Trường hợp trú xứ không đủ hai mươi tỳ-kheo và hai mươi vị tỳ-kheo-ni thì phải tìm đến trú xứ đủ túc số trên xin tác pháp yết-ma xuất tội; hoặc sau khi hành pháp ma-na-đỏa xong, có thể trở lại sinh hoạt bình thường với chúng tăng, nhưng tội tăng-tàn vẫn còn, tạm thời treo ở đó, chờ khi nào hội đủ túc số mới tác pháp xuất tội.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT=( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.4/7/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment