Thursday 29 May 2014

Phép Tắc Của Sa-Di - VNBET

vnbet.vn/luat-ma-ha.../phep-tac-cua-sa-di-2806.html
Ðó gọi là phép tắc của Hòa Thượng, A-xà-lê, đệ tử cọng trú và đệ tử y chỉ. ... thương yêu, khóc lóc khi Ngài sắp làm Chuyển Luân Vương mà bỏ nhà xuất gia, cho đến khi tôn giả La Hầu La xuất gia, các nhân duyên này đã được nói rõ những chỗ khác, nên Ngài nói với Xá-lợi-phất: .... Giới: Vô Cớ Vu Khống Người Khác.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Ngược lại với thế gian, người ta lượm lặt những hiểu biết của kẻ khác về làm trí tuệ thông minh của mình, còn trong đạo chúng ta loại bỏ hết những lăng xăng của tâm thức. Gạt bỏ tất cả lăng xăng thì tâm an định, tâm an định thì tánh giác hiện ra tròn đầy.
Đạo Phật chú trọng trí tuệ giải thoát hơn là ôm đồm trí thức
Trong đạo Phật, không chú trọng trí thức mà chú trọng trí tuệ, không nói học giả mà nói hành giả, không nói nhà bác học mà nói người được trí tuệ vô lậu. Bởi vì trí thức là trí do ý thức nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, đối chiếu rành rõ, khiến người nghe dễ nhận dễ hiểu. Đó gọi là người trí thức. Còn học giả là lượm lặt những hiểu biết của người khác, những cái hay, cái lạ góp nhặt về chứa đựng rồi cho đó là kiến thức của mình. Kế nữa là những nhà bác học nghiền ngẫm, tìm kiếm rộng rãi trong các ngành triết học, khoa học… nghiên cứu phát minh thêm những sáng tạo mới. Như vậy những nhà trí thức, học giả và bác học là nhắm thẳng vào ý thức sinh diệt, tìm tòi lượm lặt bên ngoài, chứa nhóm lại thành kiến thức của mình, rồi sử dụng trở lại kiến thức ấy. Tất cả những sử dụng đó đều nhắm vào điều kiện vật chất, lo cho thân này cảnh này mỗi ngày mỗi sung túc, mỗi tốt đẹp, mỗi giàu có hơn. Đó là lo trên phương diện sinh diệt, được rồi sẽ mất.

Ngược lại người học Phật lấy trí tuệ làm gốc. Trí tuệ trong đạo Phật có chia ra hai phần: một là trí tuệ hữu lậu, hai là trí tuệ vô lậu.

Trí tuệ hữu lậu là gì? Là Văn, Tư, Tu. Văn tức là học. Học cái gì? Học những lời chân thật, Phật chỉ dạy lý thật của con người, lý thật của cuộc đời. Chúng ta học để thấy được chân lý của con người và của muôn vật. Đó là Văn. Tư là gì? Khi học rồi chúng ta nghiền ngẫm cho tới nơi tới chốn, thấy rõ, hiểu tường tận vấn đề, đó là Tư. Tu là gì? Ứng dụng nghiền ngẫm tu hành bằng cách thấy đúng như thật chân lý Phật đã dạy, để tâm không nhiễm, không dính mắc tất cả pháp sinh diệt bên ngoài, đó là Tu. Nhưng việc tu, học này còn ở trong sinh diệt nên gọi là trí tuệ hữu lậu, tức còn rơi rớt trong luân hồi sanh tử.
Trí tuệ vô lậu là gì? Là Giới, Định, Tuệ. Giới là phương tiện ban đầu để câu thúc, đừng cho tâm chúng ta phóng túng. Từ Giới sanh Định, từ Định sanh Tuệ, trí tuệ đó không do học mà có, mà do chúng ta ứng dụng tu. Vì đức Phật đã thấy nơi mọi chúng ta sẵn có tánh giác, chúng ta không cần tìm kiếm ở bên ngoài mà phải nhìn lại mình, phản quan lại mình cho tâm được an định. Tâm an định tức là những ý thức lăng xăng lắng xuống hết, bấy giờ tánh giác sẽ hiện tròn đủ, không tìm kiếm ở đâu xa. Khi chúng ta xoay trở lại mình, dẹp bỏ những lăng xăng của ý thức, gọi là định. Từ định này sẽ hiện ra trí tuệ chân thật của chính mình. Như vậy trí tuệ chân thật cũng chính là tánh giác của chúng ta.

Ngược lại với thế gian, người ta lượm lặt những hiểu biết của kẻ khác về làm trí tuệ thông minh của mình, còn trong đạo chúng ta loại bỏ hết những lăng xăng của tâm thức. Gạt bỏ tất cả lăng xăng thì tâm an định, tâm an định thì tánh giác hiện ra tròn đầy. Được trí tuệ vô lậu rồi, chúng ta sẽ không còn rớt lại, không còn chìm trong luân hồi sanh tử nữa. Như vậy người tu học bỏ ra, còn người đời học thu vào. Hai bên khác nhau ở chỗ đó.

Như chúng ta ngồi thiền là để làm gì? Đó là một phương hướng để phát sáng trí tuệ sẵn có của mình. Thật ra trí tuệ sẵn nơi mình đã tự sáng rồi, trong nhà Phật gọi đó là ông Phật của mình. Giác ngộ là Phật, tức từ tánh giác đó sáng ra, chớ không ở đâu hết. Ngoài thế gian học bao nhiêu năm, đi chỗ này chỗ kia lấy cấp bằng này cấp bằng nọ, lượm lặt của người làm của mình, nhưng không có gì thật là của mình hết. Còn chúng ta gạt hết tất cả những thứ bên ngoài, để cho tâm trong sáng, rồi tự nó thấu suốt tất cả, đó là cái thật của mình. Cái thật này ai cũng có, ai cũng làm được mà lâu nay chúng ta bỏ quên. Vì bỏ quên nên ta trở thành kẻ khờ dại ngu si, đi trong luân hồi muôn kiếp. Ngày nay nếu biết trở lại sống với cái chân thật của mình thì dòng luân hồi ngang đây chấm dứt.

Như vậy sự tu, sự học của mình là việc làm phi thường, thế gian không thể bì kịp. Song nhiều khi chúng ta lại xem thường nó, ham học cái của người, cái sanh diệt mà quên khơi lại cái không sanh không diệt của chính mình. Cho nên đức Phật Bổn Sư Thích Ca của chúng ta ngồi dưới cội Bồ-đề tới đêm bốn mươi chín Ngài giác ngộ. Khi giác ngộ viên mãn Ngài tuyên bố thành Phật và tuyên bố “Ta học đạo không có thầy”. Ai dạy Ngài trong lúc đó? Chính vì tâm an định nên Ngài sáng ra, nên Phật nói được đạo mà không ai dạy.

Như vậy tất cả Tăng Ni có người nào vô phần về việc này không? Ai cũng có phần hết, có phần tức là có đủ điều kiện để giác ngộ. Thế nhưng chúng ta cứ thả trôi, để bao nhiêu thứ phiền não xấu xa phủ che, khỏa lấp, rồi cứ thế mà chấp nhận đi trong luân hồi. Ngày nay đủ phước đủ duyên, chúng ta biết được phương pháp ứng dụng tu, phải ráng nỗ lực tu hành, mới xứng đáng là người xuất trần thượng sĩ. Nếu không, chúng ta tu để mà tu, rồi cũng tiếp tục luân hồi không đến đâu hết. Đó là điều tôi muốn nhắc cho Tăng Ni nhớ, đừng xem thường những giờ tu của mình.

Những khi ngồi yên lặng không phải là tiêu cực, không phải vô ích mà là để dẹp bỏ những mê mờ đang phủ che tánh giác của mình. Khi những mê mờ ấy lặng dứt hết thì tánh giác sáng ngời, chừng đó chúng ta mới thấy chỗ cứu kính, chỗ tuyệt vời của Phật dạy vượt hơn mọi cái của thế gian. Vì thế những vị giảng hay chưa hẳn là giải thoát vì mới có trí tuệ hữu lậu thôi, chưa phải trí tuệ do định sanh. Hiểu vậy chúng ta mới thấy trên đường tu, đi từng bước thứ tự rõ ràng mới tới kết quả viên mãn, chớ không phải tu lơ là có hình tướng. Cuối cùng mình cũng như ai, cũng ăn, cũng mặc, cũng vui chơi bình thường, như vậy đời tu không có giá trị gì hết.

Nên biết ý chí tu hành của chúng ta hết sức siêu việt, siêu phàm chớ không phải thường. Vậy mà có nhiều người vì sự ăn, sự mặc phiền não suốt đời, rồi tạo bao nhiêu thứ phiền lụy cho mọi người chung quanh. Thật là đáng tiếc, thật là đáng thương! Nhiều Phật tử được các vị chư tăng giáo hóa, nói ý nghĩa cao siêu của người tu, họ quá quí nên gặp chư Tăng liền đảnh lễ. Có nhiều người địa vị ngoài xã hội rất lớn hoặc tuổi tác trưởng thượng đáng ông bà cha mẹ, mà lạy chư Tăng còn nhỏ tuổi không hề thấy khó chịu. Tại vì họ quá quí lý tưởng của Phật Tổ dạy, quá quí sự tu hành siêu thoát.

Vậy mà chúng ta không chịu tu, khi họ lạy mình có xấu hổ không? Nếu người ta đảnh lễ mà tâm mình đang chạy ngược chạy xuôi xóm này xóm kia, lúc đó ta có tội không? Quí vị phải nhớ đừng tưởng người ta lễ mà mình mừng. Chính đó là điều khiến chúng ta càng xấu hổ khi thấy sự tu của mình chưa ra gì. Nhận người đảnh lễ thì phải trả, chớ không thể nào nhận mà không trả. Nếu ta nhận sự cung kính cúng dường của người mà không trả lại được bằng đạo đức, bằng sự tu hành chân chánh thì đời sau phải làm tôi đòi để trả nợ cũ. Họ kêu chạy vù vù hoặc họ leo lên lưng cỡi chớ không phải chuyện chơi.

Tôi nhắc nhở để Tăng Ni đừng xem thường mình, phải làm sao khai thác cho được cái cao siêu quí báu của mình, để khỏi tủi hổ làm người xuất gia mà không có chút gì cao thượng, không chút gì xứng đáng. Thực tế Tăng Ni đâu phải vì thiếu cơm ăn áo mặc mà vào chùa, đâu phải vì khổ đau quá chịu không nổi mà vào chùa. Chúng ta vô chùa là có cả một lý tưởng, bỏ hết những gì phàm tục, tìm cái cao siêu trong đạo, nếu không tu thì một đời trôi qua uổng biết chừng nào.

Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình. Chúng ta bỏ cha bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc đi tu, thì phải làm sao cho xứng đáng là người tu, chớ đừng mượn hình thức tu mà tâm rất phàm tục. Phải hiểu thật rõ ý nghĩa của người tu là làm sao đền đáp công ân cha mẹ, thầy tổ, đàn na thí chủ, chớ đừng tu cầm chừng qua ngày qua tháng, rốt cuộc mình làm một ông thầy tu rỗng mà còn nợ thiên hạ nữa, điều đó thật đau xót.

Mong tất cả quí vị nghe rồi cố gắng tu cho được trí tuệ vô sư viên mãn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Đức Phật dạy người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Đời sống xuất gia là đời sống từ bỏ.
 
Còn đời sống tại gia người cư sĩ có nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm ràng buộc đối với gia đình, xã hội. Sống xuất gia là từ bỏ ràng buộc. Đời sống từ bỏ này rất khó không đơn giản.  Đời sống xuất gia là đời sống nhẹ nhàng, thanh thoát, không ràng buộc bởi nhiều thứ. Trước khi xuất gia, người tại gia do công ăn việc làm nên có ràng buộc. Khi ta xuất gia từ bỏ ràng buộc, từ bỏ những điều bất thiện, ta sống thanh tịnh, tự tại. Đời sống của người xuất gia là đi khất thực, sống khất thực do cúng dường của đàn na tín thí. Ở ngoài đời ta có công việc để làm nuôi ta và cho gia đình. Nhưng khi xuất gia, có đàn na tín thí cúng dường. Vì vậy ta phải quan tâm đến đời sống xuất gia. Nếu không, mình sẽ không xứng đáng là bậc xuất gia có phạm hạnh. Lúc đó tuy ta sống đời sống xuất gia mà giống như kẻ phàm phu.  Còn nếu như mình sống đúng với bổn phận người xuất gia là xả ly: ly tham ta sẽ thanh tịnh, giải thoát.
Một vị tỳ kheo là thấy được đâu là  con đường đi đến niết bàn,  đâu là con đường sanh tử. Cũng giống như người kia bắt con rắn, nếu không khéo sẽ bị rắn cắn. Mình sống xuất gia mà không khéo sẽ giống như ăn cướp, mắc nợ rất nhiều nếu như không giữ được đời sống phạm hạnh GIỚI ĐỊNH TUỆ. Các vị sa di tập sự thọ tỳ khưu giới. Còn các vị tỳ khưu khi đã thọ giới bậc trên thì phải có phạm hạnh.
Bốn điều không nên làm là 4 điều bất công trụ, nếu phạm phải là không còn tăng tướng, không còn phạm hạnh của một vị tỳ khưu, không còn cộng trụ với tăng đoàn, với chư tăng, với các vị tỳ khưu khác đồng phạm hạnh.
 Bốn điều nên làm hết sức quan trọng. Có lúc ma vương thấy chư tăng tu hành đắc đạo quả nhiều nên phá, xúi dục quần chúng không cúng dường chư tăng nữa. Nên  khi chư tăng đi khất thực, không có ai cúng dường. Do vậy, chư tăng rất cực khổ nhưng vẫn tu hành tinh tấn, càng ngày đắc đạo càng nhiều hơn. Các ma vương thấy chư tăng tu hành tốt, đắc đạo nhiều bèn bàn với nhau xúi dục quần chúng cúng dường cho các vị xuất gia thật nhiều. Lúc đó người ta cúng dường vật thực, y phục chỗ ở, thuốc men nhiều . Chư tăng sống rất dễ dàng nên quên không siêng tu hành như trước nữa. Do vậy, chư tăng sống trong đầy đủ nên chẳng có nhiều người đắc đạo quả.
Nên đời sống chân  chánh là đàn na tín thí cúng dường thì người xuất gia được quyền thọ nhận.
Trong thực tế ngày nay, người xuất gia ở thành phố không thiếu y phục nhưng các sư Khmer ở những vùng xa thì thiếu y phục. Các sư ở đây có vị có nhiều bộ y. Mình phải biết cách sử dụng các vật dụng do đàn na tín thí cúng dường. Nếu không có sự cúng dường đó thì mình đi khất thực mà sống.
Lúc Sư ở Huế, đời sống xuất gia rất an vui. Ở Huế, đôi khi đi khất thực chỉ có khoai lang mà thôi. Có gì dùng nấy nhưng Sư cảm thấy rất hạnh phúc. Có một anh chủ nhà hàng ở Pháp về chùa Huyền Không ở Huế xuất gia gieo duyên
Vị đó nói: Con rất cảm động vì con là chủ nhà hàng ăn uống đầy đủ, nhưng khi xuất gia,  đàn na tín thí cúng dường dù cái bánh, cái kẹo, củ khoai, ổ bánh mì  nhưng dùng những món đó con rất hoan hỷ’’.
Đời sống không lệ thuộc vào vật thực ta sẽ an nhiên tự tại.
Y phục nếu có thì mình sử dụng, nếu không mình phải đi lượm vải trong nghĩa địa để may y mà mặc. Do vải lượm nhiều màu nên Phật dạy lấy vỏ cây nấu lên nhuộm lại để thành màu y. Đối với hiện nay thì điều đó vừa dỡ vừa hay. Phật giáo Bắc tông có  chư tăng mặc y màu giống nhau. Nhưng Phật giáo Nguyên thủy thì chư tăng mặc y màu không giống nhau. Nếu nói về đồng phục thì Nam tông không đẹp nhưng nếu theo thời nguyên thủy thì đó là y hoại sắc.Thời Đức Phật, y của chư tăng không ai giống ai. Từ màu xanh lá mạ, màu đậm như màu lưng con rít. Thời đó, các vị tỳ kheo ai cũng biết may y. Miến Điện bây giờ vẫn còn có nơi chư tăng phải tự mình may y để mặc.
Chỗ ở thì nếu đàn na tín thí cúng dường thì người xuất gia được phép dùng, không có thì một vị tỳ khưu vẫn có thể ở nơi gốc cây, ở trú xứ nhưng không đòi hỏi cao sang. Người xuất gia cũng không bắt mình ở nơi quá khổ, ta vẫn có cốc liêu đàng hoàng nhưng đừng quá cầu kỳ, sang trọng.
Thuốc men nếu có sự cúng dường thì cứ thọ nhận nhưng không được phép yêu cầu,  đòi hỏi thiện nam tín nữ phải cúng dường thuốc này thuốc kia theo ý muốn của mình.
Tứ vật dụng là những cái cần nhưng người xuất gia không đòi  nhiều, chỉ là đủ dùng để sống cho tu tập mà thôi.
Đó là bốn điều không nên làm, là những điều Đức Phật đã chế định giới để giúp cho người xuất gia tránh những điều ác. Qúy vị nên ghi nhớ!
Các giới tử đã thành tựu đời sống xuất gia thì hãy thể hiện đời sống này cho xứng đáng, hãy tự giải thoát, giác ngộ cho bản thân mình và giúp cho đàn na tín thí có niềm tin vào Phật Pháp, giúp cho họ giác ngộ, giải thoát thì đó đúng vớ với sứ mạng của một người xuất gia.
Chúc các vị tỳ kheo, sa di, tu nữ mới xuất gia an vui tự tại trong GIỚI ĐỊNH TUỆ và trong BÁT CHÁNH ĐẠO./.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Pháp Của Người Lãnh Đạo .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
PHÁP TỰ TỨ CỦA TĂNG .
 





PHÁP TỰ TỨ CỦA TĂNG .  
I -Ý nghĩa và duyên khởi
Tự tứ tiếng Pàli Pavàranà; Phạn là pravàranà, Hán phiên âm là bát-hòa-la, bát lợi ba thích noa và dịch là tự tứ, thỉnh thỉnh, tùy ý, tùy ý sự, mãn túc, hỷ duyệt,…
Pravàranà, Phật đà thập và Trúc đạo sinh dịch là Tự tứ ( Ngũ phần luật 19, Đại chính 22, tr 130c). Tự là tự mình, tứ là buông ra. Nghĩa là vị tỷ kheo sau khi hạ an cư đủ ba tháng, tự mình buông ra lời nói thỉnh cầu một vị tỷ kheo khác đầy đủ năm đức, chỉ điểm những lỗi lầm cho mình qua ba mặt thấy, nghe và nghi, giúp cho mình biết và tự mình cầu xin sám hối để được thanh tịnh.
Ý nghĩa tự tứ là vậy, nên ở Trung A Hàm, Tăng già đề bà dịch là thỉnh thỉnh (Trung A Hàm 29, Thỉnh Thỉnh kinh, Đại Chính 1, tr 610); ở Căn bản nhất thiết hữu bộ tỳ nại da, Nghĩa Tịnh dịch là Tùy ý sự (Đại Chính 23, tr 1044). Nghĩa là pháp tự tứ là tỷ kheo sau khi hạ đủ, tùy ý thỉnh tỷ kheo khác đủ năm đức chỉ bày cho ba sự gồm: Thấy việc sai lầm chỉ bày cho mình; nghe việc sai lầm chỉ bày cho mình và nghi ngờ việc sai lầm chỉ bày cho mình, để tự mình thấy có tội thì như pháp sám hối, khiến thân tâm trở lại thanh tịnh. Do sau khi mãn hạ, sám hối đúng pháp đối với ba sự: kiến, văn và nghi, nên gọi là mãn túc và tự mình sinh tâm vui mừng, sau khi đã sám hối ba sự đúng pháp và được thanh tịnh, để nhận thêm tuổi hạ, nên gọi là hỷ duyệt. Và ở Luật Tứ Phần 37, Phật đà da xá và Trúc phật niệm dịch là cầu thính. (Đại chính 22, tr 836b).
Pháp Tự tứ, một năm chỉ xẩy ra cho tỷ kheo Tăng một lần, sau khi hạ đủ. Nghĩa là tác pháp kết giới an cư vào ngày mười sáu tháng tư, thì thời điểm tự tứ thích hợp đối với Tăng là ngày rằm tháng bảy. Và nếu tác pháp kết giới hậu an cư, tức là vào ngày mười bảy tháng tư, thì thời điểm thích hợp cho Tăng tác pháp tự tứ là ngày mười sáu tháng bảy,…
Tuy vậy, nhật kỳ tự tứ, Tăng có thể thay đổi để thích ứng những nhu cầu tu học thực tế, nhưng Tăng phải tác pháp yết ma. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 840b).
Nói tóm lại, thời gian thích hợp để Tăng tác pháp tự tứ là thời gian sau khi hạ đủ. Và tự tứ của Tăng tỷ kheo một năm chỉ xảy ra một lần sau khi hạ đủ mà thôi.
Mục đích của Tăng tự tứ là ngoài việc biểu hiện cụ thể bản thể hòa hợp và thanh tịnh của Tăng, còn xác định cụ thể sự tăng trưởng lớn mạnh về Giới- định- tuệ của một vị tỷ kheo, sau khi hạ mãn và chấm dứt kỳ hạn an cư, và các tỷ kheo lại tiếp lên đường hoằng pháp.
Theo kinh Thỉnh Thỉnh, bấy giờ tại Tu viện Trúc lâm, vườn Già lan đà, ở Thành Vương- xá, cùng với chúng đại tỷ kheo năm trăm vị đều có mặt cùng ngồi thọ hạ. Bấy giờ ngày trăng thứ 15, từ tâm giải thoát, Đức Thế Tôn nói về hình thức Thỉnh thỉnh.
Ngài dạy các tỷ kheo rằng: Quý vị là đệ tử chân thực của ta, từ nơi miệng mà pháp sanh ra, được chuyển hóa bởi pháp, quý vị hãy dạy cho nhau, tuần tự dạy nhau thỉnh cầu chỉ điểm.
Bấy giờ Tôn giả Xá lợi phất theo đúng phép tắc cầu thỉnh, đã đến trước Đức Thế Tôn chấp tay cung kính xin thỉnh Ngài chỉ giáo về các hành vi của thân, ngữ và ý. Đức Thế Tôn nói, Ngài không có phiền trách gì đến các hành vi thân, ngữ và ý của Tôn giả. Ngài khen Tôn giả là bậc thông tuệ, đại tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ và thành tựu thực tuệ,…
Tôn giả Xá Lợi Phất, bạch Thế Tôn rằng, đối với các hành vi thân, ngữ, ý của năm trăm tỷ kheo, Ngài có phiền trách gì không? Thế Tôn dạy, đối với các hành vi của năm trăm tỷ kheo nầy, Ngài cũng không có gì phiền trách cả. Vì sao? Vì các vị nầy đã đạt đến chỗ không còn mắc kẹt, các lậu hoặc đã đoạn tận, phạm hạnh đã thiết lập, điều đáng làm đã làm, đã xả bỏ sự tái sinh đời sau,…
Vì vậy, tôi không có gì phiền trách, các hành vi thuộc về thân, ngữ và ý của năm trăm vị tỷ kheo nầy.
Như vậy, duyên khởi của pháp tự tứ, sau khi mãn hạ đã được ghi lại ở kinh Thỉnh Thỉnh nầy. (Trung A hàm 29, Đại chính 1, tr 610a).
Lại theo Luật Tứ Phần 37, duyên khởi pháp tự tứ là pháp cầu thính. Bấy giờ nhóm sáu tỷ kheo nói với nhau như vậy: “Đức Phật dạy: Các Tỷ kheo phải cùng dạy bảo nhau, cùng nhau trao đổi, giác ngộ cho nhau”. Họ liền cử tội tỷ kheo thanh tịnh. Các Tỷ kheo đến bạch đức Thế Tôn, Ngài dạy: “Không được vô cớ cử tội người vô tội. Nếu muốn cử tội tỷ kheo hữu sự, trước hết phải nói cho vị ấy biết, để vị ấy cầu thính, sau đó mới được cử”. (Đại chính 37, tr 836a).
Cầu thính là cầu nghe vị tỷ kheo khác cử tội. Người được thỉnh cầu nghe cử tội, người ấy phải có đủ năm pháp gồm: - Tri thời, nghĩa là biết đúng lúc cử tội và không đúng lúc cử tội. - Như thực, nghĩa là phải biết đúng pháp mà cử tội, chứ không phải không biết mà cử tội. - Hữu lợi ích, nghĩa là biết cử tội đem lại lợi ích cho người thỉnh cầu, chứ không phải không có lợi ích. - Nhu nhuyến, nghĩa là dùng lời nói dịu dàng để cử tội chứ không thô lỗ, sân hận - Từ tâm, nghĩa là cử tội với từ tâm mà không sân hận (Đại chính 22, tr 836b).
Đức Phật dạy, một tỷ kheo phải đầy đủ năm pháp ấy, mới được phép nhận sự cầu thính của các tỷ kheo khác. Và tỷ kheo đã nhận sự cầu thính cử tội, thì không được tự ý bỏ đi nơi khác.
Cũng theo luật Tứ Phần 37, nhóm tỷ kheo sáu người đã hứa khả cầu thính cho tỷ kheo khác, rồi tự ý bỏ đi. Các tỷ kheo thanh tịnh đem việc nầy trình lên Đức Phật, Ngài dạy: “Không được hứa với người rồi tự ý bỏ đi; không được nhận lời hứa của người, rồi tự ý bỏ đi. Từ nay cho phép an cư rồi tự tứ. Cho phép tự tứ khỏi phải cầu thính. Tại sao? Vì tự tứ chính là thính” (Đại chính 22, tr 836b).
Nhưng, duyên khởi Tự tứ, theo Luật ngũ phần: Do các tỷ kheo nói với nhau rằng, chỉ có A la hán mới xứng đáng chỉ bảo cầu thính. Nhân đây, đức Phật dạy pháp Tự tứ ( Ngũ Phần Luật, Đại chính 22, tr 131b).
II -Tăng Số Và Tác Pháp
Túc số Tăng để tiến hành tác pháp yết ma tự tứ tối thiểu là năm vị tỷ kheo. Vì trong đó, một vị được Tăng bạch nhị yết ma cử làm tự tứ nhân. Và sau khi Tăng đã cử tự tứ nhân xong, thì từ vị Thượng tọa xuống đến vị tân tỷ kheo đều lần lược từng vị đối diện với vị tự tứ nhân nói lời yêu cầu chỉ điểm về tam sự gồm kiến tội, văn tội và nghi tội, để cho đương sự nếu thấy có tội, thì đúng như pháp mà sám hối. Và nếu Tăng chỉ có bốn vị, thì không thể tiến hành tác pháp yết ma cử tự tứ nhân chỉ điểm tam sự, mà chỉ thực hành pháp đối thủ tự tứ. Nghĩa là một vị tỷ kheo đối diện với một tỷ kheo khác hoặc quỳ, hoặc đứng để nói lời tự tứ. Và nếu một tỷ kheo thì chỉ có tâm niệm tự tứ.
Trong pháp tự tứ có những trường hợp được dự dục, nếu tỷ kheo có những duyên sự như pháp. Và tỷ kheo gởi dự dục với một tỷ kheo và nhờ vị ấy bạch lại với Tăng thì chỉ nói hòa hợp mà không cần phải nói thanh tịnh. Vì sao? Vì tự tứ là đương sự tự nguyện, tự giác yêu cầu trực tiếp tự tứ nhân chỉ điểm cho ba sự để sám hối cho được thanh tịnh. Nên, dự dục đối với tự tứ chỉ nói hòa hợp mà không nói thanh tịnh là vậy. Một tỷ kheo có thể nhận gởi dục tự tứ từ nhiều người. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 838b).
III -Tăng Pháp Tự Tứ
Tăng pháp tự tứ có hai giai đoạn tiến hành:
*- Giai đoạn tiến hành tiền phương tiện:
Sau khi khi nghe Pháp hiệu tập Tăng, các tỷ kheo như pháp tuần tự vào giới trường, sau khi mỗi vị đã an trú tĩnh tọa đúng vị trí. Thượng tọa bỉnh pháp pháp hỏi:
- Tăng đã họp chưa?
Duy na đáp:
- Tăng đã họp.
Thượng tọa hỏi:
- Hòa hiệp không?
Duy na đáp:
- Hòa hiệp.
Thượng tọa hỏi:
- Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?
Duy na đáp:
- Đã ra.
Thượng tọa hỏi:
- Các tỷ kheo không đến có thuyết dục tự tứ không?
Nếu có, duy na đáp: Dạ có. Có tỷ kheo,… có “gởi dục tự tứ”, xin bạch như vậy. Nếu không có, duy na đáp: Dạ không.
Thượng tọa hỏi:
- Có ai sai tỷ-kheo-ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?
Nếu không, duy na đáp không. Nếu có, duy na đáp có. Và gọi tỷ-kheo-ni thọ sai vào giới trường, vị ấy đảnh lễ đại Tăng, quỳ xuống và bạch:
“Bạch Đại đức Tăng! Đệ tử chúng con, tỷ-kheo-ni Tăng, trú xứ,… hạ an cư đã xong. Ni Tăng sai chúng con tỷ-kheo-ni đến đại Tăng, vì tỷ-kheo-ni Tăng cầu nói ba sự tự tứ, là các tội được thấy, được nghe và được nghi. Ngưỡng mong Đại đức Tăng rũ lòng thương tưởng chỉ giáo. Nếu chúng con thấy có tội sẽ như pháp sám hối. (nói ba lần).
Bấy giờ trong Tăng, tỷ kheo nào thấy có điều gì cần chỉ giáo ba việc kiến, văn và nghi đối với Ni chúng thì nói, nếu không thì tất cả đều im lặng. Và sau đó Thượng tọa có lời giáo giới đối với Ni chúng rằng:
“Trong đại Tăng, từ trên xuống dưới thảy đều im lặng như vậy, thật do Ni chúng bên trong chuyên cần ba nghiệp, bên ngoài vô sự, cho nên không có điều gì trái phạm. Tuy nhiên như vậy, các vị hãy nói lại với Ni chúng, đại Tăng có giáo sắc rằng: Ni chúng như pháp mà tự tứ, cẩn thận chớ buông lung”.
Tỷ-kheo-ni thọ sai đáp:
“Y giáo phụng hành”. Rồi đảnh lễ Tăng và lui ra.
Thượng tọa hỏi:
- Tăng nay hòa hợp để làm gì?
Duy na đáp:
- Yết ma tự tứ.
*- Giai đoạn Tăng tác pháp tiến hành chính thức tự tứ:
Giai đoạn nầy có ba phần như sau:
1 - Tăng Yết Ma Sai Tự Tứ Nhân:
Tự tứ nhân hay còn gọi là Ngũ đức sư. Ấy là người Tăng tác pháp Bạch nhị yết ma cử làm người tự tứ. Một lần Tăng yết ma chỉ đựợc phép cử từ một đến ba vị. Không được phép cử bốn, vì bốn vị trở lên thành túc số của Tăng. Tăng không thể cử Tăng. Tăng cử Tăng là phi pháp.
Theo Luật Tứ Phần, vị được Tăng cử làm người tự tứ phải hội đủ năm đức tính:
a -Bất ái: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không có tâm thiên ái.
b -Bất sân: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội cho vị tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sân hận, thù ghét.
c -Bất bố: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội cho vị tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sợ hãi.
d -Bất si: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội vị tỷ kheo khác, sau khi mãn hạ, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm mù quáng.
e -Tri tự tứ vị tự tứ: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội vị tỷ kheo khác, sau khi mãn hạ, phải biết rõ các tỷ kheo cùng trong trú xứ, vị nào đã được chỉ tội theo pháp tự tứ và vị nào chưa được chỉ tội theo pháp tự tứ. (Đại chính 22, tr 836b).
Đối với đức tính thứ 5 nầy, theo Ngũ phần luật 19, là “Tri thời, tri phi thời”). Biết tự tứ đúng thời và biết tự tứ không đúng thời (Đại chính 22, tr131a).
Sau hỏi tiền phương xong, Thượng tọa bỉnh pháp tiếp tục hỏi:
- Trong chúng có vị nhân giả nào kham năng làm người nhận tự tứ nhân không?
Vị tỷ kheo hội đủ năm đức tính cần thiết để làm người nhận tự tứ tự đáp:
- “Tôi tỷ kheo,… kham năng”.
- Thượng tọa bỉnh pháp Bạch nhị yết ma Tăng sai tự tứ nhân:
Văn Yết ma như sau:
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sai tỷ kheo có tên,…làm người thọ tự tứ. Đây là lời tác bạch!”.
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng sai tỷ kheo có tên,… làm người thọ tự tứ. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai tỷ kheo có tên,…làm người thọ tự tứ thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói”.
“Tăng đã chấp thuận sai tỷ kheo có tên,… làm người thọ tự tứ nhân rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc nầy tôi ghi nhận như vậy”.( Đại chính 22, tr836bc).
2- Đơn Bạch Tự Tứ:
Các tỷ kheo thọ sai, từ chỗ ngồi đứng dậy bước ra đảnh lễ Tăng. Một trong ba vị được thọ sai bạch Tăng chính thức tác pháp tự tứ.
Văn bạch:
Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay hòa hợp tự tứ. Đây là lời tác bạch”.(Đại chính 22, tr 837a).
3- Chính Thức Tự Tứ:
Thượng tọa bỉnh pháp nói tự tứ trước. Tiếp theo các vị tự tứ nhân nói tự tứ với nhau. Sau đó lần lược các tỷ kheo từ một đến ba vị nói tự tứ. Nếu tự tứ nhân đến, mà đứng, thì người nói tự tứ
có thể đứng hoặc quỳ; nếu vị tự tứ nhân quỳ, thì người nói tự tứ phải quỳ.
Văn nói tự tứ như sau:
Đại đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo,… cũng tự tứ. Nếu có tội được thấy , được nghe và được nghi, nguyện Đại đức thương tưởng chỉ giáo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối”. (nói ba lần). (Đại chính 22, tr 837a).
Người nhận tự tứ đáp: Thiện. Người tự tứ đáp: Nhĩ.
Sau khi các tỷ kheo tuần tự tự tứ xong. Vị tự tứ nhân bước ra giữa Tăng bạch: “Tăng nhất tâm tự tứ đã xong”.
Sau khi vị tự tứ nhân bạch Tăng xong. Phần còn lại là hồi hướng.
VI - Các Pháp Tự Tứ Khác:
1- Tự tứ vắn tắt:
Nếu vì nạn duyên không đủ thời gian để Tăng tiến hành đúng Tăng pháp tự tứ, thì phải tự tứ vắn tắt. Nhưng muốn tự tứ vắn tắt thì phải yết ma.
Văn bạch: “Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay mỗi mỗi đồng loạt nói tự tứ ba lần. Đây là lới tác bạch”.( Đại chính 22, tr839a).
Do gặp một trong tám nạn duyên, thì mới tiến hành tự tứ vắn tắt. Tám nạn duyên gồm: - Nạn vua. - Nạn giặc. - Nạn lửa. - Nạn nước. - Nạn bệnh. - Nạn người. - Nạn phi nhân. - Nạn độc trùng. (Đại chính 22, tr 838c).
Hoặc do bị chướng sự, nên tiến hành tự tứ vắn tắt. Các chướng sự gồm: - Chúng đông mà giới trường lại hẹp. – Trong Tăng có quá nhiều tỷ kheo bệnh, không thể ngồi hoặc quỳ lâu. - Trời mưa lớn. - Gặp đại thí hội mà đêm đi qua đã lâu. - Chướng ngại do đấu tranh. - Hoặc bàn luận A tỳ đàm, đoán sự tỳ ni, thuyết pháp,… mà đêm đi qua đã lâu, chúng Tăng chưa đứng dậy, nên tự tứ vắn tắt. Đại chính 22, tr 838c).
Nếu không có nạn duyên và chướng sự mà tự tứ vắn tắt là phạm tác. Phạm tác là phạm vào những học xứ quy định làm mà không làm, hoặc làm sai.
2- Tự tứ đối thủ:
Nếu Tăng không đủ túc số năm người, không thể tiến hành theo Tăng pháp tự tự, thì thực hành theo tự tứ đối thủ. Nghĩa là nếu bốn người, thì một người quỳ xuống bạch với ba người; nếu ba người, thì một người quỳ xuống bạch với hai người và nếu hai người, thì hai người quỳ đối diện với nhau mà tác bạch để tự tứ.
Văn nói tự tứ đối thủ:
Ngày nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo ,… cũng tự tứ thanh tịnh”. (Đại chính 22, tr 837c).
3- Tự tứ tâm niệm:
Nếu một mình tỷ kheo, thì y hậu tề chỉnh, tâm niệm vào giới trường hay quỳ trước bàn Phật, nghĩ đến ngày tự tứ Tăng, miệng nói: “Hôm nay ngày chúng Tăng tự tứ, tôi tỷ kheo,… thanh tịnh”. (nói ba lâần ). (Đại chính 22, tr 837c- 838a1).
V -Triển Hạn Nhật Kỳ Tự Tứ:
Tăng triển hạn nhật kỳ tự tứ có hai trường hợp:
1- Do tu tập:
Do thời gian an cư, các tỷ kheo Tăng tu tập về giới, định, tuệ một cách tinh cần, nên có nhiều an lạc. Vì vậy muốn kéo dài thêm thời gian an cư để thuận lợi cho sự đoạn trừ các lậu hoặc và chứng đắc các Thánh quả Niết bàn. Trường hợp nầy, Tăng có thể tác pháp yết ma triển hạn nhật kỳ tự tứ tối đa là một tháng.
Tăng trong trú xứ tập hợp tại giới trường, Thượng tọa bỉnh pháp bạch Tăng:
“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng ngày hôm nay không tự tứ. Đợi đủ bốn tháng an cư xong sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch”. (Đại chính 22, tr 840b).
2- Do Tăng chưa được thanh tịnh và hòa hợp:
Do các tỷ kheo ở trong cùng một trú xứ có tránh sự mà chưa như pháp dập tắc, hoặc do có các tỷ kheo từ trú xứ khác đến, Tăng tại trú xứ an cư chưa sắp xếp yên ổn, nên triển hạn nhật kỳ tự tứ. Văn bạch Tăng:
“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Ngày hôm nay Tăng không tự tứ. Đợi đến ngày 15 (hoặc 16) tháng đến sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch”.( Đại chính 22, tr 840c).
Nếu đã hết kỳ triển hạn mà sự tranh chấp giữa các tỷ kheo chưa được dập tắt như pháp, Tăng có thể triển hạn thêm 15 ngày nữa. Hết thời kỳ triển hạn mà Tăng trong trú xứ chưa hòa hợp, hay các tỷ kheo khách cũng chưa rời khỏi trú xứ, thì phải y luật cưỡng bức các tỷ kheo tránh sự phải hòa hợp để tự tứ, nếu không được, các tỷ theo thanh tịnh đồng ra khỏi cương giới của trú xứ kết tiểu giới để tự tứ. Tự tứ xong, giải tiểu giới.
VI - Các Trường Hợp Ngăn Tự Tứ:
1- Phạm Tăng tàn:
Trong trú xứ có tỷ kheo phạm Tăng tàn, tùy theo mức độ phạm tội mà Tăng yết ma cho vị ấy hành pháp đúng theo mức độ phạm tội rồi, mới tự tứ.
2- Phạm Ba dật đề:
Trong trú xứ có tỷ kheo phạm học giới, có người bảo rằng, đó là phạm Ba dật đề, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la đề đề xá ni, Tăng cử một tỷ kheo thanh tịnh, đến dẫn vị tỷ kheo phạm Ba dật đề ấy, hoặc Ba la đề đề xá ni ấy, ra khỏi vị trí giới trường mà mắt thấy Tăng tác pháp, nhưng tai không nghe được lời tác pháp của Tăng, khuyên bảo vị tỷ kheo phạm Ba dật đề ấy sám hối. Sau đó vị tỷ kheo thanh tịnh dẫn vị tỷ kheo phạm giới ấy đến trước Tăng thưa rằng: “ Tỷ kheo phạm tội, tôi đã bảo sám hối rồi”. Phải phương tiện tác pháp như vậy rồi mới tự tứ.
3- Phạm Thâu lan giá:
Trong một trú xứ, có tỷ kheo phạm Thâu lan giá, có người bảo rằng đó là phạm Thâu lan giá, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la di, khiến có thể dẫn đến sự tranh cãi, không hòa hợp. Nếu sợ bản thể của Tăng bị vỡ, thì việc tự tứ của Tăng phải dời qua một thời gian thích hợp khác.
4- Ngăn Tự tứ vô căn cứ:
Ngăn cản tỷ kheo không có căn cứ, không đưa ra được nguyên nhân, việc ngăn cản như vậy không thành. Tỷ kheo không thanh tịnh không được ngăn cản tỷ kheo thanh tịnh tự tứ.
5- Ngăn tự tứ có căn cứ:
Ngăn cản tỷ kheo tự tứ có căn cứ, có tác nhân, gọi là ngăn tự tứ có căn cứ.
6- Ngăn tự tứ khi đang nói:
Ngăn tự tứ khi đang nói một lần hoặc hai lần, gọi là ngăn tự tứ khi đang nói. Khi chưa nói hoặc đã nói xong, không thể gọi là ngăn tự tứ.
7- Ngăn tự tứ bởi người không thanh tịnh:
Người không thanh tịnh về thân, về ngữ, về ý, không có trí, không biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với những người như vậy không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.
8- Ngăn tự tứ bởi thân nghiệp thanh tịnh:
Người thân nghiệp thanh tịnh, nhưng ngữ nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không có nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.
9- Ngăn tự tứ với thân nghiệp và khẩu nghiệp thanh tịnh:
Đối với người thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, nhưng ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.
10- Ngăn tự tứ với ba nghiệp thanh tịnh, có trí, có phân minh, có biết hỏi và biết đáp:
Nếu vị tỷ kheo nầy ngăn vị tỷ kheo khác không cho tự tứ, các tỷ kheo khác, nên hỏi vị tỷ kheo ngăn ấy rằng: Vì sao Thầy ngăn tỷ kheo nầy tự tứ? Vì do phạm giới, phá kiến, hay phá oai nghi?
Vì ấy trả lời, vì phạm giới. Các tỷ kheo, nên hỏi là phạm giới nào? Nếu nói phá kiến, thì hỏi phá kiến nào? Nếu nói phá oai nghi, thì hỏi phá oai nghi nào? Nếu vị ấy trả lời là do có một trong ba mà ngăn. Nếu hỏi cặn kẽ một trong ba ấy, không trả lời được cụ thể, Nên, đối với giới, họ nói phạm Ba la di, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Tăng tàn, rồi Tăng mới tự tứ. Nếu họ nói tội Tăng tàn, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Ba dật đề, rồi sau đó tự tứ,… Nghĩa là vị ấy chỉ đưa ra tội danh mà không đưa ra đầy đủ các yếu tố phạm tội, thì Tăng sẽ xử trị dưới mức tội của người ấy đã đưa ra để ngăn người phạm tội trước khi tự tứ. Và nếu người ngăn tự tứ có trí trả lời rõ ràng, chứng cứ cụ thể về tội Ba la di của người phạm giới để ngăn tự tứ, thì Tăng phải làm phép diệt tẫn người phạm tội ấy, trước khi tự tứ.
11- Ngăn tự tứ từ ba sự:
Ngăn tự tứ từ ba sự gồm: Kiến, văn và nghi. Nếu do từ ba sự nầy mà ngăn tự tứ? Các tỷ kheo hỏi tỷ kheo ngăn tự tứ rằng: Trong ba sự, Thầy do sự nào mà ngăn tự tứ? Nếu vị ấy trả lời từ một trong ba sự một cách cụ thể hay không cụ thể, thì phải tùy theo những chứng cứ trong sự trả lời của vị ấy, sau đó đúng như pháp mà xử trị, rồi tự tứ. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 839a -840b).
VII -Tự Tứ Liên Hệ Giữa Cựu và Khách:
Theo Luật Tứ Phần 38, tự tứ liên hệ giữa cựu trú tỷ kheo và khách tỷ kheo như sau:
1- Trú xứ có khách tỷ kheo đến với số lượng nhiều:
Ngày tự tứ, trú xứ nào có khách tỷ kheo đến, các khách tỷ kheo biết những cựu trú tỷ kheo chưa vào giới trường, nhưng họ nói rằng,: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người, có thể tác pháp yết ma tự tứ”. Và họ liền tác pháp yết ma tự tứ. Trong khi họ tác pháp yết ma tự tứ, các cựu trú tỷ kheo đến giới trường với số ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọa mà tự tứ. Nếu là hàng Hạ tọa, thì theo thứ tự của hàng Hạ tọa mà tự tứ.
Nếu những cựu trú tỷ kheo đến giới trường với số lượng ít, các khách tỷ kheo đã tự tứ xong, cả chúng chưa đứng dậy, hay hầu hết chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các cựu trú tỷ kheo phải nói: “Thanh tịnh tự tứ”. Nếu không nói như vậy, là sai luật sẽ bị xử trị như pháp.
2- Trú xứ có tỷ kheo khách đến với số lượng bằng:
Nội dung như điều 1, nhưng số lượng cựu trú tỷ kheo đến giới trường bằng số lượng của khách tỷ kheo, thì các khách tỷ kheo, nên tác pháp cùng tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.
3- Trú xứ có tỷ kheo khách đến với số lượng ít:
Nội dung như điều 1 và 2, nhưng số lượng cựu trú tỷ kheo đến giới trường nhiều, số lượng tỷ kheo khách ít, dù tỷ kheo khách tự tứ rồi, cũng nên cùng với các tỷ kheo cựu trú tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.
4- Trú xứ có cựu trú tỷ kheo nhiều, khách tỷ kheo ít:
Ngày tự tứ, trú xứ nào, có các cựu trú tỷ kheo nhiều, họ đến giới trường và họ biết rằng, các tỷ kheo khách chưa đến, nhưng họ nói: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người có thể tác pháp yết ma tự tứ”. Trong khi họ tác pháp yết ma tự tứ, các tỷ kheo khách đến với số lượng ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọa mà tự tứ; nếu là hàng Hạ tọa, thì cứ thứ tự theo hàng Hạ tọa mà tự tứ.
Nếu khi tỷ kheo khách đến tự tứ rồi, nhưng cả chúng chưa đứng dậy, hoặc số đông chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các tỷ kheo khách đến với số lượng ít phải nói: “Thanh tịnh tự tứ”. Nếu không nói như vậy là sai luật, nên sẽ bị xử trị như pháp.
5- Trú xứ có số cựu tỷ kheo bằng số lượng tỷ kheo khách:
Nội dung như điều 4, nhưng số lượng cựu tỷ kheo và tỷ kheo khách bằng nhau, thì các tỷ kheo cựu với các tỷ kheo khách
nên cùng với các tỷ kheo khách tác pháp tự tứ lại, dù đã đứng dậy hay chưa đứng dậy. Nếu các tỷ kheo cựu không tác pháp tự tứ lại là sai luật sẽ như pháp xử trị.
6- Trú xứ số cựu tỷ kheo ít, số lượng tỷ kheo khách nhiều:
Nội dung như điều 4 và 5, nhưng số lượng cựu tỷ kheo ít, số lượng tỷ kheo khách nhiều, số cựu tỷ kheo dù tác pháp tự tứ rồi, cũng nên cùng với tỷ kheo khách tác pháp tự tứ lại. Nếu không là sai luật, sẽ như pháp xử trị.
7- Trú xứ cựu tỷ kheo có treo dấu hiệu:
Nếu ngày tự tứ, tỷ kheo khách đến nơi một trú xứ nào đó, thấy các tỷ kheo cựu trú có treo những dấu hiệu đã tự tứ, mà không tìm hỏi, liền tác pháp yết ma tự tứ. Tác pháp yết ma tự tứ như vậy là bất thành mà lại bị tội.
Nếu thấy rồi, liền tìm. Tìm được các tỷ kheo cựu trú rồi, cùng nhau hòa hợp tác pháp yết ma tự tứ. Tác pháp yết ma như vậy là thành tựu,...
8- Tỷ kheo ni, thức xoa ma na, Sa di ni đều không được phép ngăn tác pháp yết ma tự tứ của tỷ kheo. Các tỷ kheo không được trước tỷ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di ni, tác pháp yết ma tự tứ hoặc ngăn tự tứ.
9- Các cư sĩ không được ngăn tác pháp tự tứ của các tỷ kheo và các tỷ kheo không được tác pháp yết ma tự tứ và ngăn tự tứ trước mặt các cư sĩ.
Bấy giờ vua Ba tư nặc sai quân lính đến hộ vệ chúng Tăng. Các tỷ kheo nói với binh lính rằng: “Quý vị nên đi ra ngoài một chút, chúng tôi muốn tác pháp yết ma tự tứ”.
Quân lính nói: “ Nhà vua sai chúng tôi đến đây để hộ vệ chúng Tăng, nên chúng tôi không dám rời đi chỗ khác”.
Các tỷ kheo liền thưa đức Phật việc ấy, Ngài dạy: “Các Thầy nên yêu cầu họ tránh một lần nữa. Nếu họ tránh thì tốt, nếu họ không tránh, thì các tỷ kheo nên đến chỗ mà họ không thấy không nghe để tác pháp yết ma tự tứ, chứ không được ở trước người chưa thọ đại giới mà tác pháp yết ma tự tứ”. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 841a – 843b).
VIII - Tránh Những Sai Lầm Khi Thực Hành Pháp Tự Tứ
Theo Luật Tứ Phần 37, 38, những sai lầm trong khi tự tứ cần phải tránh như sau:
1- Tránh đồng loạt tự tứ gây nên ồn ào. Tự tứ từng người một.
2- Tự tứ theo Tăng Pháp, tỷ kheo phải tự tứ từ tự tứ nhân, không được tùy ý tự tứ.
3- Không được ngồi tại chỗ để tự tứ, phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.
4- Thượng tọa rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ, tăng tỷ kheo cũng phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.
5- Không được có ý nghĩ lén nói tự tứ, sợ tỷ kheo khác, vì mình tác yết ma hoặc ngăn mình tự tứ. Phải nói tự tứ một cách rõ ràng, đầy đủ, khiến cho người khác nghe được.
6- Không được có ý nghĩ, ta nên tự tứ nhanh; nếu không, tỷ kheo khác vì ta tác yết ma ngăn tự tứ. Đức Phật cho phép an cư rồi thong thả tự tứ.
7- Không được nói tự tứ một lần, phải nói tự tứ ba lần.
8- Không được lật ngược y, quấn y nơi cổ, trùm trên đầu hoặc phủ cả hai vai để tụ tứ; không được mang dép hoặc ngồi trên giường hoặc trên đất để tự tứ. Phải trạc y bên phải, quỳ chắp tay nói lời tự tứ. Tỷ kheo bệnh, thì tùy duyên thích hợp để tự tứ.
9- Tự tứ không được ngồi ở ngoài thuyết giới đường. Tự tứ nhân phải bạch Tăng, trước khi nói tự tứ.
10- Không được tự tứ phi pháp biệt chúng. Không được tự tứ phi pháp hòa hợp chúng. Không được tự tứ như pháp biệt chúng. Phải tự tứ như pháp hòa hợp chúng.
11- Trong trú xứ có vị tiền an cư, có vị hậu an cư thì nhật kỳ tự tứ phải thuận theo số đông để tự tứ.
12- Tự tứ vào ngày mười bốn hoặc rằm, sau giờ Đại thực hay tiểu thực.
13- Vì hoàn cảnh, nếu nơi không có giới trường, Thượng tọa phải tập Tăng, bạch nhị yết ma kết tiểu giới với không gian vừa đủ cho các tỷ kheo tự tứ ngồi kín vòng, để tác pháp tự tứ và sau khi tự tứ xong, phải bạch nhị yết ma giải tiểu giới trước khi đi.
14- Tăng năm vị, trong đó có một người thọ dục, thì không được tác pháp bạch nhị yết ma cử tự tứ nhân. Vì không đủ túc số Tăng như pháp.
15- Tăng chỉ có bốn vị hiện diện, không được nhận dục của người thứ năm, tức là người vắng mặt. Nếu chỉ có ba người, không được nhận gởi dục của người thứ tư. Phần còn lại cũng nên hiểu như vậy.
16- Tâm niệm tự tứ không có dự dục.
17- Khi tự tứ không biết tội, không biết người, nhưng sau khi tự tứ xong lại biết tội, biết người. Tuy vậy, nhưng không được đem những việc đã qua để cử tội lại.
Khi tự tứ không biết tội, nhưng biết người. Tự tứ rồi biết tội, biết người, nhưng không được đem việc cũ của người mà cử tội lại.
Khi tự tứ biết tội, nhưng không biết người. Nhưng, nếu tự tứ rồi không được đem việc cũ của người mà cử tội lại. (Tham khảo Tứ Phần Luật 37, 38, Đại chính 22, từ tr 836c – 840).
IX - Sau Tự Tứ:
Sau tự tứ, các tỷ kheo có thể rời khỏi trú xứ an cư để đi hoằng đạo, nhưng trước khi các tỷ kheo rời khỏi trú xứ, Tăng phải tác pháp yết ma giải đại giới an cư và kết lại đại giới của trú xứ. Vì khi an cư Tỷ kheo Tăng các nơi về tập trung đông tại trú xứ, do đó phải yết ma mở rộng đại giới, nay xuất hạ các tỷ kheo tùy duyên hoằng hóa, nên phải kết lại đại giới của trú xứ cho thích hợp.
Tăng có thể tác pháp thọ ca thi na y, để tiện việc cho các tỷ kheo cất giữ vải trong vòng ba mươi ngày đủ để may y mới, không bị phạm vào các học xứ quy định liên hệ đến việc chứa vải và rời y để nghỉ qua đêm.
Và sau khi an cư xong, thì Tăng phân chia bình đẳng các lợi dưỡng đến các tỷ kheo, do tín đồ cúng dường suốt ba tháng, sau khi đã sử dụng cho việc an cư của Tăng còn dư lại.
X - Chánh Pháp Tồn Tại
Chánh pháp tồn tại đúng ý nghĩa và có lợi ích thiết thực cho thế gian hay không là vai trò của Tăng đoàn. Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợp và thanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợp và thanh tịnh. Hòa hợp và thanh tịnh là bản thể của Tăng đoàn và là pháp lý tồn tại của tổ chức giáo đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn trên thế gian này.
Sự tồn tại và phát triển của Tăng đoàn dựa trên bản thể hòa hợp và thanh tịnh, đó là sự tồn tại chuyển tải đúng nội dung của chánh pháp. Chánh pháp tồn tại và được chuyển vận từ ý nghĩa này mà lan rộng từ một trú xứ đến nhiều trú xứ, từ một quốc gia đến toàn thể thế giới.
Tuy rằng, các tỷ kheo sinh hoạt nhiều trú xứ và nhiều quốc gia khác nhau, có những dị biệt về phong tục tập quán, nhưng họ thống nhất với nhau về một bậc Thầy giác ngộ, đó là Đức Thế Tôn. Họ thống nhất với nhau về Pháp là Pháp Bát Chánh đạo. Họ thống nhất với nhau về bản thể tỷ kheo thành tựu từ pháp bạch Tứ yết ma. Họ thống nhất với nhau về Tăng là bốn tỷ kheo trở lên cùng sinh hoạt với nhau trong bản thể hòa hợp và thanh tịnh. Họ sống hòa hợp và thanh tịnh với nhau trong các Tăng sự thuyết giới, an cư, tự tứ và các pháp sự khác.
Thống nhất của Tăng đoàn như vậy, không phải đơn thuần là thống nhất về mặt tổ chức và hành chánh mà thống nhất ngay nơi nguồn gốc và bản thể. Bất cứ pháp gì có cùng một nguồn gốc và bản thể, tự nó là thống nhất.
Ở trú xứ nào, không có các tỷ kheo cùng nhau hòa hợp, thanh tịnh, không cùng nhau thuyết giới, an cư và tự tứ đúng pháp, thì trú xứ ấy xem như không có Tăng bảo trú trì và ở xứ sở đó Chánh pháp chưa được chuyển vận, mặt trời Chánh pháp chưa được sáng lên, ruộng đồng Chánh pháp chưa được cày xới, quần chúng trú xứ ấy lấy ruộng ở đâu mà gieo trồng hạt giống phước đức?
Do đó, Pháp an cư của Tăng từ Đức Thế Tôn chế định; Pháp tự tứ của Tăng cũng từ Đức Thế Tôn chế định. Pháp ấy phù hợp với an tịnh của Niết bàn. Và Tăng chỉ đúng nghĩa là Tăng, khi mọi sinh hoạt của Tăng đều được biểu hiện từ nơi Phật và Pháp. Pháp an cư của Tăng là một trong những biểu hiện cụ thể ấy. Và do sự biểu hiện ấy mà Chánh pháp trường tồn, làm cho thế gian bớt tăm tối và là phước điền cho thế giới chư thiên và loài người gieo trồng phước đức vậy.

[1] Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân kinh, Tạp, tr 504, Đại Chính 2.
[2] Giới kinh của Đức Phật Thích Ca, muời hai năm đầu, kể từ khi thành đạo, theo Tứ Phần Luật, Đại Chính 22.
[3] Tứ Phần Luật 37, An cư kiền độ, tr 830b, Đại Chính 22. Pàli, A, A, ii 97.
[4] Phạm Võng Kinh, tr 1008a, Đại Chính 24.
[5] Dẫn theo Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao, tr 58a, Đại Chính 40.
[6] Theo Luật Tứ Phần 58, có ba thời kỳ an cư: -Tiền an cư – Trung an cư - Hậu an cư, tr 998b11, Đại Chính 22. Theo Luật Tăng kỳ 27: Tiền an cư từ 16 tháng 4 đến 15 tháng 7. - Hậu an cư từ 16 tháng 5 đến 15 tháng 8., tr 451b10, Đại chính 22.
[7] Tứ Phần 37, tr 380, Đại Chính 22.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Lời Phật dạy: Nhân quả của một vị Sa di ni .

 Nhân quả vốn công bằng, không ai có thể trốn tránh được nhân quả, gieo gió ắt gặt bão


 
 
Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana. Bấy giờ, tôn giả Moggallàna trú ở núi Gijjhakùta (Linh Thứu), khi từ núi bước xuống liền mỉm cười. Các tôn giả khác thấy vậy hỏi nguyên nhân, Moggallàna đáp:
Ở đây, này các Hiền giả, khi từ núi Gijjhakùta bước xuống, tôi thấy một Sa di ni giữa hư không. Y của vị này bị cháy đỏ rực, đỏ ngọn. Bình bát, cái nịt, thân thể cũng bị cháy đỏ rực, đỏ ngọn. Vị ấy thốt lên những tiếng kêu đau đớn.
Này các Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: Thật hy hữu thay! Một kẻ như vậy lại trở thành một chúng sanh, một Dạ xoa như vậy.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:
Xưa kia Ta cũng thấy vị Sa di ni ấy nhưng Ta không nói, bởi nếu có nói, các người khác cũng không tin.
Này các Tỷ kheo, vị Sa di ni ấy là một ác Sa di ni trong thời bậc Chánh đẳng giác Kassapa thuyết pháp. Do ác nghiệp người đó thuần thục, sau khi bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, với quả báo còn lại, vị ấy cảm thọ một thân thể như vậy.
 
LỜI BÀN:
Sẽ kinh hãi cho bất cứ ai khi nhìn thấy một chúng sanh du hành trong hư không với toàn thân bị lửa cháy, than khóc thảm thiết. Càng kinh hãi hơn khi chúng ta biết đó là một nữ tu Phật giáo, vị Sa di ni. Thế nhưng chuyện gì cũng có thể xảy ra, dù là người xuất gia nếu không chánh niệm, làm ác thì bị đọa lạc cũng là chuyện thường.
Nhân quả vốn công bằng, không ai có thể trốn tránh được nhân quả, gieo gió ắt gặt bão. Có điều, với tuệ giác của Thế Tôn và bậc Thần thông đệ nhất Moggallàna cùng các Thánh giả A la hán thì thấy rõ nhân quả của chúng sanh (Thiên nhãn minh) còn chúng ta người phàm mắt thịt thì lại không. Đã không thấy nên nhiều khi chẳng tin hoặc có tin thì cũng không kiên cố. Vì vậy mà người tu tuy nhiều nhưng giải thoát chứng đạo thì chẳng bao nhiêu, thậm chí một vài người còn bị đọa lạc.
Điều đáng lưu tâm ở đây là sự “không nói” của Thế Tôn và nụ cười mỉm của Tôn giả Moggallàna. Thấy rõ sự thật nhân quả nhưng khó chia sẻ cho người phàm vốn trí mỏng nghiệp dày, trừ một vài trường hợp có duyên lành. Nhân quả có ba thời, trong thời hiện tại hiện báo vẫn có người chưa tin huống chi như những thời tương lai sinh báo và hậu báo.
Nhưng chắc chắn rằng làm ác sẽ bị ác báo. Vị Sa di ni tạo ác nghiệp trong thời Phật quá khứ mà đến thời Thế Tôn dư báo vẫn còn, làm quỷ Dạ xoa bị thiêu đốt, đói khát khổ sở, khóc than thảm thiết trong khi du hành giữa hư không. Sự kiện này cảnh tỉnh chúng ta luôn thận trọng với điều ác, dù nhỏ như tơ tóc. Quả báo ác sẽ theo người làm ác như bóng theo hình, như “bánh xe theo chân con vật kéo xe”, bất luận người đó là ai.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

SA DI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC THƯỢNG HẠ - Thích Tâm Châu
Phẩm số của Sa-Di tuy có ba bực, nhưng bực nào cũng vâng giữ mười giới, nên gọi chung là Sa-Di Nhất Pháp Đồng (cùng một pháp Sa-Di). Nếu ai cạo bỏ râu tóc mà chưa thụ mười giới thì gọi là Hình-Đồng Sa-Di. Nghĩa là, hình-tướng tuy đồng, nhưng không giữ giới, cho nên không được dự vào số năm chúng xuất-gia. Nay không kể vị Hình-Đồng Sa-Di mà chỉ kể đến vị Sa-Di Pháp-Đồng thôi.
SA DI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC THƯỢNG HẠ
 Đệ-Tử, Bồ-Tát-giới, chùa Vân-Thê Sa-Môn Châu-Hoằng biên-tập.
Thích Tâm Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
 
 DẪN NHẬP
Nay bộ sách yếu-lược này, do Vân-Thê Đại-Sư rút ra từ trong kinh Sa-Di Thập-Giới và các kinh khác. Bộ này, nghĩa rất thiết-yếu mà văn giản-lược, rất tiện cho Sa-Di sơ-cơ tập-học và dễ như xem quả trong bàn tay.
Xét thấy Sa-Di có ba bực:
1. Từ bảy tuổi đến mười ba tuổi, gọi là Khu-Ô Sa-Di (Sa-Di đuổi quạ). Nghĩa là tuổi còn nhỏ chưa biết làm việc gì khác, chỉ sai Sa-Di này vì chúng-tăng giữ gìn thóc lúa và, làm việc nơi nhà nấu ăn, nơi ngồi thiền ... cũng như xua đuổi chim quạ, thay thế chút nhọc mệt cho chúng-tăng, sinh thêm phước lành và, không để ngồi không, tiêu-dùng của tín-thí và uổng-phí thời-gian vậy.
2. Từ mười ba tuổi đến mười chín tuổi gọi là Ứng-Pháp Sa-Di. Nghĩa là tuổi này thích-ứng được với hai pháp:
- Một là, có thể làm được việc thờ Thày và có thể làm các việc khó nhọc.
- Hai là hay tu-tập ngồi thiền, tụng kinh.
3. Từ hai mươi tuổi đến bảy mươi tuổi gọi là Danh-Tự Sa-Di. Nghĩa là, tuổi đủ hai mươi đáng lẽ được thụ giới Cụ-Túc, nhưng vì căn-tính ám-độn, hoặc lớn tuổi mới xuất-gia không thể gìn-giữ nổi các giới, tuy rằng, tuổi đáng được lên giới Tỳ-Khưu, nhưng, địa-vị chỉ là Sa-Di, cho nên gọi là Danh-Tự Sa-Di.
Phẩm số của Sa-Di tuy có ba bực, nhưng bực nào cũng vâng giữ mười giới, nên gọi chung là Sa-Di Nhất Pháp Đồng (cùng một pháp Sa-Di). Nếu ai cạo bỏ râu tóc mà chưa thụ mười giới thì gọi là Hình-Đồng Sa-Di. Nghĩa là, hình-tướng tuy đồng, nhưng không giữ giới, cho nên không được dự vào số năm chúng xuất-gia. Nay không kể vị Hình-Đồng Sa-Di mà chỉ kể đến vị Sa-Di Pháp-Đồng thôi.
Tiếng Phạm gọi là Sa-Di (Sràmanera), Trung-Hoa dịch nghĩa là Tức-Từ. Nghĩa là, dứt ác, làm lành, dứt sự nhiễm-trược của đời, đem lòng lành mà cứu giúp chúng-sinh. Có chỗ dịch là Cần-Sách (siêng-năng răn giục) và, cũng có chỗ dịch là Cầu-Tịch (tìm cầu sự vắng-lặng).
Luật-Nghi là mười giới-luật và các uy-nghi.
THIÊN TRÊN: CỬA GIỚI-LUẬT
Phật dạy người xuất-gia, năm Hạ trở về trước chuyên-tinh về giới-luật, năm Hạ trở về sau, mới cho nghe giảng về giáo-lý và tham thiền.
Thế nên, vị Sa-Di cạo tóc rồi, trước phải thụ mười giới, sau mới đến giới-đàn thụ giới Cụ-Túc. Nay được tên Sa-Di, chính do ở chỗ thụ giới. Thế mà, người ngu mờ vậy không biết, người dại khinh mà chẳng học, lại toan vượt bực, ý muốn cao xa, cũng đáng thương xót!
Nhân đem mười giới, lược-giải vài lời, để cho người mới học, biết phương-hướng tới. Người hảo tâm xuất-gia, dốc chí vâng làm, cẩn-thận, chớ có trái phạm.
Như thế, sau này, gần thì làm thềm bực cho giới Tỳ-Khưu, mà xa thì làm cội gốc cho giới Bồ-Tát.
Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, ngỏ hầu thành-tựu Thánh-đạo, chẳng uổng chí người xuất-gia vậy!

Nếu ai muốn xem rộng hơn, tự mình nên xem trọn bộ Luật-tạng.
Mười giới sau đây, rút trong kinh Sa-Di Thập-Giới. Đức Phật sai Tôn-Giả Xá-Lỵ-Phất truyền-trao cho ông La-Hầu-La.
GIỚI THỨ NHẤT: KHÔNG SÁT SINH
Trên từ chư Phật, Thánh-nhân, sư, tăng, cha mẹ và dưới cho đến các loài: bò, bay, cựa-quậy... côn-trùng nhỏ-nhặt, phàm các loài có tính-mạng không nên cố ý giết. Hoặc mình giết, hoặc xúi người giết, hoặc thấy người khác giết tùy-hỷ, trong kinh nói rằng: “Ai phạm giới này chẳng phải là Sa-Di vậy.” (Trong kinh, luật nói rộng-rãi vì văn nhiều, nên không chép ra đây).
Trong kinh chép: “Tháng mùa Đông hay sinh ra loài rận, nếu áo có rận, bắt bỏ vào ống và lấy bông gòn cho vào cho nó ấm, rồi cạo những cấu nhơ trong mình, bò vào cho nó ăn. Với tâm từ, còn sợ chúng đói, lạnh mà chết, huống là còn dám giết chúng!
Cho đến, những việc như lọc nước, che đèn, không nuôi các loài mèo, chồn v.v.. đều là đạo từ-bi của đức Phật. Loài nhỏ còn không nuôi, loài lớn chúng ta hẳn biết rõ ý vậy!
Hạnh từ-bi như thế, mà người đời nay không làm được, còn thêm sự giết hại, nên chăng?
Trong kinh Sa-Di Thập-Giới có nói: “Thi ân tế phạp, sử kỳ đắc an” nghĩa là, ra ân cứu giúp lúc người bị thiếu ngặt, khiến cho họ được yên vậy, nếu thấy kẻ khác giết-hại, nên khởi tâm từ.
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ HAI: KHÔNG TRỘM CẮP
Giải rằng: Những vật quý trọng như vàng, bạc cho đến vật nhỏ như cây kim, ngọn cỏ, người ta không cho thì không được lấy.
Hoặc của thường-trụ, hoặc của tín-thí, hoặc của chúng-tăng, hoặc của nhà nước, hoặc của dân, hoặc của tất cả; hoặc cướp ngang mà lấy, hoặc ăn cắp, hoặc dối gạt mà lấy..., cho đến việc trốn thuế, dối đò v.v.., đều là thái-độ gian-trộm!
Trong kinh chép: “Một Sa-Di trộm của thường-trụ bảy trái cây, một Sa-Di thứ hai trộm của chúng-tăng vài cái bánh, một Sa-Di thứ ba trộm của chúng-tăng một chút đường phèn, cả ba Sa-Di này, khi chết phải đọa vào địa-ngục.”
Vì vậy, trong kinh có nói: “Thà chịu chặt tay chứ không lấy của phi-tài.”
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ BA: KHÔNG DÂM DỤC
Giải rằng: người tại-gia giữ năm giới, chỉ cấm tà-dâm. Người xuất-gia thụ mười giới, đoạn hẳn dâm-dục.
Hễ can-phạm tất cả nam, nữ trong thế-gian, đều là phá giới.
Kinh Lăng-Nghiêm chép: “Tỳ-Khưu-Ni Bảo-Liên-Hương, riêng làm việc dâm-dục và tự nói rằng: dâm-dục không phải như sát-sinh, như ăn trộm, không có tội báo, liền cảm thấy trong thân sức nóng phát ra mãnh-liệt và sinh-thân ấy phải đọa vào địa-ngục.”
Người đời vì dâm-dục, thân mất, nhà tan. Người xuất-gia, ra khỏi nhà thế-tục làm vị Tăng, há lại vi-phạm!
“Căn-bản sinh-tử, dâm-dục là thứ nhất.”
Trong kinh nói: “Dâm-dật mà sống, chẳng bằng trinh-khiết mà chết.”
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ TƯ: KHÔNG NÓI DỐI
Giải rằng: Nói dối có bốn loại:
Một là, Vọng-Ngôn: Nghĩa là, lấy phải làm trái, lấy trái làm phải; thấy nói là chẳng thấy, chẳng thấy nói là thấy, nói những lời dối-trá chẳng thực v.v ...
Hai là, Ỷ-Ngữ: Nghĩa là, những lời nói thêu-dệt trau-chuốt, khúc hát hay, lời tình-tứ, khơi lòng dục, thêm sự bi-cảm, làm xiêu tâm-chí người ta.
Ba là, Ác-Khẩu: Nghĩa là lời nói thô-ác, mắng nhiếc người ta v.v..
Bốn là, Lưỡng-Thiệt: Nghĩa là nói lưỡi đôi chiều, hướng người này nói người kia, tới người kia nói người này, ly-gián ân-nghĩa, xúi giục đấu-tranh v.v... Cho đến, trước khen, sau chê, trước mặt phải, sau lưng trái. Chứng ghép tội cho người và vạch bày cái xấu của người.
Như trên, đều thuộc loại vọng-ngữ.
Nếu kẻ phàm-phu tự nói mình đã chứng được quả Thánh, như nói: “Mình được quả Tu-Đà-Hoàn, quả Tư-Đà-Hàm v.v...” gọi là đại-vọng-ngữ, tội ấy rất nặng.
Còn vọng-ngữ vì cứu người cấp-nạn, phương-tiện quyền biến khéo-léo, từ-bi giúp ích cho người, thì không phạm.
Cổ-nhân nói: “Điều cốt-yếu để lập công-hạnh cho mình, trước tiên là không được vọng-ngữ”. Người đời còn thế, huống là người học đạo xuất-thế!
Trong kinh chép: “Một Sa-Di khinh cười một vị Tỳ-Khưu già đọc kinh, tiếng như chó sủa mà vị Tỳ-Khưu già ấy đã là bực A-La-Hán. Nhân ấy vị Tỳ-Khưu già dạy cho vị Sa-Di kia biết, nên gấp sám-hối, hầu khỏi đọa vào địa-ngục, nhưng vẫn phải làm thân chó.” Một lời nói ác, bị hại đến thế! Vì vậy trong kinh nói: “Ôi, người ta ở đời, búa ở trong miệng. Sở dĩ, thân mình bị chém, là do lời nói ác” .

Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ NĂM: KHÔNG UỐNG RƯỢU
Giải rằng: Uống rượu là uống những thứ gì có chất rượu, có thể làm say người ta. Nước Tây-Vực xưa có nhiều loại rượu. Có những loại, lấy cây mía, trái nho, các thứ hoa mà làm ra rượu. Và, Trung-Hoa lấy gạo làm ra rượu, cũng đều không nên uống.
Trừ khi có bịnh nặng, nếu không có rượu, không sao chữa khỏi được, nên bạch cho chúng biết, rồi sau mới uống. Vô cố, một giọt cũng không được thấm vào môi.
Cho đến, không được ngửi rượu, không được dừng ở nhà làm rượu và, không được lấy rượu cho người uống.
Ông Nghi-Địch làm rượu rất ngon, vua Vũ-Đế nhà Hạ uống biết, nhưng nhân đó liền cấm dứt.
Vua Trụ nhà Ân, làm ao đổ rượu, nước phải diệt vong!
Làm vị Tăng mà uống rượu, đáng hổ-thẹn lắm!
Xưa kia có một ông Ưu-Bà-Tắc-giới, nhân vì phá giới rượu mà các giới liền bị phá. Trong 36 lỗi, chỉ một lần uống rượu liền phạm hết. Như vậy, lỗi chẳng phải nhỏ!
Những người ham uống rượu, chết phải đọa vào trong địa-ngục Phí-Thỉ (phân sôi), đời đời ngu-si, mất giống trí-tuệ.
Rượu là thứ thuốc dại mê-hồn, tệ hơn vị tỳ-chậm. Cho nên trong kinh Thập-Giới nói rằng: “Thà uống nước đồng sôi, đừng nên phạm vào rượu”.
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ SÁU:
KHÔNG ĐEO TRÀNG HOA HƯƠNG,
KHÔNG THOA HƯƠNG VÀO MÌNH.

Giải rằng: Tràng hoa là một vật phẩm, người Tây-Vực (Ấn-Độ) lấy hoa xâu làm tràng, để trang sức trên đầu. Như người Trung-Hoa, lấy các loại nhung, lụa, vàng, ngọc, châu báu chế làm khăn, mũ v.v... vậy.
Thoa hương vào mình, như những người sang bên Tây-Vực lấy các thứ danh-hương nghiền làm bột và bảo kẻ thanh-y thoa vào mình. Tại Trung-Hoa có những thứ như đeo hương, xông hương và các thứ son phấn v.v...
Người xuất-gia há nên dùng những thứ ấy!
Đức Phật chế ra ba y, toàn dùng bằng vải gai, to, thưa. Những thứ bằng lông thú, miệng con tằm hại vật, tổn lòng từ, chẳng phải các thứ người xuất-gia nên dùng.
Trừ khi người nào tuổi đến bảy mươi, già yếu quá, không có vải lụa thì không ấm, nên có thể mặc được. Những người khác thì không được.
Vua Vũ nhà Hạ mặc áo xấu, ông Công-Tôn nhà Hán đắp mền vải. Vua, quan là hàng sang-trọng, đáng sắm mà còn không sắm, há là người tu mong đắc đạo lại trở lại tham đồ mặc hoa-mỹ ư? Y-phục hoại sắc, áo phấn-tảo che thân-hình, mới hợp với người xuất-gia vậy.
Xưa kia có vị Cao-Tăng( tức là Huệ-Hưu Pháp-Sư, đời Đường) ba mươi năm mang một đôi giầy, há là kẻ phàm vậy ư?
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ BẢY:
KHÔNG CA, VŨ, XƯỚNG KỸ, KHÔNG ĐI XEM, NGHE

Giải rằng: “Ca” là miệng hát ra những bài hát. “Vũ” là thân làm trò múa giởn. “Xướng kỹ” là những loại đàn cầm, đàn sắt, ống tiêu, ống quản v.v...
Không được tự mình làm, không được khi người khác làm, cố ý đến xem, nghe.
Xưa kia có ông Tiên, nhân nghe các cô gái hát giọng tiếng vi-diệu, liền mất thần-túc-thông. Xem, nghe còn hại như thế, huống là mình tự làm ư?
Người ngu-mê đời nay nghe trong kinh Pháp-Hoa có câu: “Tỳ-bà nạo-bạt” liền tha-hồ đi học âm-nhạc. Song, trong khinh Pháp-Hoa nói về âm-nhạc, là để cúng-dường chư Phật, không phải là để vui cho mình!
Những tự-viện ứng-hợp với việc làm đạo-tràng pháp-sự cho nhân-gian, còn có thể làm được. Nay vì đường sinh-tử, bỏ tục, xuất-gia, há lại không tu việc chính, mà lại đi cầu học nghề âm-nhạc cho giỏi sao?
Cho đến đánh cờ vây (vi-cơ), cờ lục-bác, ném xúc-xắc (đầu-trịch), đánh bạc (su-bồ) các việc, đều loạn đạo-tâm tăng thêm lỗi xấu.
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ TÁM:
KHÔNG NGỒI GIƯỜNG CAO, RỘNG, LỚN

Giải rằng: Đức Phật chế giường cây, cao không quá tám ngón tay đức Như-Lai. Quá kích-thước đó thời phạm.
Cho đến các thứ giường sơn vẽ, chạm trổ và các thứ màn nệm bằng tơ lụa cũng không nên dùng.
Người xưa dùng cỏ làm tòa ngồi, đêm thì nằm ngủ dưới gốc cây. Nay ta có giường chõng cũng đã hơn xưa rồi, sao còn muốn giường cao, rộng chỉ làm buông-lung cho tấm thân giả-dối!

Ngài Hiếp-Tôn-Giả, suốt đời, lưng chẳng đặt xuống chiếu. Ngài Cao-Phong-Diệu Thiền-Sư lập nguyện đứng ba năm, không bén tới giường chõng. Ngài Ngộ-Đạt Quốc-Sư đời Đường, nhân ngồi lên tòa trầm-hương giảng pháp, còn bị tổn phước mà mắc quả báo.
Than ôi, có thể mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ CHÍN: KHÔNG ĂN PHI THỜI
Giải rằng: Phi thời là quá giờ Ngọ, không phải thời-phận của chư Tăng ăn. Chư Thiên ăn sớm mai. Chư Phật ăn giờ Ngọ. Loài quỷ ăn tối. Chúng-Tăng nên học Phật, không ăn quá giờ Ngọ.
Loài Ngã-Quỷ nghe tiếng chén bát thời trong cổ họng bốc lửa. Vì vậy, ăn đúng giờ Ngọ, còn nên im-lặng, huống là ăn quá giờ Ngọ ư?
Xưa kia có vị Cao-Tăng (Pháp-Huệ Thiền-Sư) nghe vị Tăng ở căn phòng bên, sau giờ Ngọ, nổi lửa nấu ăn, bất giác, ngài sa nước mắt khóc, thương Phật-Pháp suy-tàn vậy!
Người đời nay, thân-thể suy-yếu, nhiều bịnh muốn ăn hoài hoài, hoặc không thể giữ được giới này, nên người xưa có nói bữa ăn chiều vì muốn chữa bịnh, cũng ví như “Dược-Thạch”. Tuy thế, phải biết, đó là trái lời Phật dạy sinh tâm rất thẹn-hổ và, phải nghĩ đến nỗi khổ của loài Ngã-Quỷ, thường làm việc thương xót cứu giúp, không ăn nhiều, không ăn ngon, ăn mà tâm-ý không yên, họa may mới có thể được! Và, nếu chẳng được như thế, mắc tội rất nặng!
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ MƯỜI:
KHÔNG CẦM GIỮ ĐỒ SINH, TƯỢNG, VÀNG, BẠC, CỦA BÁU

Giải rằng: “Sinh” là vàng thực. “Tượng” là tương-tự (gần giống như); tương-tự vàng là bạc. Nghĩa là: Vàng, bổn-chất của nó vàng, nay đem bạc nhuộm màu vàng, màu nó giống như vàng mà thôi!
Của Báu, đây là chỉ cho bảy thứ châu báu vậy.
Vì các thứ vàng, bạc, của báu trên đều thêm lớn lòng tham, hư hại đạo-nghiệp, nên đức Phật khi còn tại thế, chư Tăng đều đi khất-thực, không lập lò bếp; y-phục, phòng-thất, đều nhờ thí-chủ ủng-hộ. Đã nhờ ngoại duyên ủng-hộ, dù có cầm giữ vàng bạc, cũng thành vô-dụng. Cầm giữ còn cấm, thì biết được sự thanh-bạch như thế nào!
Ông Quản-Ninh và ông Hoa-Hâm đời nhà Hán cuốc đất được vàng, chẳng thèm lấy. Người thế-nho còn thế, người Thích-Tử xưng là nghèo, còn chứa của làm chi?
Người đời nay, đều chẳng hay làm hạnh khất-thực. Hoặc vào chốn tùng-lâm, hoặc ở nơi am-viện, hoặc đi phương xa, cũng không khỏi phải chi-phí đến tiền bạc. Tất nhiên vậy, nhưng nên biết đó là trái lời Phật dạy, sinh tâm rất hổ thẹn và, nên nghĩ đến sự nghèo thiếu của kẻ khác, mà thường làm việc bố-thí, Không lo tìm, không cất chứa, không buôn bán và, không dùng bảy báu, trang-nghiêm y-phục, khí cụ, các vật.. họa may còn có thể được!
Như hoặc chẳng được như vậy, mắc tội rất nặng!
Than ôi, có thể nào mà chẳng răn được ư!
CHÚ-THÍCH
1.Cụ-Túc: Tức là giới Tỳ-Khưu.
2.Năm Chúng Xuất-Gia: Tức là Sa-Di, Sa-Di-Ni, Thức-Xoa-Ma-Na, Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni.
3.Hạ: Người xuất-gia không lấy năm của đời làm tuổi. Mỗi năm có 3 tháng an-cư kết Hạ, các vị Tỳ-Khưu tinh-tiến tu-hành được viên-mãn cho tới ngày tự-tứ, được thêm một tuổi, gọi là tuổi Hạ (Hạ-lạp).
4.Ba mươi sáu lỗi: Nhân uống rượu mà phạm 36 lỗi. Kinh Thiện Ác Sở Khởi nói: 1/ Của cải hao mất. 2/ Hiện-tại nhiều tật-bịnh. 3/ Khi say đánh lộn với người. 4/ Thêm nhiều sự sát hại. 5/ Tăng thêm lòng giận-dữ. 6/ Nhiều việc không toại-ý. 7/ Trí-tuệ dần kém. 8/ Phúc-đức không thêm. 9/ Phúc-đức càng giảm. 10/ Tiết-lộ chuyện kín. 11/ Sự-nghiệp không thành. 12/ Thêm việc ưu-khổ. 13/ Các căn mê-muội. 14/ Nhơ-nhuốc cho cha mẹ. 15/ Không kính bậc Sa-Môn. 16/ Không tin người tu phạm-hạnh. 17/ Không kính Phật. 18/ Không kính Pháp và Tăng. 19/ Gần bạn ác. 20/ Xa bạn lành. 21/ Bỏ việc ăn uống. 22/ Thân-thể trần-truồng. 23/ Việc dâm-dục lẫy-lừng. 24/ Nhiều người không ưa. 25/ Nói cười lả-lướt. 26/ Cha mẹ không mừng. 27/ Bà con ghét bỏ. 28/ Hay làm việc phi-pháp. 29/ Xa-lìa chính-pháp. 30/ Không kính bậc hiền-thiện. 31/ Trái phạm nhiều tội-lỗi. 32/ Xa-lìa đạo Niết-Bàn. 33/ Điên-cuồng khất-khưởng. 34/ Tán-loạn thân tâm. 35/ Buông-lung tâm ác. 36/ Thân hoại, mệnh mất đọa vào địa-ngục lớn, chịu khổ khôn cùng.
5.Bảy thứ châu báu: Tức là vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê, xà-cừ, san-hô, hổ-phách.
SA-DI LUẬT-NGHI
QUYỂN HẠ
 
 
 
THIÊN DƯỚI NÓI VỀ MÔN UY-NGHI
 
Uy-Nghi có nghĩa là, vị xuất-gia, có uy khiến cho người ta đáng sợ và, có nghi làm cho người ta đáng kính. Bởi vì, vị ấy giữ giới-luật thanh-tịnh, phạm-hạnh đầy đủ, đường-đường Tăng-tướng, mọi đức uy-nghiêm làm cho người ta nể sợ. Vị ấy, khi hoạt-động, khi an-tĩnh, đều hợp với pháp-tắc, hình-tướng nghiêm-chỉnh, dung-nghi đoan-chính đáng quan-chiêm, làm cho người ta cung-kính. Những tư-cách ấy, thành đạo-phẩm của người xuất-gia và là bậc sư-phạm của cõi Người và cõi Trời. Do đó, trong kinh luật có chỗ nói: “Tịnh-hạnh thành ra đạo-nghi, trong sạch trọn nên giới-phẩm. Chí-khí cao như các vòm sao trên bầu trời, uy-nghiêm như gió, như mây. Trong tâm, ôm-ấp đức-tính con sư-tử và, ngoài tướng biểu-hiện cái uy con tượng-vương. Cõi Người cõi Trời khen ngợi vâng theo và các bộ Long-thần đều khâm-phục.”
Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Giữ-gìn đầy đủ uy-nghi, giáo-pháp, khiến cho ngôi Tam-Bảo không bị đoạn-diệt.”
Nay thiên dưới này gồm có 24 chương, cùng ra một môn uy-nghi, nó là, dấu xe của Sa-Di và cửa ngõ ra khỏi thế-gian vậy.
Đức Phật chế ra luật Sa-Di, vị Sa-Di đủ hai mươi tuổi, khi muốn thụ giới Cụ-Túc, cần phải hỏi vị ấy về những công việc của Sa-Di và, nếu hỏi mà không trả lời được đầy đủ được, thì không cho thụ giới Cụ-Túc. Khi ấy nên nói rằng: “Ông làm Sa-Di mà không biết chỗ cần thi-hành của Sa-Di, thì công việc của bậc Sa-Môn lớn lao, khó làm, ông hành-trì sao được. Ông hãy đi học cho kỹ, khi nào nghe, biết hết tất cả rồi, lúc ấy hãy nên thụ giới Cụ-Túc. Nếu nay trao giới Cụ-Túc cho ông, người đời họ sẽ cho rằng: “Phật-Pháp dễ làm và làm vị Sa-Môn cùng không khó”, không tốt cho danh-nghĩa Phật-Giáo. Vì vậy nên cần phải hỏi trước khi cho thụ giới Cụ-Túc.”
Những điều-tắc được biên-tập sau đây đều rút tỉa trong các kinh luật: Sa-Di Uy-Nghi, Cổ-Thanh-Quy, Sa-Di Thành-Phạm. Và, bộ Hành-Hộ Luật-Nghi của ngài Tuyên-Luật-Sư, tuy bộ này hướng về dạy các vị Tỳ-Khưu tân-học, nhưng trong bộ ấy cũng có những chỗ khá thông-dụng, nên nơi đây, cũng rút tỉa ra.
Vì nhân-tình đời mạt-pháp hay lười biếng, nghe nhiều sinh chán, nên cắt bỏ những chỗ rườm-rà và lấy những chỗ quan-yếu mà thôi. Song, nơi đây, chia ra từng loại, để tiện cho người đọc và học. Thảng hoặc, trong đó có những chỗ chưa đủ, liền theo nghĩa thêm vào một, hai ý cho đầy đủ. Còn vị nào muốn xem rộng thì nên tự mình nghiên-cứu trong Luật-tạng toàn-thư.
1. KÍNH BẬC ĐẠI SA-MÔN
Không được gọi tên tự của bậc Đại Sa-Môn.
Không nghe trộm bậc Đại Sa-Môn thuyết giới.
Không được chuyển lời, nói lỗi bậc Đại Sa-Môn.
Không được đang ngồi, thấy bậc Đại Sa-Môn đi qua 
Không đứng dậy. Trừ khi đọc kinh, khi bị bịnh, 
Khi cạo tóc, khi ăn cơm, khi làm việc chúng.

Bộ Hành-Hộ nói rằng: “5 Hạ trở lên là ngôi vị Xà-Lê, 10 Hạ trở lên là ngôi vị Hòa-Thượng. Tuy việc này là việc của các vị Tỳ-Khưu, nhưng Sa-Di cũng nên dự biết.”
2. THỜ THÀY
Nên dậy sớm.
Khi muốn vào trong cửa phòng Thày, trước tiên nên khảy ngón tay ba tiếng.
Nếu có lỗi, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê dạy răn, không được nói nghịch lại. Nên coi vị Hòa-Thượng, A-Xà-Lê như Phật.
Nếu Thày có sai đổ những đồ bất-tịnh, không được khạc-nhổ, không được giận-bực.
Nếu đỉnh lễ Thày, Thày tọa-thiền, không nên làm lễ, Thày đi kinh-hành, không nên làm lễ, Thày dùng cơm, Thày thuyết kinh, Thày xỉa răng, Thày tắm giặt, Thày ngủ-nghỉ v.v.., đều không nên làm lễ. Khi Thày đóng cửa phòng, không nên làm lễ ngoài cửa. Khi muốn vào trong cửa phòng làm lễ, nên khảy ngón tay ba lượt Thày không ưng thì nên lui.
Dâng đồ ăn uống cho Thày, nên bưng hai tay. Khi Thày dùng xong, nên từ-từ thu dọn đồ-vật.
Hầu Thày, không được đứng đối-diện, không được đứng chỗ cao, không được đứng quá xa, đứng làm sao, để khi Thày nói nhỏ có thể nghe được, không làm tổn sức-lực Thày.
Nếu thỉnh-vấn Thày về nhân-duyên Phật-pháp, nên đắp y tề-chỉnh, lễ-bái, chắp tay, quỳ thẳng, tác bạch. Thày nói điều gì nên lắng lòng, nghe kỹ, suy nghĩ và, in sâu vào tạng-thức.
Nếu khi thỉnh-vấn các việc thông-thường trong nhà không cần phải đỉnh lễ, hồ-quỳ, mà chỉ đứng ngay bên Thày, cứ thực mà trình bạch.
Nếu khi Thày thân-tâm mỏi-mệt, dạy lui nên lui, không được tâm-tình sinh ra sự không vui, hiện ra sắc mặt.
Nếu có phạm giới v.v... không được che dấu và nên cấp tốc đến nơi Thày, cầu xin sám-hối. Thày cho phép sám-hối thì nên tận-tình bày tỏ, tinh-thành hối-cải, lại được thanh-tịnh.
Thày nói chưa xong, chưa được nói.
Không được đùa ngồi trên tòa ngồi của Thày, nằm trên giường nằm của Thày, đội mũ mặc áo của Thày v.v...
Thày sai cầm thư của Thày đem đi đâu, không được tự bóc coi, cũng không được cho ai coi. Đến nơi đưa thư, họ có hỏi điều gì, nên đáp thì cứ thực mà trả lời, hoặc không nên trả lời thì nên từ-khước một cách khéo-léo. Họ lưu lại, không nên ở lại và, nên nhất tâm nhớ Thày, mong về.
Thày tiếp khách, hoặc đứng chỗ thường, hoặc đứng bên Thày, hoặc đứng sau Thày, nhưng phải làm sao, tai mắt của Thày, trò giao-tiếp được với nhau, để khi Thày cần dạy bảo việc gì.
Thày đau yếu, mỗi việc mỗi việc phải dụng-tâm điều-trị, xếp-đặt như phòng-thất, mền-nệm, thuốc-men, cơm-cháo v.v...
Còn các việc: cầm y, trao giầy, giặt tẩy, hong phơi v.v.., các việc ấy có đầy đủ trong Luật, nơi đây không nghi chép nhiều.
PHỤ:
Khi hầu Thày, Thày không bảo ngồi thì không nên ngồi. Thày không hỏi thì không đáp, trừ khi tự mình có việc muốn hỏi.
Khi đứng hầu, không được dựa vách, dựa ghế, nên đứng bên Thày với tư-thế, thân-thể đoan-chính, đôi chân tề-chỉnh.
Muốn lễ Thày, Thày bảo thôi, nên thuận theo mệnh-lệnh của Thày.
Khi Thày cùng tân-khách đàm-luận, nếu chuyện nào hợp với chuyện đạo, có ích cho thân-tâm, đều nên ghi lấy.
Khi Thày sai bảo làm việc gì, nên kíp thời làm xong, không được trái nghịch và khinh-thường.
Ngủ nghỉ, không nên đi ngủ nghỉ trước Thày.
Ai có hỏi tên húy của Thày, nên nói: trên chữ ấy, dưới chữ ấy...
Là đệ-tử nên chọn bậc minh-sư. Chọn được rồi phải thân-cận lâu dài, không được xa Thày quá sớm. Như Thày thực bất-minh, nên tìm bậc lương-đạo.
Trong trường-hợp phải xa Thày, nên nhớ những lời Thày dạy răn, không được mặc tình tự-ý theo những người thế-tục, làm những việc bất-chính. Cũng không được ở những chỗ huyên-náo như chỗ chợ, giếng nước. Không được ở nơi miếu thờ Thần. Không được ở trong phòng nhà dân-chúng. Không được ở gần chùa Ni. Không được ở chung nơi Thày mà làm các việc ác trong thế-gian.
3. THEO THÀY XUẤT-HÀNH
Đi cùng Thày, không được đi qua nhà người khác.
Không được ngưng lại bên đường nói chuyện cùng người khác. Không được ngoái trông bên tả bên hữu, nên cúi đầu theo sau Thày.
Tới nhà đàn-việt, nên đứng một bên Thày, Thày dạy ngồi mới ngồi.
Tới tự-viện người ta, Thày lễ Phật, hoặc mình lễ không được tự-tiện đánh chuông khánh.
Nếu Thày đi lên núi, nên mang tọa-cụ theo.
Nếu đi xa, không được cách Thày quá xa.
Nếu lội nước, nên cầm gậy dò thử xem nông hay sâu.
Còn các việc mang bình-bát, cầm gậy tích-trượng v.v.., đầy đủ trong Luật-tạng, nơi đây, văn nhiều không chép.
PHỤ:
Nếu tình cờ, chia ra, mỗi người đi mỗi ngả, nhưng hẹn gặp ở chỗ nào, thì không được tới sau.
Thày thụ-trai nên đứng hầu xuất-sinh. Thụ-trai xong nên đứng hầu thu cất các đồ cúng-dường.
4. NHẬP CHÚNG
Không được tranh chỗ ngồi, không được ở trên tòa xa xa gọi nhau nói chuyện, cười-đùa.
Trong chúng, ai có điều gì trái với uy-nghi, nên dấu điều xấu, bày điều tốt.
Không nên khoe sự nhọc-mệt để tỏ bày công-lao của mình.
Phàm ở đâu, ngủ không nên ngủ trước người và dậy không nên dậy sau người. Rửa mặt, không nên dùng nhiều nước. Xỉa răng nhổ nước, nên cúi đầu đưa nước xuống, không nên phun nước bắn vào người.
Không được hỷ mũi và khạc nhổ lớn tiếng.
Không được ở trong điện, tháp, tịnh-thất, nơi đất sạch, nước sạch hỷ mũi, khạc-nhổ, mà nên tìm những chỗ khuất vắng.
Không được xỉa răng trước tháp, trước các vị Hòa-Thượng, A-Xà-Lê v.v...
Phàm nghe tiếng chuông nên chắp tay mặc-niệm rằng: “Nghe tiếng chuông, phiền-não nhẹ, trí-tuệ lớn, bồ-đề sinh, lìa hầm lửa, mong thành Phật, độ chúng-sinh”. Úm, già ra đế da sa-bà-ha.
Không được cười nhiều. Nếu cười lớn hay ợ ngáp, nên lấy tay áo che miệng.
Không được đi vội. Không được đem đèn thờ Phật để dùng riêng cho mình. Nếu thắp đèn, nên lấy lồng đèn che kín, đừng để cho loài trùng bay sa vào.
Hoa cúng Phật, nên lựa bông nở tròn đủ. Không được ngửi trước. Bỏ hoa héo, cúng hoa tươi. Hoa héo không nên bỏ dưới đất, giậm lên, mà phải để chỗ vắng vẻ.
Không được nghe Thày gọi mà không đáp. Nghe gọi, nên lấy câu niệm Phật mà đáp.
Khi nhặt được của rơi, nên bạch vị Tri-Sự ngay.
PHỤ:
Không được kết bạn với Sa-Di tuổi trẻ.
Không được dùng ba tấm y của các vị Tỳ-Khưu một cách lẫn-lộn. Không được may nhiều y-phục. Nếu thừa nên xả. Không được sắm dây lưng tốt đẹp và đồ chơi v.v.., trang-điểm giang-hồ, làm trò cười cho người thức-giả. Không được mặc đồ có màu sắc và giống y-phục trang-sức của người thế-tục v.v... Không được tay chẳng sạch mà đắp y.
Khi lên chánh-điện nên mặc khố-miệt (quần lót) cho chắc, không được buông ý tự-tiện.
Không được rong chơi. Không được nói nhiều. Không được ngồi ngó đại-chúng làm việc nhọc-mệt, lười biếng trốn tránh cho yên. Không nên lấy của Chiêu-Đề (Caturdesa, tức là của Tứ-phương-tăng, hay là của tự-viện) như: tre, gỗ, hoa, quả, rau... cùng hết thảy đồ ăn uống, đồ-đạc v.v...
Không được bàn bạc về những việc chính-trị được, mất trong triều-đình, công-phủ, cùng những việc hay, dở, tốt, xấu của nhà bạch-y (thế-tục).
Phàm tự-xưng, nên xưng hai chữ pháp-danh, không được xưng là Ta hay là Tiểu-Tăng.
Không được, nhân việc nhỏ, sinh ra sự tranh-chấp. Nếu việc lớn lao, khó nhẫn, cũng nên giữ tâm bình, khí hòa, dùng lý-luận biện-giải và, nếu không được, cáo-từ rút lui. Nổi giận, thốt ra lời thô-tục, tức không phải là vị hảo-tăng vậy.
5. THEO CHÚNG DÙNG CƠM
Nghe tiếng kiền-trùy (Ghantà: gọi chung những thứ đánh ra tiếng như: chuông, khánh, gỗ v.v...), nên chỉnh y-phục ngay.
Tới khi ăn, chú-nguyện, đều phải cung-kính.
Xuất-sinh, cơm không quá bảy hạt, miến không quá một tấc, bánh bột man-đầu độ chừng móng tay. Không nên nhiều cũng không nên ít. Nhiều là tham. Ít là sẻn. Còn các món khác như rau, đậu-hủ, không nên xuất-sinh.
Khi xuất-sinh, để trong lòng bàn tay trái, tưởng niệm bài kệ: “Nhữ đẳng quỷ-thần chúng, ngã kim thí nhữ cúng; thử thực biến thập phương, nhất thiết quỷ-thần cộng”: Quỷ-thần chúng các vị, nay tôi cho đồ cúng; cơm này khắp mười phương, cho chung mọi quỷ-thần.
Trước khi muốn ăn, phải niệm 5 phép quán-tưởng: “Nhất, kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nhị, thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng-cúng. Tam, phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Tứ, chính sự lương-dược, vị liệu hình khô. Ngũ, vị thành đạo cố, phương thụ thử thực”: Một là, tính xem công-phu của các món ăn ấy nhiều hay ít và, suy lường xem chúng từ nơi nào đem lại. Hai là, suy nghĩ xem đức-hạnh mình được trọn vẹn hay còn thiếu, mà nhận đồ cúng này. Ba là, ngăn ngừa tâm, khỏi lỗi lầm, vì tham v.v... là cội gốc. Bốn là, món ăn chính là vị thuốc hay, vì nó chữa được bịnh khô héo. Năm là, vì thành đạo-nghiệp, nên nhận món ăn này.
Không chê đồ ăn ngon, dở. Không được lấy đồ ăn chung cho riêng, hoặc ném cho chó ăn. Đưa thêm đồ ăn, không nên nói là không dùng. Nếu ăn no rồi, nên lấy tay khiêm-nhường mà khước-từ. Không được gãi đầu, làm bay bụi vào trong bát người bên cạnh. Không được ngậm cơm, nói chuyện. Không được cười nói chuyện tạp. Không được nhai cơm có tiếng. Như muốn xỉa răng, nên lấy tay áo che miệng. Trong cơm, hoặc có sâu, kiến, nên che dấu kín, đừng để người ngồi gần trông thấy, sinh tâm nghi sợ.
Nên ngồi ăn một chỗ, không được ăn xong, lại rời đến chỗ khác ăn nữa. Không được ăn xong, lấy ngón tay vét chén bát mà ăn. Khi ăn, không được nhanh quá và cũng không được chậm quá. Đưa đồ ăn chưa tới, không được sinh phiền-não. Hoặc cần dùng gì, yên lặng chỉ trao, không được cao tiếng gọi lớn. Không được khua chén bát thành tiếng. Không được ăn xong, dậy trước.
Nếu trái với Tăng-chế, nghe tiếng bạch-trùy không được kình-chống không chịu.
Trong cơm có thóc, bóc vỏ mà ăn.
Không được thấy đồ ăn ngon sinh tâm tham, mặc cho miệng ăn. Không được ăn món ăn khác với chúng.
6. LỄ BÁI
Lễ bái, không được chiếm giữa chính-điện, vì nơi ấy dành riêng cho ngôi vị Trụ-Trì.
Có người đang lễ Phật, không được đứng gần và đi ngang qua đầu người ấy.
Chắp tay, không được mười ngón so-le. Không được rỗng giữa. Không được nhét ngón tay vào trong mũi. Phải để ngay trước ngực, cao, thấp đúng chỗ. Không được lễ bái không đúng thời. Như muốn lễ phi-thời, phải đợi khi người ta an-tĩnh.
Khi Thày lễ Phật, không được cùng Thày cùng lễ. Nên theo sau, xa Thày mà lạy.
Thày xá người ta, không được, cùng Thày mà xá.
Ở trước Thày, không được cùng bạn đồng bực lạy nhau. Ở trước Thày không được nhận sự lễ lạy của người.
Tay mình đanh cầm kinh, tượng, không được làm lễ người ta.
PHỤ:
Phàm lễ bái, phải tinh-thành quán-tưởng. Trong kinh liệt-kê bảy phép lễ, cần phải biết:
Một là, ngã-mạn lễ,
Hai là, cầu danh lễ,
Ba là, thân tâm cung-kính lễ,
Bốn là, phát trí thanh-tịnh lễ,
Năm là, thông-nhập pháp-giới lễ,
Sáu là, chính-quán tu thành lễ,
Bảy là, thực-tướng bình-đẳng lễ.

7. NGHE PHÁP
Khi có bảng treo trên giảng-đường, nên sớm lên giảng-đường, đừng đợi khi trống pháp đánh lớn mới tới. Sửa-sang y-phục rồi nên trông ngay tiến thẳng.
Ngồi phải đoan-nghiêm. Không được nói chuyện loạn lên. Không được ho khạc lớn tiếng.
PHỤ:
Khi nghe pháp phải nghe mà nhớ, nhớ mà tu.
Không được chuyên ghi những danh-ngôn, để giúp thêm vào việc bàn cãi. Không được chưa hiểu nói là đã hiểu, mà chỉ là vào tai ra miệng.
Sa-Di tuổi trẻ, giới-lực chưa bền chắc, cần phải học luật, không nên tới trường giảng kinh, luận sớm.
8. TẬP HỌC KINH-ĐIỂN
Nên học luật trước, sau mới học kinh, không nên vượt bực.
Phàm học một bộ kinh nào, trước tiên phải bạch Thày. Khi học kinh ấy xong, lại bạch xin học kinh khác.
Không được lấy miệng thổi bụi trên kinh. Trên án kinh, không được cất những thứ trà, bột và tạp-vật.
Người xem kinh, không được đi ngang qua gần án kinh của người ấy.
Khi kinh sách hư rách, nên tu bổ sớm.
Bổn-nghiệp của Sa-Di chưa thành, không nên tập học các sách bên ngoài, các sách sử của nhiều nhà và những sách vở về việc cai-trị của thế-gian.
PHỤ:
Không được lựa chọn học tập những kinh ứng-phó đạo-tràng. Không được tập học những kinh-điển ngụy-tạo. Không được tập học các sách coi số-mạng. Không được tập học các sách coi tướng. Không được tập học các sách làm thuốc. Không được tập học các sách binh-trận. Không được tập học các sách coi bói, coi quẻ. Không được tập học các sách thiên-văn, địa-lý, sấm-ký. Cho đến không được tập học những sách nói về phép thần-tiên, luyện linh-đơn, luyên đơn-sa thành bạc thành vàng, mà đời trước (Trung-Hoa) thường gọi là “lô-hỏa, hoàng-bạch”. Không được tập học những sách thần-kỳ, quỷ-quái, phù-thủy v.v.. Không được tập học theo lối một người đọc, mấy người rập theo, gọi là “tuyên quyển đả kệ”. Không được tập học các sách vở ngoại-đạo, trừ những vị trí-lực có thừa muốn biết giáo-điển cao thấp của nội, ngoại-giáo, nên mới trải qua cho biết, song, cũng không nên sinh ra tâm tưởng tập học. Không được tập học thơ và từ. Không được để tâm học viết chữ cho tốt. Song, chỉ cần viết nét ngay thẳng là đủ. Không được tay nhơ cầm giữ kinh.
Đối với kinh sách, như đối với Phật, không được giởn cười.
Không được trên án để kinh sách lộn-xộn. Không được đọc lớn tiếng động chúng. Không được mượn kinh sách của người coi rồi không trả, và không để tâm ưa thích, quý trọng, để đến nỗi hư rách.
9. NHẬP TỰ-VIỆN
Khi vào cửa chùa không được đi chính giữa. Phải theo hai bên mà đi. Đi bên trái, chân trái bước trước. Đi bên mặt, chân mặt bước trước.
Không được vô cớ lên đại-điện giởn chơi. Không được vô cớ lên tháp. Vào điện, tháp nên quanh bên hữu không được quanh bên tả. Không được hỉ nhổ trong điện tháp. Nhiễu tháp hoặc ba vòng, bảy vòng, cho đến trăm vòng. Nên biết tượng-trưng của các số này.
Không được để nón, gậy và các đồ-vật khác dựa vào vách chính-điện.
10. VÀO THIỀN-ĐƯỜNG, TÙY CHÚNG
Trên đơn, không được giũ áo, mền thành tiếng, và bay bụi, làm cho người ở đơn bên bị động-niệm.
Khi từ giường bước xuống niệm bài kệ rằng: “Từ sớm, giờ Dần thẳng đến chiều, hết thảy chúng-sinh quanh-quẩn cần giữ mình. Không may, dưới chân thân-mệnh mất, nguyện ngươi tức thời sinh cõi Tịnh.”
Không được cao tiếng, nói to.
Nhẹ tay cuốn bức mành mành, phải đỡ tay sau.
Không được kéo giày ra tiếng. Không được ho khạc có tiếng lớn. Không được cùng với người ở đơn bên, chụm đầu, kề tai, nói chuyện đời.
Hoặc có bạn đạo thân-tình thăm nhau, trong nhà Thiền không được nói chuyện lâu, nên đem nhau tới dưới rừng, bên suối, mới có thể dốc hết tâm-can đàm-luận.
Nếu coi kinh, thân cần ngồi ngay thẳng, lắng lòng xem một cách thầm lặng, không nên đọc ra tiếng.
Mộc-bản đánh đến hồi thứ hai, liền phải lên giảng-đường sớm.
Về tới vị-trí của mình, thầm niệm bài kệ rằng: “Thân thẳng ngồi ngay. Nguyện cho chúng-sinh. Ngồi tòa bồ-đề. Tâm không chấp-trước.”
PHỤ:
Không được đi xuyên qua Thiền-đường.
Lên đơn, xuống đơn, đều nên giữ tế-hạnh, đừng để động niệm tới vị ở đơn bên. Không được ngồi trên đơn mà viết chép văn-tự, trừ khi đại-chúng xem kinh-giáo.
Không được ở trên đơn xúm nhau bày tiệc trà hay đêm ngồi nói chuyện tạp. Không được ngồi trên đơn may vá quần áo. Không được nằm ngủ, cùng người gần đơn nói chuyện động chúng.
11. CHẤP-TÁC
Nên tiếc của chúng-tăng. Nên theo sự dạy bảo của vị Tri-Sự, không nên ngang trái.
Khi rửa rau phải thay nước ba lần. Phàm múc nước trước tiên phải rửa tay cho sạch. Khi dùng nước phải xem kỹ, có trùng hay không có trùng. Nếu có trùng nên lấy lụa dầy lọc qua mới dùng. Nếu thuộc mùa nghiêm-đông, trời lạnh, đừng nên lọc nước sớm và phải đợi mặt trời mọc hãy lọc.
Phàm nhúm bếp, không được đốt củi mục. Phàm làm đồ ăn, đừng nên để móng tay nhơ. Phàm đổ nước nhơ không được đổ giữa đường. Cũng không được giơ cao tay hắt đổ. Phải cách mặt đất chừng bốn, năm tấc, từ từ mà đổ.
Phàm quét đất, không được quét ngược gió. Không được gom bụi đất để sau cánh cửa.
Giặt áo trong, nên lượm bỏ các con rận rồi sau mới giặt. Tháng mùa Hạ, dùng nước, dùng rồi phải úp chậu xuống, nếu để ngửa, tức thì loài trùng sẽ sinh ra.
Nước nóng không được đổ trên đất.
Hết thảy gạo, miến, rau, trái v.v... không được vứt bỏ lang-tạ, phải sinh lòng mến tiếc.
12. VÀO NHÀ TẮM
Trước tiên lấy nước nóng rửa mặt và từ từ rửa từ trên xuống dưới. Không được thô-tháo, dùng nước nóng làm bắn vào người bên cạnh. Không được tiểu trong nhà tắm. Không được cùng người nói, cười. Bộ Nhân-Thiên Bảo-Giám nói: “Một Sa-Di vào nhà tắm cười đùa, liền bị quả-báo địa-ngục Nước Sôi.” Không nên tắm chỗ vắng.
Khi có bệnh ghẻ-lác, nên lựa tắm về sau. Hoặc có những mụn nhọt đáng sợ, càng nên quanh tránh, khỏi lọt vào mắt người ta.
Không được mặc ý tắm lâu, làm phương-ngại cho người tắm sau.
PHỤ:
Khi cổi áo, mặc áo, phải thong thả, bình-tĩnh.
Trước khi tắm phải tẩy tịnh, phải giữ những hạnh vi-tế. Không được đem nước tẩy tịnh đổ chung vào bồn tắm.
Nước lạnh hay nóng, y theo lệ đánh tiếng “keng”, chứ không được kêu to.
13. VÀO NHÀ XÍ
Muốn đi đại, tiểu-tiện, nên đi ngay, đừng để cho trong bụng thôi-thúc vội-vàng.
Trên sào tre, vắt áo trực-thuyết, phải xếp cho tề-chỉnh, lấy khăn tay hoặc dây lưng buộc chặt lại. Buộc như vậy, một là, để ghi nhận, và hai là, sợ rớt xuống đất.
Nên thay đổi giày dép, không nên đi giày sạch vào nhà xí. Đến nơi, nên khảy ngón tay ba lần, để cho người bên trong biết. Không được hối-thúc người bên trong phải ra mau. Khi ngồi trên cầu xí rồi, lại phải khảy ngón tay ba lần, thầm niệm bài kệ rằng: “Khi đại-tiểu-tiện, nguyện cho chúng-sinh, bỏ tham, sân, si trừ sạch tội pháp.” Khi ngồi trên cầu, không được cúi đầu ngó xuống. Không được cầm cỏ vẽ đất. Không được rặn hơi thành tiếng. Không được cách vách, cùng người nói chuyện. Không được nhổ nước bọt vào vách.
Gặp người không nên làm lễ, nên nghiêng mình tránh đi. Không được đi dọc đường buộc đai áo. Đại-tiện xong, phải rửa tay cho sạch. Nếu tay chưa sạch, không được cầm vật gì.
Rửa tay, thầm niệm bài kệ rằng: “Lấy nước rửa tay, nguyện cho chúng-sinh, được tay trong sạch, thụ trì Phật-pháp. Úm chủ ca ra gia sa-ha.”
PHỤ:
Nếu khi đi tiểu, cũng cần phải sắn tay áo lên, và không nên mặc áo thiên-sam (áo lễ), đi tiểu.
14. NẰM NGỦ
Nằm, phải nằm nghiêng hông bên hữu, gọi là ngủ Cát-Tường. Không được nằm ngửa, nằm sấp, cùng nằm nghiêng hông bên tả.
Không được cùng Thày đồng thất, đồng giường, hoặc được đồng thất, nhưng không được cùng giường. Cũng không được cùng với Sa-Di đồng-sự nằm chung một giường. Để dày giép, treo tiểu y v.v.., không được quá đầu mặt người.
PHỤ:
Không được cổi áo trong mà nằm. Không được ngủ trên giường cười, nói lớn tiếng. Không được trước Thánh-tượng và chốn pháp-đường, mang các đồ nhơ đi qua.
15. QUANH LÒ SƯỞI
Không được chụm đầu kề tai nói chuyện. Không được khảy mồ hôi nhơ trong lửa.
Không được hong phơi giày, áo miệt. Không được hơ lửa lâu quá, sợ trở ngại cho người tới sau. Hơi ấm nên trở về vị-trí của mình.
16. Ở TRONG PHÒNG
Khi hỏi thăm nhau điều gì, phải biết giới-phẩm lớn, nhỏ.
Muốn đem đèn vào trong phòng, phải thưa trước cho các vị đồng phòng cùng biết rằng sẽ đem đèn vào. Khi muốn tắt đèn, trước tiên phải hỏi những vị cùng ở trong phòng còn dùng đèn nữa không, rồi sau mới tắt.
Tắt đèn, không nên lấy miệng thổi. Niệm tụng không nên cao tiếng.
Nếu có người đau yếu, phải sinh lòng thương, săn sóc thủy chung.
Có người ngủ, không đuợc khua đồ-vật vang-động, và lớn tiếng nói, cười.
Không được vô cớ, xông vào phòng viện của người khác.
17. ĐẾN CHÙA NI
Có chỗ ngồi riêng mới ngồi, không có chỗ ngồi riêng không được ngồi.
Không được vì Ni thuyết pháp phi thời.
Khi trở về chùa, không được nói sự tốt, xấu của chùa ấy.
Không được thư-từ qua lại, và cậy mượn cắt may giặt nhuộm quần áo v.v.. Không được cạo tóc. Không được cùng ngồi ở chỗ vắng nói chuyện.
PHỤ
Không có hai người, một mình không nên tới, cũng không nên đưa tặng-vật qua lại. Không được mượn các vị Ni đi hóa-duyên nơi các nhà hào-quý và cầu-niệm kinh-sám v.v.. Không được cùng các vị Ni kết-nguyện làm cha mẹ, chị em, đạo-hữu.
18. ĐẾN NHÀ NGƯỜI
Có tòa riêng hãy nên ngồi, không nên ngồi bừa.
Người hỏi về kinh phải biết thời mà nói, cẩn-thận đừng nên nói phi-thời.
Không được cười nhiều.
Chủ-nhân đãi cơm, tuy không phải là nơi pháp-hội, nhưng cũng đừng trái phép tắc.
Không nên đi đêm. Không được ở trong nhà trống, hoặc chỗ khuất, cùng nữ-nhân ngồi chung nói chuyện.
Không được thư-từ qua lại v.v... như chương trước đã nói.
Nếu về nhà thăm cha mẹ, trước tiên phải vào trong nhà lễ Phật, hoặc Thánh-tượng trong gia-đường, đoan-trang lễ-nguyện. Thứ đến hỏi thăm cha mẹ, quyến-thuộc v.v...
Không được nói với cha mẹ về việc phép-tắc nơi Thày nghiêm-nghị, việc xuất-gia khó-khăn, ở chùa đạm-bạc, quạnh-hiu, gian-tân khổ-cực v.v.. Và, chỉ nên vì tất cả thuyết pháp, làm cho sinh tín-tâm, thêm phước-đức.
Không được cùng thân-quyến thế-tục cũng như các trẻ em, ngồi lâu, đứng lâu, cười đùa, chuyện tạp. Cũng không được hỏi những sự phải, trái, tốt, xấu trong họ.
Nếu trời tối, ngủ lại, nên ở riêng một giường, và nên ngồi nhiều, nằm ít, nhất tâm niệm Phật. Việc xong nên về ngay, không được giằng giai việc này qua việc khác.
PHỤ:
Không được liếc ngó bên tả bên hữu. Không được nói chuyện tạp. Nếu nói chuyện cùng nữ-nhân, không được nói thì-thầm và không được nói nhiều.
Không được dối hiện uy-nghi, giả mạo tướng thiền, cầu người cung-kính.
Không được nói bừa về Phật-pháp, đáp loạn những câu hỏi của người, tự khoe là nghe nhiều, cầu người cung-kính.
Không được đưa tặng hộp lễ vật qua lại, bắt chước người thế-tục bạch-y.
Không được cai-quản việc nhà người.
Không được ngồi lẫn trong tiệc rượu.
Không được kết-duyên với người thế-tục bạch-y làm cha mẹ, chị em.
Không được nói những lỗi lầm trong Tăng-chúng.
19. KHẤT-THỰC
Nên cùng đi khất-thực với bậc lão-thành. Nếu không có người cùng đi, nên biết những chỗ đáng đi.
Đến cửa nhà người ta, phải xét kỹ những cử-chỉ, xếp đặt, không được mất uy-nghi.
Nhà không có con trai, không được vào cửa.
Nếu muốn ngồi, trước tiên phải coi xem chỗ ngồi, 
có đồ đao-binh không nên ngồi, có vật báu không nên ngồi, có áo mền, đồ trang-nghiêm của đàn bà, không nên ngồi.

Khi muốn nói về Kinh, nên biết thời đáng nói và thời không đáng nói.
Không được nói, cho ta đồ ăn, khiến người được phước.
PHỤ:
Phàm khất-thực, không được năn-nỉ và xin hoài.
Không được bàn rộng về lý nhân-quả, mong người ta cúng nhiều.
Được nhiều đừng sinh tham-đắm, được ít đừng sinh tâm lo buồn.
Không được chuyên tới những thí-chủ có tình quen, cũng như những am-viện có tình quen, xin ăn.
20. VÀO NƠI TỤ-LẠC
Không có duyên-sự cần-thiết, không được vào nơi tụ-lạc (làng xóm, đông người ở).
Không được đi mau. Không được đi, tay đưa vắt-vẻo. Không được thường thường liếc ngó những nhân-vật đi đường. Không được vừa đi vừa nói cười với Sa-Di và em nhỏ. Không được đi theo trước sau nữ-nhân, cũng không được đi theo trước sau các vị Ni. Không được đi theo trước hay sau người say, người điên. Nên đi tránh.
Không được ngoái về đằng sau nhìn nữ-nhân. Không được ngước mắt nhìn nữ-nhân đi bên.
Khi gặp bậc Tôn-Túc, hay người thân quen biết, đều phải dừng lại một bên đường, trước tiên tỏ ý hỏi thăm.
Hoặc gặp những trò kỳ-quái hý-huyễn v.v.. đều không nên xem, cứ ngay mình thẳng theo đường chính mà đi.
Phàm gặp chỗ có hầm nước sâu, bờ nước lở, không được nhảy qua, có đường nên đi quanh, không có đường mà người ta đều nhảy qua, ta cũng nhảy qua, thì được.
Không có bịnh và việc gấp, không được cưỡi ngựa cho đến không được khởi tâm đùa cợt, cầm roi quất ngựa chạy nhanh hoặc chạy chậm.
PHỤ:
Phàm gặp quan-phủ (cơ-quan công-quyền), không cứ lớn, nhỏ, đều nên quanh tránh. Gặp người đánh lộn cũng nên tránh xa, không nên đứng coi.
Về chùa, không được khoe khoang thấy những việc hoa-mỹ trong thành.
21. ĐI CHỢ MUA ĐỒ
Không nên tranh cãi mắc với rẻ. Không nên ngồi nơi hàng nữ-nhân. Nếu bị người ta mua tranh, nên dùng phương-tiện lánh đi, đừng nên cố theo trả giá.
Đã hứa mua vật của người trước, vật của người sau tuy rẻ hơn, cũng không nên bỏ vật của người kia mà lấy vật của người này, làm cho người chủ cũ có sự buồn hận.
Cẩn-thận, không nên đứng bảo-lãnh, đến nỗi mắc nợ người ta.
22. LÀM VIỆC, KHÔNG ĐƯỢC TỰ-DỤNG
Khi ra, vào, đi, lại, trước tiên phải bạch Thày.
May pháp-y mới, trước phải bạch Thày. Thế đầu, trước phải bạch Thày. Yếu đau uống thuốc, trước phải bạch Thày. Làm việc chúng-tăng, trước phải bạch Thày. Muốn có các đồ riêng như bút, giấy v.v.., trước phải bạch Thày. Nếu muốn tụng kinh sách, trước phải bạch Thày. Nếu ai muốn đem cho đồ vật gì, trước phải bạch Thày, Thày ưng-thuận rồi sau mới nhận. Muốn đem vật kỷ-niệm cho người khác, trước phải bạch Thày, Thày thuận rồi mới được cho.
Người ta đến mình cậy mượn vật chi, trước phải bạch Thày, Thày chấp-thuận rồi, sau mới cho. Mình muốn tới chỗ người nào đó mượn vật gì, trước phải bạch Thày, Thày thuận thì được đi.
Bạch, Thày thuận hay không thuận đều phải làm lễ. Thày không chấp-thuận cũng không được có ý buồn hận.
PHỤ:
Cho đến những việc lớn, hoặc đi du-phương, hoặc đi nghe giảng, hoặc đi nhập-chúng, hoặc đi quản-thu chốn sơn-môn, hoặc có những sự-duyên xây-dựng chùa-cảnh v.v.., đều phải bạch Thày, không được tự-dụng.
23. THAM HỌC PHƯƠNG XA
Đi xa, cần nương vào bạn lành.
Bậc cổ-nhân, tâm-địa chưa thông, không ngại đường xa nghìn dậm để cầu Thày học đạo.
PHỤ:
Tuổi nhỏ, giới luật còn ít-ỏi, Thày chưa cho đi xa. Như có việc phải đi, không được cùng đi với bọn bất-lương.
Phải tìm Thày hỏi đạo, để quyết trọn trong việc sinh-tử, thì không nên đi xem non, ngắm biển, chỉ với mục-đích du-lịch xa rộng, để khoe-khoang với người.
Đến chỗ nào, để hành-lý bên ngoài, không được mang ngay vào trong chùa. Một người đứng coi hành-lý một người vào trước thăm hỏi, nắm vững phép-tắc lui tới của thường-trụ, mới có thể đem hành-lý xếp đặt vào trong.
24. DANH-TƯỚNG Y VÀ BÁT
Y 5 điều, tiếng Phạm gọi là An-Đà-Hội (Antarvàsaka), Trung-Hoa dịch nghĩa là “Trung-Túc-Y”. Cũng có chỗ gọi là: “Hạ-Y”. Cũng có chỗ gọi là: “Tạp-Tác-Y”.
Phàm, làm việc vất vả trong chùa, đi đường, ra vào, lui tới, nên đắp y này. Khi đắp y này, đọc bài kệ rằng:
Thiện-tai giải-thoát phục, 
Vô-thượng phúc-điền-y. 
Ngã kim đỉnh đái thụ, 
Thế thế bất xả ly. 

Lành thay áo giải-thoát,
Áo, ruộng phúc vô-thượng.
Nay con cúi đầu nhận,
Đời đời không lìa bỏ.
ÚM TẤT ĐÀ DA SA-BÀ-HA. (3 lần)

Y 7 điều, tiếng Phạm gọi là: “Uất-Đa-La-Tăng” (Uttaràsangta), Trung-Hoa dịch nghĩa là “Thượng-Trước-Y”. Cũng gọi là “Nhập-Chúng-Y”.
Phàm, lễ Phật, sám-hối, tụng kinh, tọa thiền, phó trai, nghe giảng, Bố-Tát, tự-tứ, nên đắp y này. Khi đắp y này đọc bài kệ rằng:
Thiện-tai giải-thoát phục, 
Vô-thượng phúc-điền-y. 
Ngã kim đỉnh đái thụ, 
Thế thế thường đắc phi. 

Lành thay áo giải-thoát,
Áo, ruộng phúc vô-thượng.
Nay con cúi đầu nhận,
Đời đời thường được mặc.
ÚM ĐỘ BA ĐỘ BA SA-BÀ-HA. (3 lần)

Y 25 điều, tiếng Phạm gọi là “Tăng-Già-Lê” (Sanghàti), Trung-Hoa dịch nghĩa là “Hiệp-Y”. Cũng dịch là “Trùng-Y”. Cũng dịch là “Tạp-Toái-Y”. Vì điều-số của nó nhiều vậy.
Phàm, khi vào cung nhà vua, lên tòa thuyết pháp, đi vào nơi tụ-lạc, đi khất-thực, nên đắp y này.
Y này có 9 phẩm:
Hạ-phẩm có 3: 9 điều, 11 điều và 13 điều. Trong mỗi một điều có 2 mảnh dài, 1 mảnh ngắn.
Trung-phẩm có 3: 15 điều, 17 điều và 19 điều. Trong mỗi một điều có 3 mảnh dài, 1 mảnh ngắn.
Thượng-phẩm có 3: 21 điều, 23 điều và 25 điều. Trong mỗi một điều có 4 mảnh dài, 1 mảnh ngắn.
Khi đắp y này, đọc bài kệ rằng:
Thiện-tai giải-thoát-phục, 
Vô-thượng phúc-điền-y. 
Ngã kim đỉnh đái thụ, 
Quảng-độ chư quần mê. 

Lành thay áo giải-thoát,
Áo, ruộng phúc vô-thượng.
Nay con cúi đầu nhận,
Rộng độ các loài mê.
Úm, ma ha ca bà ba, tra tất đế, sa-bà-ha. (3 lần)

BÁT, tiếng Phạm gọi là Bát-đa-la(Pàtra), Trung-Hoa dịch nghĩa là “Ứng-lượng-khí”. Nghĩa là, Thể, Sắc, Lượng, ba thứ ấy đều đúng như pháp.
Thể của nó làm bắng hai vật sành và sắt.
Sắc của nó, lấy các thứ thuốc, đốt lửa, có khói, xông vào thành hoại-sắc.
Bát sắt, dùng hạt hạnh-nhân, hạt mè với cám nếp v.v..., đốt lửa có khói, xông thành sắc đen xám, sắc chim bồ-câu, hoặc như sắc lông cổ con chim sẻ.
Lượng của bát thì chia làm thượng, trung, hạ: Bát bậc thượng đựng khoảng một đấu. Bát bậc hạ đựng khoảng năm thăng. Khoảng giữa của hai bậc trên gọi là bát bậc trung.
TỌA-CỤ, tiếng Phạm gọi là “Ni-Sư-Đàn” (Nisidana), Trung-Hoa dịch nghĩa là “Tọa-Cụ”. Cũng gọi là “Tùy-Túc-Y”. 
Khi trải tọa-cụ, đọc bài kệ rằng:
Tọa-Cụ Ni-Sư-Đàn, 
Trưởng-dưỡng tâm-miêu-tính. 
Triển-khai đăng Thánh-địa, 
Phụng-trì Như-Lai mệnh. 
(Đồ ngồi: Ni-Sư-Đàn,
Nuôi lớn mầm tâm-tính.
Khơi mở lên cõi Thánh,
Vâng giữ mệnh Như-Lai.)
ÚM, ĐÀN BA, ĐÀN BA, SA-BÀ-HA. (3 lần)

WP: Chân Thiền.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.