Sunday 17 August 2014

DIỆT DUYÊN VÔ MINH.

Những lời dạy của đức Phật trên đây là chỉ thẳng cho chúng ta hiểu biết 12 nhân duyên theo lý duyên khởi bắt đầu từ VÔ MINH. Do VÔ MINH mà HÀNH khởi do HÀNH khởi mà THỨC khởi…. và như vậy tất cả 12 duyên khởi đầy đủ. Mười hai duyên khởi đầy đủ tức là khổ tập khởi. Do đó, muốn đoạn trừ khổ đau thì phải đoạn trừ VÔ MINH. Muốn đoạn trừ VÔ MINH thì phải triển khai tri kiến. Vậy triển khai tri kiến bằng cách nào?
Phải học GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH và NHÂN QUẢ, nhờ học giới luật đức hạnh và nhân quả thông suốt nên VÔ MINH bị đoạn trừ. Nhưng trong 12 nhân duyên dạy diệt VÔ MINH bằng ngưng các HÀNH. HÀNH diệt thì VÔ MINH diệt. Vậy diệt CÁC HÀNH như thế nào? Diệt CÁC HÀNH là chúng ta phải giữ gìn tâm BẤT ĐỘNG. Giữ gìn tâm BẤT ĐỘNG bằng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý.
Bây giờ quý vị đã rõ diệt VÔ MINH.
Trên đây là lý duyên khởi VÔ MINH, khi VÔ MINH diệt thì 12 nhân duyên đều bị diệt. Mười hai nhân duyên diệt thì khổ đau diệt.
GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH gồm có:
1- Năm giới (NGŨ GIỚI) căn bản của người cư sĩ.
2- Mười giới sa di (THẬP GIỚI SA DI) của người xuất gia.
3- Hai trăm năm mươi giới tỳ kheo tăng (250 GIỚI TỲ KHEO TĂNG) của tu sĩ nam.
4- Ba trăm bốn mươi tám giới tỳ kheo ni (348 GIỚI TỲ KHEO NI) của tu sĩ nữ.
Khi muốn diệt trừ VÔ MINH thì phải thông suốt những oai nghi giới luật đức hạnh trên đây. Cho nên đức Phật dạy: “Những gì thông suốt cần thông suốt”. Điều mà đức Phật dạy ở đây cần thông suốt là thông suốt GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH.
Muốn diệt 12 nhân duyên tập khởi này thì bắt đầu phải diệt duyên VÔ MINH. Diệt trừ duyên VÔ MINH thì chỉ có học tập GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH như trên đã nói.
Học tập GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH xong thì VÔ MINH tự diệt trừ. VÔ MINH tự diệt trừ, đó là triển khai sự hiểu biết của đạo Phật, nhất là về NHÂN QUẢ. Có thông suốt NHÂN QUẢ thì VÔ MINH đã diệt. Chúng ta cũng nên nhớ khi thông suốt NHÂN QUẢ thì các HÀNH ÁC bị diệt. Cho nên không ai hiểu NHÂN QUẢ mà còn HÀNH ÁC, có đúng như vậy không quý vị?
Cho nên đức Phật dạy: “HÀNH DIỆT THÌ VÔ MINH DIỆT”. Người mà CÁC HÀNH ÁC diệt là người thông suốt GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH.
Chúng ta là những người tu hành đang tìm cầu sự giải thoát thì nên nhớ những lời dạy này. Đó là GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH trong pháp tu hành của Phật giáo từ thấp đến cao phải theo sự phân chia pháp môn tu tập từ thấp đến cao mà đức Phật đã tuyên bố: “GIỚI, ĐINH, TUỆ”.
Căn cứ vào GIỚI, ĐỊNH, TUỆ chúng ta tu tập không còn sợ sai đường lạc lối, vì đó là ba cấp tu học của Phật giáo không ai dám sửa theo kiến giải của mình được. Mong rằng quý vị nên căn cứ vào chỗ này mà tu tập đến nơi đến chốn để làm sáng tỏ Phật giáo trong 12 nhân duyên.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.17/8/2014.

Friday 15 August 2014

Quy Sơn Cảnh Sách

QUY SƠN CẢNH SÁCH
Tác-giả: Đại-Viên Thiền-Sư
Việt-dịch: Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu

1.- QUY-SƠN ĐẠI-VIÊN THIỀN-SƯ CẢNH-SÁCH
          Phù, nghiệp hệ thụ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành. Tuy nãi, tứ đại phù trì, thường tương vi bội. Vô thường, lão, bệnh, bất dữ nhân kỳ, triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như, xuân sương hiểu lộ, thúc hốt tức vô, ngạn thụ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất sát-na gian. Chuyển tức tức thị lai sinh, hà nãi yến nhiên không quá?
VĂN CẢNH SÁCH
Của Thiền-Sư Đại-Viên, núi Quy-Sơn (1)[1]
          Ôi, nghiệp ràng buộc, phải nhận thân này, nên chưa thoát khỏi sự vướng bận về hình-hài. Thân này do bẩm-thụ di-thể của cha mẹ và nhờ mọi duyên mà thành. Tuy thân này được bốn đại (2)[2] nâng đỡ, giữ gìn, nhưng, chúng thường chống trái lẫn nhau. Vô thường, lão, bệnh không hẹn cùng ai. Buổi sớm còn, buổi chiều mất, trong giây phút đã chuyển sang đời khác. Ví như, giọt sương mùa xuân, hạt móc ban mai, chốc lát thành không. Ví như, cây mọc trên bờ nước, giây leo trên miệng giếng, đâu được dài lâu! Niệm niệm nhanh chóng, trong một sát-na. Hơi thở chuyển, thành đời sau, sao cứ an nhiên qua ngày một cách rỗng không như vậy?
          Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly. Bất năng an quốc an quốc trị bang, gia-nghiệp đốn quyên kế tự. Miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức. Quýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly!
          Đối với cha mẹ không cung cấp được những vị ngon ngọt. Đối với sáu bề thân (3)[3]quyết phải bỏ lìa. Đối với đất nước, không giúp giữ việc trị an. Đối với gia-nghiệp, dứt bỏ việc kế-tự. Xa rời làng xóm, cắt tóc theo thầy. Trong tâm, siêng năng về công phu khắc-phục vọng-niệm. Ngoài cảnh, mở rộng về đức-tính không tranh đua. Thoát hẳn trần thế, mong khỏi luân hồi!
          Hà nãi, tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ-Khưu. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trụ. Bất giải thổn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hợp cung. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc, nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt tha-đà. Thụ dụng ân phiền, thí lợi nung hậu. Động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly, tích tụ tư đa, bảo-trì huyễn-chất. Đạo-sư hữu sắc, giới húc Tỷ-Khưu: tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử, đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri. Tương vị xuất gia, quý cầu y thực!
          Tại sao, vừa lên giới-phẩm đã cho ta là bậc Tỷ-Khưu! Dùng của đàn-việt, ăn của thường-trụ, không biết suy nghĩ những phẩm vật ấy từ nơi nào đem lại, lại cho rằng, đó là hợp pháp cúng-dường! Khi ăn uống xong, chụm đầu nói chuyện huyên thuyên thuần nói những chuyện nhảm nhí của thế-gian. Như thế, đeo đuổi một kỳ vui sướng, nhưng không biết rằng, vui sướng ấy là nhân khổ cho mai sau. Nhiều kiếp hùa theo trần-cảnh, nay chưa lúc nào tỉnh lại. Thời-quang (4)[4]chìm lặn, năm tháng lần lữa. Thụ dụng quá nhiều, thí lợi đầy dẫy. Trải qua, năm này năm khác, không nghĩ đến việc vứt bỏ, lại còn, chứa góp thêm nhiều, để bảo-trì cái thể-chất giả dối này vậy! Đức Đạo-sư có chỉ thị, răn dạy các vị Tỷ-Khưu rằng: “Tiến đạo, nghiêm thân, ba việc thường dùng hàng ngày (5)[5] không cần đầy đủ”! Người đời, đối với vấn đề ấy, phần nhiều là ham đắm không ngừng. Ngày qua tháng lại, vụt vậy, bạc đầu. Các vị hậu-học chưa nghe được những chỉ-thú của Phật-pháp, cần nên hỏi rộng nơi các bậc tiên-tri. Chả lẽ, cho rằng, người đi xuất-gia, quý cầu việc ăn mặc ư!
          Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Quỹ tắc, uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ, trì, tác, phạm, thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương, cách chư ổi tệ. Tỳ-ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa, khởi năng yên biệt. Khả tích, nhất sinh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.
          Đầu tiên, đức Phật chế ra luật, để mở tỏ cho con người còn mờ tối. Khuôn phép, uy nghi, làm cho trong sạch như băng tuyết. Những pháp: chỉ (ngưng), trì (giữ), tác (làm), và phạm, để giữ gìn (bó buộc) cho kẻ sơ-tâm. Những điều, những chương vi-tế, làm thay đổi những sự xấu xa, hèn kém. Chưa từng tham-dự, gần gũi những nơi giảng pháp, giảng luật, làm sao phân biệt được liễu nghĩa của kinh-giáo thượng-thừa? Đáng tiếc, để cho một đời luống qua, sau ăn năn khó kịp! Giáo-lý chưa từng để dạ, đạo nhiệm mầu, nhân đâu mà khế-ngộ được!
          Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo. Vị am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng, trung, hạ tọa, Bà-la-môn tụ hội vô thù. Uyển bát tác thanh, thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai dác, tăng-thể toàn vô. Khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi. Tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu. Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo. Như tư tri kiến, cái vị sở tâm dung nọa, thao thiết nhân tuần. Nhẫm nhiễm nhân gian, toại thành sơ dã. Bất giác, lung chung lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ. Sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân!
          Đến lúc, tuổi cao, hạ nhiều, bụng rỗng, lòng cao, không chịu gần gũi bạn lành, chỉ biết ngông nghênh, cao ngạo. Chưa quen pháp-luật, không chút ràng buộc. Hoặc cao tiếng, nói to, nói không chừng mực. Không kính bậc thượng, trung, hạ-tọa, không khác gì những người Bà-la-môn tụ họp. Khi ăn, chén bát chạm nhau thành tiếng. Ăn xong, dậy trước. Lui tới trái phép, không còn chi là thể-thống của vị Tăng. Ngồi, dậy lăng xăng, động tâm niệm người khác. Không còn chút síu khuôn phép, không giữ chút síu uy-nghi, đem gì để thúc-liễm cho kẻ hậu-côn và, kẻ tân-học nhân đâu mà bắt chước! Vừa có người định đem lời thức tỉnh, liền nói ngay, ta là bậc sơn-tăng. Chưa nghe biết được sự hành-trì của Phật dạy, một chiều, giữ theo tính tình thô-tháo. Tri kiến như thế, hẳn vì sự lười biếng lúc sơ tâm, ham muốn đủ thứ, nhân đó dần tăng. Lần lữa theo đời, trở thành quê-kệch. Không hay, già yếu lẫm-chẫm vụt đến, chạm tới việc như quay mặt vào tường. Kẻ hậu-học thưa hỏi gì, không có lời nào tiếp dẫn. Dù có nói bàn gì, không dính đến sách vở. Hoặc bị những lời khinh chê, liền trách hậu-sinh vô lễ. Tâm sân bốc lên, nói năng trùm người!
          Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách. Hiểu tịch tư thổn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tòng tư thủy tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi! Tự hận tảo bất dự tu, niên vãng đa chư quá cữu. Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên. Tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy! Vô thường sát quỷ, niệm niệm bất đình. Mệnh bất khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu, ưng vị miễn chi. Như thị thụ thân, phi luận kiếp số.
          Một mai, đau nằm trên giường, mọi khổ buộc ràng, bức bách. Sớm chiều suy nghĩ, lòng dạ hồi hộp. Đường trước mờ mịt, chưa biết đi đâu. Từ đây, mới biết hối lỗi, khát rồi, đào giếng làm chi! Tự hận, sớm chẳng dự tu, tuổi chiều, lắm điều tội lỗi! Khi sắp đi sang thế giới khác, tâm hồn tan tác, lo sợ hãi hùng. Lụa thủng, sẻ bay, thức-tâm theo nghiệp. Như người mang nợ, ai mạnh kéo trước. Tơ lòng nhiều mối, chỗ nặng đổ xuống. Vô thường, con quỷ giết người, niệm niệm không ngừng. Mệnh không thể dài, thời không thể đợi. Trời hay người ở trong ba cõi hữu lậu (6)[6]này, chưa ai tránh khỏi việc ấy. Cứ như thế, nhận lấy tấm thân khác, mà kiếp số không thể bàn tính được!
          Cảm thương thán nhã. Ai tai thiết tâm. Khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách! Sở hận đồng sinh tượng quý, khứ Thánh thời dao. Phật-pháp sinh sơ, nhân đa giải đãi! Lược thân quản kiến, dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán!
          Cảm thương, than thở. Thảm thay, tâm đau như cắt. Nỡ nào buộc miệng, không nói ra những lời cảnh sách cùng nhau! Tủi hận, cùng sinh vào thời tượng-quý, cách Phật đã xa. Phật-pháp lưa thưa, người nhiều lười biếng! Bởi vậy, tôi xin trình bày sự thấy biết sơ lược của tôi, như lấy ống dòm trời, để răn tỉnh kẻ hậu-lai. Nếu ai không loại bỏ được tính kiêu-căng, thực khó đem lại sự thay đổi cho nhau được!
          Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục. Thiệu long Phật-chủng, chấn nhiếp ma quân. Dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí Tăng luân. Ngôn hành hoang sơ, hư triêm tín thí. Tích niên hành xử, thốn bộ bất di. Hoảng hốt nhất sinh, tương hà bằng thị. Huống nãi, đường đường Tăng tướng, dung mạo khả quan. Giai thị túc thực thiện căn, cảm tư dị báo. Tiện nghĩ, đoan nhiên củng thủ, bất quý thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu. Khởi khả nhất sinh không quá, ức diệc lai nghiệp vô tỳ!
          Ôi, người xuất-gia, cất bước chân đi phải có ý-niệm siêu việt phương sở, tâm hình khác tục. Nối tiếp Phật-chủng một cách rạng rỡ, làm cho ma-quân rúng động, khuất phục. Báo đáp bốn ơn (7)[7], cứu vớt ba cõi. Nếu không được như thế. Chỉ là lạm dự hàng Tăng! Nói, làm hời hợt, dùng của tín-thí một cách uổng phí! Chỗ hành-xử của những năm xưa, một tấc, một bước không dời đổi. Một đời hoảng hốt, lấy gì nương cậy! Huống là, đường đường Tăng-tướng, dung mạo khả quan, đều do căn lành trồng trước, cảm được quả báo tốt lạ ấy. Thế mà, chỉ nghĩ đến việc ngồi thẳng, khoanh tay, không quý tấc bóng thời-gian. Sự-nghiệp không siêng, công quả nhân đâu thành-tựu. Há để một đời luống qua, cũng không ích gì cho nghiệp ngày sau này vậy!
          Từ thân quyết chí phi truy, ý dục đẳng siêu hà sở? Hiểu tịch tư thổn, khởi khả thiên diên quá thời! Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai quy kính. Thường dĩ như thử, vị năng thiểu phận tương ứng. Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn. Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục. Trụ chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn. Cố vân: “Sinh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu”. Thân phụ thiện giả, như vộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận. Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến. Hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân. Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục! Trung ngôn nghịch nhĩ, khả bất minh tâm giả tai! Tiệm năng tảo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt!
          Quyết chí, từ người thân, mặc áo thâm (hoại sắc), ý muốn vượt lên nơi nào? Sớm chiều suy nghĩ, đừng để rỗi rãi qua thời! Tâm mong làm rường cột cho Phật-pháp, tác-dụng làm quy-kính cho hậu lai. Thường mong như thế, chưa hẳn đã có thể ứng-hợp phần nhỏ nào trong ý nghĩa xuất-gia! Khi nói ra điều gì phải hợp với sách vở. Khi bàn bạc điều gì, phải dựa vào chỗ nghiên-cứu của người xưa. Là vị Tăng, hình nghi đĩnh-đặc, ý khí cao nhàn! Đi xa cần nhờ bạn lành, luôn luôn làm cho tai, mắt mình trong sạch. Ở đâu cũng cần chọn bạn, thời thời được nghe những điều chưa nghe. Cho nên có chỗ nói rằng: “Sinh ra ta là cha mẹ, tác thành ta là bầu bạn”. Thân người thiện, như người đi trong sương, tuy không ướt áo, nhưng dần dần có thấm. Gần gũi và tập nhiễm người ác, tri kiến ác càng lớn. Sớm chiều tạo ác, bị quả báo ngay trước mắt và, sau khi mất phải bị trầm luân. Một khi mất thân này rồi. Muôn kiếp không trở lại được!
          Nói thẳng trái tai, há không ghi khắc vào tâm vậy thay! Sớm nên rửa tâm, nuôi đức, mờ dấu vết, dấu tên tuổi, chứa góp tinh thần, dứt tuyệt nhộn nhịp!
          Như dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân-nguyên, bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu. Thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm. Khả trung đốn ngộ chính nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm. Thử tắc, phá tam giới, nhị thập ngũ hữu. Nội, ngoại chư pháp, tận tri bất thực, tòng tâm biến khởi, tất thị giả danh. Bất dụng tương tâm tấu bạc! Đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân. Nhậm tha pháp tính chu lưu, mạc đoạn, mạc tục. Văn thanh kiến sắc, cái thị tầm thường; giá biên, ná biên, ứng dụng bất khuyết. Như tư hành chỉ, thực bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sinh sinh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc. Thử chi nhất học, tối diệu tối huyền. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám!
          Như muốn tham thiền, học đạo, sớm vượt qua cửa ngõ phương tiện, tâm hợp bờ bến huyền-diệu, xét kỹ cơ duyên tinh-yếu, quyết chọn lý sâu nhiệm để tỏ ngộ nguồn chân, cần phải rộng hỏi bậc biết trước, gần gũi những bạn lành. Nếu còn khó thấy được lý vi-diệu của tông chỉ này, cần phải dụng tâm kỹ càng hơn. Khi trong ấy, khả dĩ, đốn ngộ được chính-nhân, thì đó là thềm bậc xuất trần. Thế là, phá được hai mươi lăm hữu (8)[8] trong ba cõi. Và biết, các pháp trong, ngoài, đều là không thực. Chúng biến khởi từ tâm, đều là giả-danh. Biết vậy, không nên dụng tâm ghé đỗ vào bến nào! Tình không dựa vào vật, vật há ngại người. Pháp-tính tha hồ chu lưu, không dứt, không nối. Nghe tiếng, thấy sắc là việc tầm thường, bên này bên kia, ứng-dụng không thiếu! Hành chỉ như thế, thực không uổng mặc áo pháp, lại còn, đền trả bốn ơn, cứu giúp ba cõi. Đời đời nếu không thoái chuyển, ngôi Phật quyết đạt kỳ vọng. Khi đó, là khách đi lại trong ba cõi, ẩn hiện làm khuôn phép cho người. Đó là một môn học rất diệu, rất huyền. Chỉ cần quyết tâm, quyết không bị lừa gạt!
          Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối điệp. Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương. Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trụ chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung pháp-khí.
          Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng tủng thiên tầm. Phụ thác thắng nhân, phương năng quảng ích. Khẩn tu trai giới, mạc mạn khuy du. Thế thế sinh sinh, thù diệu nhân quả.
          Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời. Khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến! Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị úng. Xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi. Cố vân: “Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh khi thoái khuất”!
          Nhược bất như thử, đồ tại truy môn, nhẩm nhiễm nhất sinh, thù vô sở ích!
          Nếu có vị nào còn thuộc vào bậc trung-lưu, chưa thể siêu việt một cách nhanh chóng được, nên lưu tâm vào giáo pháp, ôn tìm kinh sách. Tìm tòi nghĩa lý tinh-vi, truyền xướng Phật pháp rộng rãi. Tiếp dẫn người sau, báo ơn đức Phật. Thời-quang không nên bỏ trống, quyết nên dùng thời-gian ấy làm việc phù trì chính-pháp. Khi trụ, khi chỉ giữ trọn uy-nghi, mới là bậc pháp-khí trong Tăng-đoàn.
          Các vị, há chẳng thấy, giây sắn nương vào cây tùng, leo cao đến nghìn tầm. Nương tựa vào thắng-nhân, mới có thể đem lại sự lợi ích rộng lớn. Phải gấp tu trai giới, chớ có kiêu-mạn, chớ có thiếu sót và vượt bậc. Đời đời kiếp kiếp sẽ được những nhân quả thù-diệu.
          Không nên để rỗi rãi qua ngày, trơ trơ qua thời. Nên tiếc bóng sáng, không cầu tiến lên sao! Tiêu uổng của tín thí mười phương và cũng là cô phụ công ơn của bốn bậc có ơn. Lỗi lầm chứa mãi thành sâu, lòng trần dễ bị ngăn lấp. Chạm tới đường nào cũng thành ngưng đọng và bị người đời khinh khi. Cổ-nhân nói: “Người ta là bậc trượng-phu, ta cũng như thế, không nên tự khinh mà lùi khuất!” Nếu không được như thế, tạm ở chốn truy-môn, lần lữa một đời, thực không ích gì!
          Phục vọng, hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử thổ khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sinh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối, tâm không cảm tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông.
          Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách. Cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan. Nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ.
          Cố kinh vân: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong. Nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thụ”. Cố tri, tam giới hình phạt, oanh bạn sát nhân. Nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật!
          Thậm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sinh, xứ xứ đồng vi pháp-lữ!
          Cúi mong các vị làm nổi bật chí khí quyết-liệt, mở rộng lòng dạ hướng thượng. Làm việc gì phải xem bậc thượng-lưu, đừng chuyên theo người tầm thường thô tục. Đời nay mình phải quyết đoán, định liệu không do người khác. Dứt ý quên duyên, không đối đãi với các cảnh trần. Tâm không cảnh lặng, chỉ vì đọng lâu không thông.
          Các vị, xem kỹ văn này, luôn luôn cảnh sách. Gượng làm chủ-tể, đừng theo tình người. Nghiệp quả kéo lôi, thực khó trốn tránh. Tiếng hòa vang thuận, hình thẳng bóng ngay. Nhân quả rõ ràng, há không lo sợ!
          Cho nên trong kinh có nói: “Giả sử, trăm nghìn kiếp, nghiệp tạo ra không mất. Khi nhân duyên hội-ngộ, quả báo mình tự chịu”. Nên biết, hình phạt trong ba cõi, ràng buộc, giết người. Gắng sức siêng tu, đừng để qua ngày một cách rỗng không vô ích!
          Biết rõ lỗi lầm, nên mới khuyên nhau hành trì. Nguyện trăm kiếp nghìn đời, nơi nơi cùng làm bạn pháp!
Nãi vi minh viết:
Huyễn thân mộng trạch,
Không trung vật sắc.
Tiền tế vô cùng,
Hậu tế ninh khắc.
Xuất thử một bỉ,
Thăng trầm bì cực.
Vị miễn tam luân,
Hà thời hưu tức.
Tham luyến thế gian,
Ấm duyên thành chất.
Tòng sinh chí lão,
Nhất vô sở đắc.
Căn bản vô minh,
Nhân tư bị hoặc.
Quang âm khả tích,
Sát na bất trắc.
Kim sinh không quá,
Lai thế chất tắc.
Tòng mê chí mê,
Giai nhân lục tặc.
Lục đạo vãng hoàn,
Tam giới bồ bặc.
Tảo phỏng minh sư,
Thân cận cao đức.
Quyết trạch thân tâm,
Khử kỳ kinh cức.
Thế tự phù hư,
Chúng duyên khởi bức.
Nghiên cùng pháp lý,
Dĩ ngộ vi tắc.
Tâm cảnh câu quyên,
Mạc ký mạc ức.
Lục căn di nhiên,
Hành trụ tịch mặc.
Nhất tâm bất sinh,
Vạn pháp câu tức.

Liền làm bài minh rằng:
Thân huyễn, nhà mộng,
Vật sắc giữa không.
Thuở trước không cùng,
Thuở sau sao cản.
Sinh đây chết kia,
Lên xuống nhọc mệt.
Chưa khỏi ba vòng (9)[9],
Thời nào ngừng nghỉ?
Tham luyến thế gian,
Ấm, duyên thành chất.
Từ sinh đến già,
Một chút không được.
Căn bản vô minh,
Do đây lầm lạc.
Quang âm đáng tiếc,
Sát na (10)[10] không lường.
Đời nay qua không,
Đời sau ngăn lấp.
Từ mê đến mê,
Đều do sáu giặc (11)[11].
Sáu đạo (12)[12] đi về,
Ba cõi lê lết.
Sớm theo minh-sư,
Gần bậc cao đức.
Quyết chọn thân tâm,
Vứt bỏ gai góc.
Đời tự phù hư (13)[13],
Duyên sao ép được.
Xét cùng pháp-lý,
Ngộ làm quy tắc.
Tâm cảnh đều quên,
Không ghi, không nhớ.
Sáu căn thảnh thơi,
Đi, đứng vẳng lặng.
Nhất tâm không sinh,
Muôn pháp đều dứt.





[1] Đại-Viên Thiền-Sư ở núi Quy-Sơn, tên là Linh-Hựu, sinh ở Trường-Khê, Phúc-Châu. Ngài xuất gia năm 15 tuổi, nghiên-cứu giáo-lý tại chùa Hưng-Long, Hàng-Châu. Năm 25 tuổi, ngài tham học nơi ngài Bách-Trượng. Sau về dựng chùa tại núi Quy-Sơn. Ngài mất năm 83 tuổi, nhà vua sắc phong cho tên thụy là Đại-Viên Thiền-Sư.
[2] Bốn đại: Đất, nước, lửa, gió.
[3] 6 bề thân tức là cha, mẹ, anh, em, vợ, con…
[4] Thời quang là chỉ cho ánh sáng của thời gian.
[5] Ba việc thường dùng tức là cơm ăn, áo mặc, nơi ở.
[6] Ba cõi hữu lậu (tam hữu) tức là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
[7] Bốn ơn: ơn cha mẹ, sư trưởng, ơn quốc gia, ơn xã hội và ơn Tam Bảo.
[8] 25 hữu tức là 25 cảnh hữu tình. “Hữu” nghĩa là có nhân, có quả. Nơi ấy chúnh sinh sinh ra do quả báo của mình. 25 hữu trong ba cõi (dục giới, sắc giới, vô sắc giới): địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, a tu la, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc câu lư châu, Nam thiệm bộ châu, Tứ thiên vương thiên, Đao lợi thiên, Diệm ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, Sơ thiền thiên, Đại phạm thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên, Vô tưởng thiên, Tịnh cư (A na hàm) thiên, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
[9] Ba vòng (tam luân) tức là vòng quanh trong ba cõi: dục giới sắc giới, vô sắc giới. Tam luân còn chỉ cho hoặc, nghiệp, khổ.
[10] Sát na: chỉ cho thời gian rất nhanh.
[11] Sáu giặc (lục tặc) chỉ cho 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) dính líu với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) cướp đoạt mất những công đức pháp tài.
[12] Sáu đạo (lục đạo): Trời, người, a tu la, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.
[13] Đời tự phù hư: có nghĩa là đời đã có tính chất trôi nổi, giả dối không thực.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.15/8/2014.

Sự khác biệt của các loại giới trong và ngoài Phật Giáo.

Giới tự nhiên
- Trong tự nhiên cũng có những qui luật mà con người cũng cần phải nhận thức và tuân thủ nếu muốn sống hạnh phúc như : ăn uống vừa phải thì tiêu hóa sẽ tốt – ăn uống quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng khó tiêu, bội thực ; hoặc muốn tiếp xúc với vật có mang điện thì ta phải mang bao tay hoặc cầm những vật cách điện..v..v..có thể coi đây là giới tự nhiên và nó không mang tính chất đạo đức.
- Người ta cần phải tuân thủ để có được sự hạnh phúc cho riêng cá nhân mình mà thôi. Nó không ảnh hưởng gì đến hạnh phúc của người khác.
Giới trong xã hội (Luật pháp)
- Trong một cộng đồng xã hội con người, dưới phạm vi của 1 vùng lãnh thổ nhất định (bộ lạc, quốc gia), thì con người ta cũng chế ước một số qui định được gọi là luật pháp. Những qui định này, con người bắt buộc phải tuân theo, nếu không sẽ bị chế tài theo qui định của luật lệ đó.
- Luật pháp dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
- Pháp luật cũng mang tính chất đạo đức, sống và làm việc theo pháp luật góp phần mang đến một trật tự xã hội trong đó tài sản, sự an toàn của của người dân được pháp luật bảo vệ.
- Như vật, sống trong xã hội thì mọi người dân phải tuân thủ luật pháp, để bảo đảm cho hạnh phúc của cá nhân mình cũng như hạnh phúc của người khác.
Giới luật Phật giáo
- Khác với 2 loại giới trên, giới luật Phật Giáo được đặt nền tảng trên trí tuệ, tự do tư tưởng, tự do tra vấn và luật nhân quả. Không giáo điều, không ép buộc, không đe dọa, không bắt tin theo một cách mù quáng. Phật Giáo lấy Từ (metta), Bi (karuna), Bất hại (ahimsa – không tổn hại) và Nhẫn (khanti) để nuôi dưỡng đạo đức.
- Điều được khuyến khích trong việc dạy dỗ của giới luật Phật giáo là không bóp méo hay linh động để thích ứng với sự xấu ác. Giết hại là một hành động bất thiện (akusala kamma), dù được nhân danh tôn giáo hay Tổ Quốc. Chế tạo và bán vũ khí không thể được coi là chính đáng dù nó đem đến lợi tức lớn lao cho quốc gia. Không ai có thể tha lỗi và xá tội cho những hành động tàn ác của một người dù người đó cầu nguyện bao nhiêu đi nữa (có một số tôn giáo nghĩ như vậy).
- Hành động tốt sẽ đem đến kết quả tốt và hành động xấu sẽ đem đến kết quả xấu, cho dù người đó là ai đi chăng nữa. Cũng vậy, Phật giáo dạy lối sống đạo đức bằng việc nêu gương được coi là cách dạy tốt nhất. Đức Phật là một điển hình. Đó là một nền đạo đức thực tiễn giúp con người cư xử một cách hài hòa và công bằng với mọi người.
- Con người được rèn luyện để cảm thấy có trách nhiệm và giá trị trong những việc làm của mình. Đạo đức Phật giáo hình thành những tiêu chuẩn và nguyên tắc về cách cư xử tốt thể hiện trong lời nói và hành động theo con đường chân chánh và tự chủ.
- Những đức tính này phát triển từ sự tự giác, không từ sự sợ hãi hay hình phạt. Chúng hướng dẫn chúng ta cách làm người, thực hiện những điều tốt và tránh xa những điều xấu.

5. Mục đích của giới luật Phật giáo

- Đặc biệt chúng ta nhận thấy rằng : Bất kỳ xã hội nào muốn phát triển và tồn tại lâu dài trong cuộc đời cần phải có những con người xã hội đứng đắn. Con người xã hội đứng đắn là con người hoàn hảo về ý thức đạo đức cá nhân với sự vắng mặt của tham sân si ở nội tâm. Sự tuân thủ giới luật không phải là một cái gông cùm áp đặt con người làm điều này không làm điều kia, nó chỉ giúp cho con người quay về với ý thức đạo đức cá nhân của chính họ và diệt tận mọi phiền não khổ đau.
- Con người sống trong sự thực hành giới có nghĩa là sống trong ý thức đạo đức của chính mình vì thế, mục đích của giới trong Phật giáo là giáo dục con người trở thành người xã hội gương mẫu, người lý tưởng và người tốt trong xã hội.

6. Quá trình hình thành và phát triển của giới luật Phật giáo

- Luật tạng đã ghi lại rằng đến năm thứ 13 sau ngày Phật thành đạo, giới luật mới thật sự hình thành chứ nó không được hình thành ngay từ năm đầu tiên thành lập giáo hội. Vì trong thời kì đầu tiên, đệ tử Phật đều là những bậc hảo tâm xuất gia, căn cơ xuất chúng, theo chân Phật trong một thời gian ngắn đều chứng được thánh vị, thánh quả. Tăng đoàn thời kì đầu tiên không cần phải chế định giới luật, đại chúng đều thanh tịnh.
- Sau đó, Đức Phật phải thiết lập giới luật khi có những hiện tượng vi phạm đời sống phạm hạnh, gây nên những ảnh hưởng không tốt cho đời sống sinh hoạt của tăng già. Giới điều ra đời là để chận đứng các hiện tượng xấu đã xảy ra trong tăng đoàn và ngăn ngừa nó đừng xảy ra về sau.
- Hơn 100 năm sau khi đức Phật nhập diệt, do sự bất đồng về việc thọ trì giới luật giữa nhóm Tỳ Kheo trẻ ở Bạt kỳ và nhóm trưởng lão Tỳ Kheo nên đã có kì kiết tập lần 2 để minh định lại những gì là đúng với Phật dạy và những gì đi lệch hướng.
- Tuy nhiên, kết quả lại không giải quyết được gì mà Phật giáo lúc đó lại được chia thành 2 bộ phái Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ, và từ đó giới luật cũng được phân thành 2 luật của Nam và Bắc truyền luật tạng.

7.   Những lợi ích của giới luật Phật Giáo đối với Tăng chúng

- Ở phần dẫn nhập của các bộ Quảng luật, thường đề cập đến 10 lợi ích của giới như sau:
* Để nhiếp phục tăng chúng
* Để tăng chúng được hoan hỷ
* Để chiết phục những người không biết hổ thẹn
* Để những người biết hổ thẹn được sống yên ổn
* Để những người chưa tin phát sinh lòng tin
* Để những người đã tin càng thêm tin tưởng
* Để diệt trừ các lậu hoặc ô nhiễm trong hiện tại
* Để ngăn ngừa các lậu hoặc trong tương lai
* Để chánh pháp được tồn tại lâu dài.
- Nhưng lợi ích này không chỉ dừng lại ở những điểm trên, mà vai trò của nó ảnh hưởng rất lớn trên nhiều mặt của cuốc sống mà ta sẽ đề cập ở phần sau.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.15/8/2014.
[DOC]

2. Ý nghĩa giới luật_tóm tắt bài giảng - HỌC VIỆN PHẬT ...

www.vbu.edu.vn/.../baigiang/Luat%20hoc%20Phat%2...
Thiền sư Hương Hải (1628-1715): Giải Sa Di Giới Luật .... Tăng gồm 10 người: trừ xuất tội tăng tàn, tất cả các yết ma khác đều có thể làm với túc số tăng này; d. ..... Do ý nghĩa này mà các pháp yết ma cho việc truyền thọ giới xuất gia cần phải ...HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.15/8/2014.

Thursday 14 August 2014

I. YẾU ĐIỂM GIỚI LUẬT.

Bài trước đã nói đại cương sự quan hệ của giới luật, ở đây nói rõ thêm và phân biệt ranh giới giữa đại thừa luật và tiểu thừa luật.
Giới luật là một trong ba tạng giáo điển của Phật đà. Hai tạng Kinh và Luận có xen sự nghị luận của các Bồ tát và các đệ tử Phật v.v... Về luật thì nhất định chỉ có đức Phật mới chế định mà thôi. Đức Phật căn cứ vào nhất thế chủng trí, như sự thật mà thuyết minh giới luật cốt xứng hợp hành vi của hàng đệ tử với thường trú chơn tâm cứu cánh chơn thật của muôn loài vạn vật. Muốn thấy sự thật của muôn loài vạn vật như Phật, phải nghiêm trì giới luật; muốn đạt được chơn hạnh phúc hoàn toàn của nhơn sinh, tức là cảnh giới Phật Đà, cũng phải nghiêm trì giới luật. Đức Phật dạy: "Thọ Phật giới tức nhập chư Phật vị", "Giới luật là đại sư của các ngươi, cũng như ta còn tại thế", "Giới luật còn là đạo ta còn". Người không nghiêm trì giới luật là người phản bội đức Phật, đi ngược cảnh giới giải thoát là cảnh giới thường trú chơn tâm, không thể thấy sự thật và hưởng hạnh phúc chơn chính. Người thọ trì giới luật, không những không phạm đến các điều ngăn cấm của Phật đã chế ra, mà hành vi hàng ngày càng xứng hợp với oai nghi khuôn mẫu. Oai nghi là những hành vi như đi đứng nằm ngồi v.v.... đúng theo một khuôn mẫu, quy tắc đã định. Đại thừa hay tiểu thừa luật đều y vào bốn yếu điểm sau:
1. TÁC: Nghĩa là tạo tác. Những người chưa thọ trì giới pháp, nay y theo pháp tắc oai nghi, làm lễ thọ giới. Nếu xét lại từ trước đến giờ, vì lầm lạc đã tạo ra nhiều điều phi pháp, cũng y theo quy tắc luật chế mà sám hối; về sau nếu còn vô tình phạm đến các giới điều đã cấm, thì cũng y theo phương pháp mà sám hối lại.
2. CHỈ: Nghĩa là ngăn dứt. Đối với những hành vi bất thiện như ngũ nghịch, thập ác ... quyết ngăn dứt mà không làm. Một nghĩa nữa nếu giữ gìn giới luật tinh tấn thì vô minh vọng tưởng sẽ ngăn dứt mà không phát sanh lại được nữa.
3. TRÌ: Có hai nghĩa: a) Trì xả, nghĩa là đối với những điều ác, quyết bỏ hẳn, không bao giờ làm lại, dù có hại đến tánh mạng. b) Trì thủ, nghĩa là đối với việc thiện quyết giữ gìn làm theo không để bỏ qua, dù là một việc thiện rất nhỏ.
4. PHẠM: Nghĩa là những hành vi không hợp pháp, trái với điều đã ngăn cấm; điều này mới là quan hệ. Người cầm cân giới luật cần phải sáng suốt, thông hiểu tất cả những tâm lý hành vi của hành giả. Căn cứ vào giới luật Đại thừa hay Tiểu thừa mà ấn định có phạm luật hay không. Lại còn phải căn cứ vào tâm niệm (nhất là tâm niệm) vào thời gian và nghiệp cảnh ( ) là thế nào mới có thể định đoạt là phạm hay không phạm. Ví dụ về giới sát sanh: Giết một con vật, đối với Thanh văn tiểu thừa là phạm nhẹ, đối với Đại thừa bồ tát thì phạm giới nặng, vì làm mất căn bản Từ bi tâm. Còn phải căn cứ vào tâm niệm cố ý lầm lạc, khi khởi tâm giết hại mạnh hay yếu, trong thời gian khởi tâm giết hại, đến khi giết và sau khi giết, trong khoảng thời gian ấy, trực tiếp hay gián tiếp, hối hận hay không hối hận, ác niệm tăng hay giảm, và nghiệp cảnh giết hại có thích hợp với lòng ưa muốn không (Như móng tâm muốn giết con bò mà khi giết lại giết lầm con trâu v.v..). . Từ khi móng tâm, trải qua thời gian đến nghiệp cảnh kết quả, một tâm niệm không thay đổi là tội nặng nhất. Nếu trong đó, móng tâm thì hăng hái hoặc vì một thiện niệm đến khi làm và sau khi làm thì hối hận hoặc gián tiếp, hoặc làm việc không kết quả như ý muốn, thi phạm tội nhẹ. Tùy theo những cảnh huống ấy mà định đoạt phạm hay không phạm, tội lỗi nhẹ hay nặng. Tội lỗi nặng nhẹ có chia làm ba loại thượng, trung và hạ. Về Đại thừa thì chú trọng nhất về tâm niệm. Bốn điểm yếu trên này làm khuôn khổ cho tất cả giới luật, dù Đại thừa hay Tiểu thừa cũng vậy.

II. NĂM THỪA LUẬT

Giáo pháp của Phật dạy có chia ra năm thừa sai biệt khác nhau, giới luật cũng y theo đó mà có năm thừa.
Năm thừa luật là Nhơn thừa luật, Thiên thừa luật, Thanh văn thừa luật, Duyên giác thừa luật và Bồ tát thừa luật. Nhơn thừa luật là năm giới của Ưu bà tắc, ưu bà di. Thiên thừa luật là mười thiện giới. Hai hạng trên này gồm cả tại gia và xuất gia (Bát quan trai giới cũng nhiếp ở trong này). Thanh văn thừa luật và Duyên giác thừa luật chỉ đặc biệt riêng cho hàng xuất gia, gồm có bốn chúng Sa di (con trai), Sa di ni (con gái), có mười giới; Tỷ kheo(đàn ông) có hai 250 giới, Tỷ kheo ni (đàn bà) có 350 giới; có luật tăng đến 500 giới. Duyên giác thừa luật gồm ở trong Thanh văn chứ không có luật riêng. Bồ tát thừa luật gồm cả tại gia và xuất gia, phổ thông đều theo giới kinh Phạm võng, có tất cả 58 giới, chia ra 10 giới nặng và 48 giới khinh.
Năm thừa luật trên đây, tùy theo căn cơ trình độ, hoàn cảnh mà lãnh thọ, trong đó chia ra có đại thừa và tiểu thừa sai khác nhau. Như bốn thừa trước thuộc về tiểu thừa luật, một thừa sau tức bồ tát thừa là thuộc về đại thừa luật.

III. NHẤT THỪA LUẬT

Nhất thừa luật, không phải ngoài năm thừa luật trước mà có, tức là chỉ cho Đại thừa bồ tát. Đây cũng căn cứ vào giới kinh Phạm võng, 10 điều trọng và 48 điều khinh làm căn bản. Như người tùy theo hoàn cảnh, muốn làm khuôn mẫu đạo đức về nhơn đạo, chỉ thọ trì năm giới tại gia, nhưng thâm tâm muốn phát bồ đề tâm, hồi hướng về quả vô thượng bồ đề, nên dù ở hoàn cảnh triền phược gia đình, có thể thọ trì thêm giới bồ tát luật gọi là Ưu bà tắc bồ tát hay Ưu bà di bồ tát. Còn hàng xuất gia, chí khí trượng phu, trang nghiêm nhơn tướng làm khuôn mẫu cho muôn loài, cũng thọ giới bồ tát là hàng sa di bồ tát, sa di ni bồ tát, tỷ kheo bồ tát, tỷ kheo ni bồ tát v.v... Cho nên, năm thừa luật cũng không ngoài nhất thừa luật mà có, mà cuối cùng năm thừa luật đều quy nạp vào nhất thừa luật cả. Nhất thừa luật mới thật là mục tiêu cứu cánh về giới luật. Và cũng chính bản ý của Phật hiện thân ở thế gian này. Muốn chỉ định hành vi của Nhất thừa bồ tát luật (tức Đại thừa luật) cần phải căn cứ vào ba phương diện sau này:
a) Phương diện tiêu cực nghĩa là nghiêm trì tất cả giới luật oai nghi một cách rốt ráo thanh tịnh, tuyệt hẳn bao nhiêu lỗi lầm nhỏ nhiệm không có thể phạm được.
b) Phương diện tích cực nghĩa là thâu nhiếp tất cả những điều thiện mỹ thế gian, xuất thế gian, hữu lậu vô lậu, để áp dụng vào hành vi đạo đức của mình. Hai phương diện trên này thiên trọng về tự lợi.
c) Phương diện cứu cánh lợi tha. Đến phương diện thứ ba này mới thật hoàn toàn cứu cánh của người thọ trì giới pháp đại thừa. Nghĩa là một hành vi gì, không cần kể đến có lợi hay có hại cho mình, miễn hành vi ấy có lợi cho quần chúng, một cách thiết thực về hiện tại cũng như về tương lai, thì chơn chính đại thừa Phật tử triệt để thi hành ngay, không do dự lùi bước. Chỉ có người phát đại bồ đề tâm, mới thọ trì nhất thừa luật. Người ấy mới xứng với hai chữ Phật tử.
 LỜI PHẬT
Thọ giới Phật dạy là được dự vào hàng chư Phật.
Giới luật còn là đạo ta còn.
Giới luật là vị đạo sư của các ngươi,
cũng như ta còn tại thế, không có sai khác.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.15/8/2014.
Tìm hiểu về giới luật trong Phật giáo .

Theo quan điểm Phật Giáo, trong tất cả loại hữu tình chúng sanh, con người luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển tâm linh (tu tập); vì thế, mục đích của Phật Giáo là nhắm vào đối tượng con người để hướng dẫn họ có một cuộc sống hoàn toàn chơn thiện mỹ, và trở thành người có nhân cách đạo đức hoàn thiện. Đồng thời, Phật Giáo luôn dạy cho họ phương cách làm thế nào để sửa đổi từ một con người có đức tánh xấu thành một con người có đức tánh tốt, từ  đối tượng vô minh trở thành một đối tượng trí thức, từ một con người có tư tưởng tiêu cực-bi quan-thụ động-và xấu xa…trở thành con người có tư tưởng tích cực-lạc quan-năng động-và tốt đẹp.
Đạo đức Phật Giáo là lối sống luôn mang lại an lạc và hạnh phúc cho con người. Nó nêu bật vị trí quan trọng cao tột của con người và chứng minh rằng con người có khả năng đạt được chơn giá trị đạo đức tối thượng(giải thoát) nếu như vị ấy có đủ ý chí vàsự nổ lực tự thân . Đặc biệt, Đạo đức Phật Giáo là lối sống cao thượng dạy con người:
Tránh làm các điều ác, tu tập các việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Đó là lời dạy của chư Phật.”(To eschew all evils, to perform good actions, and to purify one’s mind. That is the teaching of the Buddhas) (1)
Sống đạo đức có nghĩa là sống phù hợp với việc làm thiện qua Thân-Khẩu-Ý(Tam nghiệp), sự tuân thủ giới luật(Sìla) là một trong những phương pháp đạo đức Phật giáo huấn luyện 3 nghiệp của con người loại trừ các phiền não nhiễm ô ở đời, và đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý của chính mình:
“ Người luôn thận trọng lời nói, khéo phòng hộ tâm, không phạm điều ác về thân, và giữ các phương pháp tu tập này thanh tịnh; sẽ chứng được đạo của Thánh nhân dạy.” (He who guards his speech, restrains his mind, commits no wrong by his body, and thus keeps these roads of action clean, will achieve the way taught by the wise) (2)
Bằng cách thực hành đúng đắn về giới được đức Phật thiết lập, hàng giả diệt trừ tất cả những phiền não lậu hoặc: Tham-Sân-Si, bẻ gãy những lạc thú trần tục, giải thoát tất cả mọi khổ đau, và đạt đến sự thanh tịnh 3 nghiệp(thân-khẩu-ý) cùng với tâm và tuệ giải thoát. Về phương diện thế gian, bất cứ xã hội hay một tổ chức đoàn thể nào(như: trường học, cơ quan, xí nghiệp, nhà máy…) muốn ổn định trật tự xã hội và hoạt động các công việc của đoàn thể một cách có hiệu qủa cao, xã hội hay đoàn thể đó phải tự ấn định cho riêng nó những quy tắc hay điều luật đối với kỷ luật tập thể. Mặt khác, muốn thực hiện cuộc cách mạng đạo đức xã hội và môi trường sống của con người, điều trước tiên là phải cải tạo tư tưởng đạo đức cá nhân qua phương pháp tu tập và sự thực hành giới. Điều này có nghĩa là nếu con người muốn cải cách  lại nền đạo đức xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp mà không có sự chuyển hóa đạo đức cá nhân bằng sự thạnh lọc thân-khẩu-ý trở nên thanh tịnh, cuộ⣍ cải cách đó chỉ là sự cải tạo hình thức bề ngoài mà thôi.
Theo lời dạy cơ bản của đức Phật, sự tu tập giới là một sự biểu lộ tình thương và lòng từ mẫn vô hạn đối với tất cả chúng sanh. Lòng từ bi của Phật giáo được biểu lộ không chỉ riêng đối với tất cả nhân loại mà còn được biểu hiện qua thái độ Bất Hại(Ahimsà) đối với tất cả loài thú vật và thảo mộc. Với từ ngữ “ Bất hại(Ahimsà)” không có nghĩa là “không va chạm”. Nó có nghĩa là “ không tàn phá” và “ không hủy diệt” . Đó là một thái độ truyền thống của đạo Phật được bắt nguồn từ lời dạy của đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ. Thái độ này được biểu hiện qua các nước Phật giáo bằng những phương pháp đặc biệt như là: trồng cây để che bóng mát ở 2 bên đường, trồng các loại dược thảo khác nhau để chữa bệnh, xây dựng các bệnh viện dành cho  người bệnh cũng như  các trạm thú y dành cho thú vật,…dưới triều đại của vua A Dục vào khoảng 300 trước công nguyên (planting trees for shade on two road-sides, planting various kinds of medicinal trees for curing, and building hospitals for the humans as well as clinics for animals,ect…, under the reign of King Asoka-300BC) (3)
Đối với Phật giáo, con người thuộc về tự nhiên, vũ trụ được hình thành do các yếu tố nhân và duyên. Do đó, con người được bao gồm trong thiên nhiên và ngược lại. Nếu con người cố ý hủy hoại tự nhiên, điều đó có nghĩa là con người tự phá hủy chính mình. Vì con người và tự nhiên luôn ảnh hưởng qua lại và mối liên hệ lẫn nhau. Để chứng minh ý nghĩa này, nhà sinh thái học người Anh, ông A.Macfadyen đã phát biểu rằng: “ Sinh thái học tự nó liên quan đến mối quan hệ qua lại giữa sinh vật sống, thảo mộc, hoặc loài động vật, và môi trường của chúng…” (Ecology concerns itself with the interrelationship of living organism, plants, or animals; and their environment…)(4)
Mặt khác, theo quan điểm Phật Giáo, sự đòi hỏi của con người tiếp xúc với thiên nhiên giống như những chú ong tiếp xúc với hoa ; dù  hút mật hoa, ong không bao giờ làm tổn hại hương sắc của hoa : “Như ong hút mật hoa , ra đi không làm hại hương và sắc, cũng vậy bậc Thánh đi vào làng” (As the bee collects honey from flowers and departs without doing any harm to their scent, so let a sage dwell in the village) (5) . Đó là nguyên tắc sống đạo đức đối với các hàng đệ tử Phật được biểu lộ bằng sự tuân thủ giới luật (Sìla).
Trước khi thực hành giới luật Phật Giáo, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu và nghiên cứu về giới luật (Sìla) trong Phật Giáo. Đó là đề tài mà người viết muốn giới thiệu đến với quý đọc giả.
I . NGUYÊN TỪ CỦA  SÌLA (Etymology of Sìla) :
1. Định nghĩa về “Sìla”:
Từ “Sìla” không có nghĩa là những điều luật, quy luật, hay những quy tắc… buộc con người phải tuân thủ như : trong nhà trường, cơ quan, các ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, hay ở các tôn giáo khác. Một vài học giả đã giải thích Sìla với ý nghĩa khác qua nhiều phương diện khác nhau như : Về phương diện quy tắc và lòng từ, “Sìla” có nghiã là: sự hướng dẫn về tư cách đạo đức (guide for behavior)(6); hoặc phép tắc để hành xử (rule for action)(7); hay có nghĩa khác là lời dạy, mệnh lệnh, sự ngăn cấm, quy luật,…v..v..(precept, command, prohibition, dicipline, ect.) (8). Về phương diện đạo đức, “Sìla” có nghĩa là: giới hạnh (Virtue), như tác giả B.Buddhaghosa đã định nghĩa: “Giới hạnh là gì? Đó là những trạng thái bắt đầu bằng sự hiện diện củ Tư tâm sở trong một con người xa lánh việc Sát Sanh(không giết hại chúng sanh),…v…v…; hoặc trong con người thực hành viên mãn các học giới ” (What is Virtue? It is the states beginning with volition present in one who abstain from killing living-beings,etc., or in one who fulfils the practice of the duties)(9).
Đặc biệt, về phương diện tu tập, “Sìla” là từ ngữ của Pàli được hiểu theo nhiều nghĩa như : “việc thực hành đạo đức, đức tính tốt, đạo đức Phật giáo, và điều lệ về đạo đức” (moral practice, good character, Buddhist ethic, and code of morality)(10). Trong Từ Điển Sanskrit-Anh, nó được định nghĩa như sau: “Theo từ ngữ Phật học Sanskrit, Sìla được giải thích là: phong cách cư xử theo đạo đức, là một trong 6 hoặc 10 pháp Ba-la-mật; hoặc được giải thích là: giới điều về đạo đức. Theo Phật giáo, có 5 giới hay còn gọi là 5 phép tắc cơ bản về phong cách đạo đức” (According to Sanskrit word of Buddhist “Sìla”, it is explained as ‘Moral Conduct’, is one of the six or ten perfection or Pàramitàs ; or ‘Moral Precept’. With Buddhism, there are five fundamental precepts or rules of moral conduct)(11).
Theo quan điểm người viết, mặc dù từ “Sìla” thuộc Pàli và từ “Sìla” thuộc Sanskrit có phần khác nhau một chút về hình thức dấu, chúng có cùng một nghĩa tương đồng và luôn nhấn mạnh về phương cách thực hành và ứng dụng về Sìla trong cuộc sống con người, hầu mang đến cho họ một lối sống hoàn toàn chơn thiện mỹ với niềm vô biên an lạc và hạnh phúc tối thượng. Theo quan điểm Phật giáo, Sìla bao gồm 2 nghĩa: giới điều về đạo đức (theo phương diện đạo đức), và phong cách cư xử về đạo đức (theo phương diện tu tập). Với nghĩa đầu tiên, nó được xuất phát từ lời dạy của đức Phật khuyên con người: tránh ác làm lành, tu tập thân-khẩu-ý thanh tịnh, diệt trừ  tất cả những phiền não tham-sân-si đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình. Với nghĩa thứ hai, không những nó khuyên con người qúy mến nhau, thương yêu nhau, thông cảm cho nhau, đoàn kết và giúp đở nhau; mà còn hướng dẫn con người làm thế nào để tu tập Sìla(Giới) thích nghi với mọi tình huống xã hội hầu mang lại lợi ích, an vui và hạnh phúc thật sự cho mình và người. Đây chính là ý nghĩa Sìla tích cực và năng động trong giới Phật giáo. Ý nghĩa Sìla như thế  mới có thể đóng góp vai trò quan trọng của nó về phương diện đạo đức trong cuộc sống con người và cộng đồng xã hội ngày nay.
2. Những điều luật của Sìla:
Như chúng ta biết rằng, cuộc sống của các hàng đệ tử phật trong 5 chúng, như là: Tỳ-kheo(Bhikkhus), Tỳ-kheo-ni(Bhikkhunìs), Sa-di(Sràmaneras), Phật tử Nam(Upàsakas), Phật tử Nữ (Upàsikas), được tuân thủ những giới điều của Phật giáo. Nền tảng cội nguồn của những quy điều này truyền đến thế hệ chúng ta từ một hình thức rất sớm với tên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa(Pàtimokkha), và được tập hợp lại từ những quy điều tự viện khác nhau được bao gồm trong Luật Tạng (Vinaya Pitaka).
Ba-la-đề-mộc-xoa có 2 phần : một dành cho Tỳ-kheo bao gồm 227 giới(12), và một dành cho Tỳ-kheo-ni bao gồm 311 giới(13). Mặt khác, Ba-la-đề-mộc-xoa được phân chia thành 8 loại tội lớn nhỏ khác nhau dành cho Tỳ kheo, và 7 loại tội cho Tỳ-kheo-ni(vì không có 2 pháp Bất Định –Aniyatà) được trình bày tóm tắt như sau:

Số tt
Các loại giới
Tỳ-kheo
Tỳ-kheo-ni
1
Ba-la-di (Pàràjika: Defeat Rules)
4
8
2
Tăng Tàn(Sanghàdisesa:Formal MeetingRules)
13
17
3
Bất Định (Aniyatà: Undetermined Rules)
2
/
4
Xã đọa (Nissaggiyà Pàcittiya: Forfeiture Rules)
30
30
5
Tội Đọa (Pàcittiya: Expiation Rules)
92
166
6
Hướng Bỉ Hối (Pàtidesaniyà: Confession Rules)
4
8
7
Chúng Học (Sekhiya: Training Rules)
75
75
8
Diệt Tránh (Adhikarana Samatha: Legal Question Rules)
7
7
 
Tổng Cộng
227
311
Đó là phần giới Pàtimokkha dành cho Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Tiếp theo là phần 10 giới dành cho vị Sa-di(Sàmanera), đó là tránh xa :
1.      Việc sát sanh (Destroying life)
2.      Việc  trộm cắp (Stealing)
3.      Việc tà dâm (Impurity)
4.      Việc nói dối (Lying)
5.      Việc uống các chất say và rượu mạnh (Arrack and strong drink and intoxicating liquors)
6.      Việc ăn phi thời (Eating at forbidden times)
7.      Việc ca múa hát xướng và xem nghe (Dancing, singing music and seeing spectacles)
8.      Việc đeo tràng hoa thơm và thoa phấn sáp (Garlands, scent, unguents, ornaments, and finery)
9.      Việc xử dụng giường cao và rộng lớn (The use of the high or broad beds)
10.  Việc cầm giữ vàng bạc (Accepting gold and silver)(14).
Trong sự liên hệ về 10 giới này, tác giả H. Kern đã đề cập về Sìla trong cách diễn đạt khác. Ông viết: “Tất cả10 giới này buột các thành viên trong Tăng đoàn tuân thủ, 5 giới đầu dành cho Phật tử  là tránh xa: (1) việc sát sanh, (2) trộm cắp, (3) tà dâm,(4) nói dối, (5) dùng các chất say; 5 giới sau tránh xa: (6) ăn phi thời, (7) tham gia vào các trò chơi giải trí ở đời, (8) dùng phấn sáp và hương thơm, (9) nằm giường trang sức và rộng lớn, (10) giữ tiền bạc.”(15)
Về phương diện khác, một số sách  đã được  các tác giả đề cập về 10 giới theo một trật tự khác, ví dụ như: trong quyển “Đạo Đức Phật Giáo” của tác giả H. Saddhàtissa, ông ta đã đổi lại vị trí của giới thứ 8 sang vị trí của giớiứ 9 và ngược lại(16). Hay trong sách giáo khoa “A Study of the Sphutàrthà Srighanacarasangraha Tika” của Giáo sư  Sanghasen Singh, ông ấy đã sắp xếp vị trí của giới thứ 6  sang vị trí của giới thứ 9 va ngược lại.(17)
Chúng ta thấy rằng, tùy theo căn cơ cao thấp của con  người mà đức Phật  thiết lập ra các giới điều theo mỗi mức độ khác nhau, nhằm giúp con người dễ dàng tu tập  tâm thanh tịnh trên con đường tu tập phát triển tâm linh. Mặc khác, dù giới luật (Sìla) có phân chia thành nhiều loại khác nhau, 5 giới đầu và 10 giới đầu vẫn là những giới căn bản và chủ yếu cho tất cả mọi người khi tu tập đạo đức tâm linh; những giới khác được hệ thống hóa một cách chi tiết từ những 10 giới căn bản này. Đăc biệt, 5 giới
đầu là nền tảng cơ bản đạo đức chủ yếu trong sự tu tập không những cho tất cả qúy vị Phật tử, mà còn cho tất cả mọi người trong xã hội nếu họ muốn tìm một cuộc sống an lạc và hạnh phúc thực sự, muốn thiết lập một xã hội có trật tự, và muốn xây dựng một thế giới hòa bình. Đó là nền đạo đức luân lý cơ bản được đức Phật thiết lập và hướng dẫn cho con người tu tập đạo đức tâm linh với mục đích vì an lạc và hạnh phúc cho mọi người trong cuộc sống hiện tại cũng như ở tương lai.
II. KHÁI NIỆM VÀ HIỆU LỰC CỦA SÌLA (Concept and Effect of Sìla) :
1.      Khái niệm về Sìla:
   Khi đề cập đến Sìla, đầu tiên chúng ta cần nhận thức đúng đắn về khái niệm của Sìla. Như  được đề cập về Sìla trong phần đầu giới thiệu, Sìla không có nghĩa là những điều lệ hay những quy tắc như ở: trường lớp, cơ quan, xã hội, hay các tổ chức đoàn thể…, nó cũng không có nghĩa là: chấm dứt, hay ngăn cấm các hành vi bất thiện như cắt đứt cây cỏ thảo mộc… Sự tuân thủ Sìla trong đạo Phật nhằm vào ý thức đạo đức cá nhân hầu giúp con người giải thoát tất cả những phiền não ô nhiễm và khổ đau ở đời, mang lại cho họ một cuộc sống hoàn toàn chơn thiện mỹ.
   Đức Phật, Ngài nhận rõ hoàn toàn sự đau khổ con người bắt nguồn từ cội gốc phiền não Tham-Sân-Si; vì thế, Ngài đã dùng phương tiện khéo léo bằng cách thiết lập các giới điều về đạo đức cho con người tu tập ý thức cá nhân, và mang lại cho họ sự an vui, hạnh phúc và giải thoát tâm. Từ quan điểm này, chúng ta nhận thấy Sìla trong Phật giáo được bắt nguồn từ sự đau khổ của con người, nó chỉ là phương tiện cho con người nương theo để tu tập thoát khỏi mọi khổ đau khi con người vẫn còn đau khổ. Vì vậy, đứng trên phương diện giải thoát mà nói, sự tuân thủ giới không là cái gì cả, nó chỉ là phương tiện tạm thời để gíup con người thoát khỏi mọi khổ đau. Từ đây, ta có thể nói rằng: Giới (Sìla) là cội gốc của sự Giác ngộ, là nền tảng của Niết bàn, là chiếc bè đưa người qua bể khổ, là chiếc cầu nối liền với bờ Giải thoát.
   Mặt khác, sự thực hành Giới (Sìla) có nghĩa là dạy con người làm thế nào để tu tập đạo đức cá nhân, làm thế nào để nhận rõ và thông cảm nổi khổ của con người như của chính mình. Hiểu được khái niệm này, hành giả không những tu tập đạo đức chính mình mà còn không gây đau khổ cho mình và người khác trong cuộc sống cộng đồng xã hội.
   Từ sự giải thích ở trên về khái niệm giới, chúng ta hiểu được rằng: Giới trong Phật giáo là nhằm vào sự giải thoát phiền não và sự tu tập đạo đức cá nhân của con người; do đó, sự tuân thủ giới luật (Sìla) trong Phật giáo mang lối thực hành mới mẽ, năng động và tích cực đối với mọi người, mọi xã hội, và mọi thời gian vì tính chất giải thoát của nó. Đó là khái niệm đúng đắn về Giới(Sìla) trong Phật giáo được trình bày như trên.
2.Hiệu lực của Sìla:
   Khi nghiên cứu về Phật pháp, chúng ta  nhận thấy lời dạy của đức Phật luôn khuyên con người: tu tập đạo đức cánhân, cư  xử với nhau bằng tấm lòng nhân ái và vị tha, sống với sự bình đẳng-bác ái-độ lượng-và khoan dung, không làm đau khổ cho mình và người, xa lánh những phiền não và lạc thú ở đời bằng sự tu tập Giới hầu giải thoát khổ đau và đạt được chơn hạnh phúc tối thượng. Hơn nữa, sự tuân thủ giới luật trợ giúp con người phát huy lốisống mẫu mực, thành tựu ý thức đạo đức cá nhân, và đưa con người đến sự an lạc hạnh phúc và giải thoát giác ngộ. Đặc biệt, giới Phật giáo dạy con người nhận thức đúng đắng về phong cách cư xử đạo đức trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa chồng và vợ, giữa chủ và tôi tớ, và giữa tình bạn với nhau như :
a. Giữa cha mẹ và con cái (18)
   Đức Phật đã xác định và nhấn mạnh về mối liên hệ của gia đình bằng cách khuyến khích tất cả mọi người nên duy trì mối quan hệ ràng buột gia đình với nhau , sống với nhau bằng sự tôn trọng nhân cách và được thể hiện qua trách nhiệm và bổn phận của mình trong gia đình. Ngài đã đưa ra 5 điều giới mà người con cần phải tuân thủ:
·  Cấp dưỡng cho cha mẹ (Supporting his parets now).
·  Thực hiện trách nhiệm và bổn phận của mình đối với cha mẹ (Performing duties incumbent on them).
·  Duy trì nòi giống và truyền thống của gia đình (Keeping up the lineage and tradition of the family).
·  Làm tròn công việc ma chay đối với người đã khuất (Making gifts in due course to the dead).
Ngược lại, cha mẹ phải đối xử với con cái theo 5 điều :
·        Ngăn cản con cái làm những hành động bất chính (Restraining him from evil action).
·        Khuyến khích con cái làm những việc có đạo đức (Exhorting him to virtue).
·        Hướng dẫn cho con cái có nghề nghiệp ổn định (Training him to a profession).
·        Sắp xếp việc cưới hỏi thích hợp cho con cái (Arranging a suitable marriage for him).
·        Trao cho con di sản thừa kế đúng lúc (In due time, hanging overhis inheritance)
b. Giữa Thầy và trò(19)
   Mối quan hệ giữa thầy và trò được đánh giá rất cao trong Phật giáo. Đức Phật dạy 5 cách được ứng dụng cho học trò đối với Thầy:
·  Đứng dậy chào Thầy (Rising from his seat in salutation).
·  Hầu Thầy (Waiting upon the teacher).
·  Ham học (Desiring to learn).
·  Chăm sóc thầy chu đáo (Rendering him personal service).
·  Chú tâm mỗi khi nghe lời dạy của Thầy (Paying attention when receiving the teacher’s teachings).
Ngược lại 5 cách này, Thầy giáo phải có 5 bổn phận đốivới học trò:
·  Dạy học trò những điều mà Thầy đã được huấn luyện (Training the pupil in that wherein the teacher has been trained).
·  Làm cho học trò nắm chắc những điều đã được học (Making the pupil hold fast that, which is well held).
·  Dạy bảo học trò hết lòng bằng kiến thức khéo léo của mình (Thoroughly instructing the pupil in the lore of every art).
·  Nói tốt cho học trò giữa những người bạn và đồng nghiệp (Speaking well of the pupil among his friends and companies).
·  Bảo vệ sự an toàn cho học trò trong mỗi phương diện (Providing for his safety in every quarter).
c. Bổn phận chồng đối với vơ/font>(20)
   Để giữ được cuộc sống hạnh phúc gia đình giữa chồng và vợ được lâu dài, Đức Phật dạy 5 bổn phận của người chồng đối với vợ:
·  Tôn trọng nhau (Respect).
·  Lịch sự nhã nhặn với nhau (Courtesy).
·  Trung thành (Faithfulness).
·  Tôn trọng quyền làm vợ (Hang over authority to her).
·  Cung cấp cho vợ những vật trang sức cần thiết (Providing her with necessary adornment).
Ngược lại, vợ cũng phải biểu hiện 5 bổn phận của mình đối với chồng:
·  Thể hiện tốt trách nhiệm của mình đối với chồng (Well performing her duties).
·  Biểu hiện lòng mến khách đối với dòng dõi giữa 2 gia đình (Showing her hospitality to the skin of both families).
·  Trung thành (Faithfulness).
·  Giữ gìn kỷ lưỡng tài sản của chồng (Well watching over the husband’s wealth)
·  Khéo léo và linh động thực hiện các việc kinh doanh.(Skill and industry in discharging all her bussiness).
d. Bạn bè với nhau (21)
   Trong phần  này, đức Phật đãđưa ra 5 phương pháp để cư xử trong tình bạn. Vị ấy phải tự mình làm tròn trách nhiệm của mình đối với bạn theo 5 điều:
·  Rộng lượng với bạn (Generosity).
·  Nhã nhặn với bạn của mình (Courtesy).
·  Có lòng nhân từ (Benevolence).
·  Cư xử với bạn giống như cư xử với chính mình (Treating them as he treats himself).
·  Nói lời tốt đẹp (Being as good as his word).
Ngược lại, người bạn của vị ấy cũng đáp lại cho vị ấy theo 5 cách:
·  Bảo vệ bạn khi bạn không kịp đề phòng (Protecting him when he is off his guard).
·  Giữ gìn của cải cho bạn (Guarding his property).
·  Là nơi nương tựa cho bạn trong lúc nguy hiểm (Becoming a refuge in danger).
·  Không từ bỏ bạn trong lúc khó khăn (Not forsaking him in his family).
·  Quan tâm đến gia đình của bạn (Showing consideration for his family).
e. Bổn phận giữa chủ đối với đầy tớ (22)
Đức Phật dạy người chủ phải cư xử với người đầy tớ của mình theo 5 cách:
·  Phân công việc phải tùy theo sức khẻo và khả năng của đầy tớ (Assigning their work according to their strength and capabilities).
·  Cung cấp đầy đủ thức ăn và lương bổng cho họ(Supplying them with food and wages).
·  Chăm sóc họ khi bệnh hoạn (Looking after them in sickness).
·  Thỉnh thoảng chia sẽ cho họ những món ăn ngon (Sharing withthem occasional delicacies).
·  Cho phép họ nghỉ ngơi đúng lúc (Granting leave at time).
Ngược lại, người tớ phải thể hiện 5 bổn phận trách nhiệm của mìng đối với chủ như:
·  Thức dậy trước người chủ của mình (Rising before the owner).
·  Đi ngủ sau chủ của mình (Going to rest after the owner).
·  Bằng lòng với công việc được giao (Contenting themselves with what is given to them).
·  Làm việc hết lòng (Well working).
·  Làm tốt thanh danh của chủ (Establishing a good reputation for the owner).
   Đặc biệt đối với Tăng-ni, bằng sự tuân thủ giới tiểu-trung và giới đại , vị ấy thận trọng những hành vi thiện trong lời nói và việc làm của mình. Sống trong sạch, phẩm hạnh tốt, phòng hộ các căn, vị ấy chánh niệm tĩnh giác. Vị ấy đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý (By the observance of Sìla with the Culla Sìla(Minor Precepts, Majjhima Sìla(Medium Precepts), and Maha Sìla(Major Precepts), one encompasses himself with good deeds in act and word. Pure are his means of livelihood, good is his conduct, guarded the door of his senses, he is mindful and seft-possessed. He attains the purification of body-speech-and mind) (23). Với sự hòan hảo giới hạnh, vị ấy tẩy trừ tâm tham ái, ác ý, yếu ớt và biếng nhác, trạo cử và hối tiếc, và tâm nghi ngờ (with fulfilment of moral conduct, he purifies his mind of lusts, of malevolence, of weakness and of sloth, of flurry and reget, and of doubt)(24). Khi 5 phiền não đã được tẩy trừ, tâm vị ấy an tịnh chứng và trú vào Tứ thiền. Sau đó, tâm vị ấy hướng đến Thắng trí, và chứng đắc Tam minh và Lục thông. Đây là kết quả dị thục của đời sống Sa môn trong cuộc đời.
   Từ vấn đề được đề cập ở trên, chúng ta có thể nói rằng: sự tuân thủ giới là nhằm vào sự tẩy trừ những hành vi bất thiện, xây dựng một con người đạo đức và gương mẫu trong xã hội, hình thành một xã hội hòa bình và hạnh phúc cho con người. Đây là nguyên tắc đạo đức cơ bản được đức Phật thiết lập vì an lạc hạnh phúc và giải thoát cho mình và người trong cuộc sống hiện tại cũng như trong tương lai.
3.Sự tu tập Giới (Sìla):
   Trước khi đề cập về sự tu tập giới, chúng ta không quên đề cập đến công năng và nhiệm vụ của nó. Nhiệm vụ của giới gồm có 2 nghĩa: hành động để chấm dứt tà hạnh và thành tựu đức không lỗi nơi người có giới. Bởi thế khi gọi là Giới, cần hiểu rằng nó có nhiệm vụ chặn đứng các tàhạnh là nhiệm vụ của nó theo nghĩa hành động, và bản chất không lỗi kể như nhiệm vụ của nó trong nghĩa thành tựu. Vì ở đây, chính hành động hoặc sự thành tựu được gọi là nhiệm vụ. Còn công năng và lợi ích của việc trì giới là “phòng phi chỉ ác(tức là ngăn chặn những việc làm sai trái và đình chỉ các việc ác. Chính nhờ hành trì đúng đắn các giới điều đức Phật chế ra, hành giả đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý và đạt được sự vô uý).
   Theo quan điểm của đạo Phật, Giới được đặt trên nền tảng tình yêu thương rộng lớn và lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh. Vì thế, muốn thành tựu giới trọn vẹn, chúng ta cần phải sống với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt. Nhờ vậy, 3 nghiệp được thanh tịnh:
“Thân khẩu ý thanh tịnh, thị danh Phật xuất thế
Thân khẩu ý bất tịnh, thị danh Phật diệt độ”
   Thân khẩu ý thanh tịnh tức là: thân tránh xa những điều xấu ác như sát sanh-trộm cắp-tà dâm….; miệng không nói dối, nói 2 lưỡi, nói lời độc ác…; ý không móng khởi lên tham-sân-si và tà kiến. Trong khi thực hành giới , chúng ta cần nhất phải giữ gìn thân và miệng bề ngoài cho đúng với giới luật thì tâm trí bên trong mới được trong sạch . Trong và ngoài đều trong sạch, tức nhiên dung nhiếp nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ . Muốn đạt đến chỗ ngộ , hành giả cần phải hướng về những giới điều như : nhiếp luật giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới( Tam Tụ Tịnh Giới) … Nếu thực hành đúng Giới học như trên , tức nhiên thân  tâm giải thoát được mọi sự ràng buộc và không sanh khởi những hành vi bất thiện. Nhờ có sức mạnh của việc trì giới, chúng ta có thể vượt lên sư chi phối của ngoại cảnh,  của nội tâm; hầu tìm đến sự an tịnh cho chính mình ngay trong cuộc đời.
   Trong thời đại hiê䮠nay, người đệ tử Phật ( nói chung) và Tăng - Ni  trẻ (nói riêng) cần phải tu tập giới như thế nào để hoà hợp với cuộc đời khi chúng ta thực hiện nhiệm vụ “Truyền trì đạo mạch” của đức Thế Tôn ?
   Trong kinh Kim cang, có câu :
Nhất thiết hữu vi pháp – Như mộng , huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển – Ưng tác như thị quán”.
   Thật vậy, vạn vật trên cuộc đời này đều do các duyên hoà hợp mà sinh khởi và hoại diệt khi duyên tan rã. Các pháp đều không trường tồn, luôn sanh diệt diệt sanh, sanh sanh diệt diệt, sanh để rồi diệt, diệt để rồi sanh … cứ như thế luôn đổi thay biến hoá từ tình trạng này sang tình trạng khác. Chúng như chiêm bao, như huyễn hoá, như bọ bào, như bóng nắng, sương mai, như điện chớp … nên gọi là vô thường, giả tạm, không thật có … Người học cần phải biết phân biệt như vậy mà quán sát rằng : con người do Thất đại (Địa, Thủy, Hoả, Phong, Không, Kiến, Thức) giả hợp mà thành. Hay nói khác, do duyên của 5 Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) giả hợp mà thành một con người, mọi sự vật trên cuộc đời đều do Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) giả tác thành mà hiện hữu. Tất cả luôn bị sức búa của thời gian tàn phá, tiêu diệt và hủy hoại theo quy luật tất yếu của cuộc sống . Dòng đời luôn vận chuyển theo thời gian mà thay đổi, sanh diệt và không bao giờ đứng yên một chổ. Mọi thứ trên cuộc đời đều phải vận động để tiến hoá, đấranh để sinh tồn. Vì vậy Đức Phật đã từng nói : “Tất cả những lời dạy của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng” . Chúng ta chớ lầm tưởng ngón tay là cứu cánh, nó chỉ là “phương tiện” để chỉ cho mọi người hướng đến mặt trăng mà thôi! Mọi giáo điều của Ngài chỉ là phương tiện để giúp cho con người nương theo đó vượt thoát mọi khổ đau, hầu hướng đến sự an lạc giải thoát cho chính mình. Cũng vậy, giáo điều của Phật chỉ tạm chế ra khi có người trong Tăng đoàn phạm lỗi , nếu không ai có lỗi thì Ngài không chế. Do đó, giới điều của Phật chỉ là phương tiện làm cho con người thuần thục về tư tưởng, về lối sống và ứng xử với nhau một cách tốt đẹp. Nếu con người vốn thuần thục trong giới, họ trở thành những người mẫu mực, chân chánh, thân tâm luôn thanh tịnh thì cần gì phải giữ gìn giới điều. Khi cây chưa bén rễ, chúng ta cần phải có hàng rào (giới) để ngăn cản loài chó, gà không bươi phá. Khi nó bén rễ, phát triển cao lớn, cfnh lá sum xuê thì dù cho không có hàng rào chăng nữa, gà chó cũng chẳng làm tổn ại gì đến cây.
   Trong tạng kinh Phật giáo đức Phật có đề cập đến 5 sự lợi ích cho người trì giới và sống đúng giới luật:
a.      Tiền của dồi dào qua công việc làm đứng đắn (Acquirement of great wealth  through his industry and of strong rectitude)
b.      Tiếng lành đồn xa (Good report of him are spread aboard)
c.       Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào , hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy không sợ hãi và bối rối. (His entering into whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or members of a religious order,etc., with his confident and self-possessed mind.)
d.      Chết không sợ hãi (Death without anxiety)
e.      Sau khi chết, vị ấy được  thác sanh vào cõi thiên giới (Rebirth into some happy state in heaven after death)(25)
   Và ngược lại, đức Phật cũng đề cập 5 sự hãm hại và mối nguy hiểm đến với những ai không tuân thủ giới :
a.      Tài sản bị hao hụt ( Falling from great property through sloth and devoid of rectitude)
b.      Tiếng ác đồn xa (His evil repute gets noised abroad)
c.Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy luôn sợ hãi và bối rối. (His entering into whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or men of a religious order,etc., with shy and confused mind)
d.      Chết với tâm đầy sợ hãi (Death with full anxiety)
e.      Sau khi chết, vị ấy bị thác sanh vào cõi ác thú (Rebirth into some unhappy state of suffering or woe after death)(26)
   Nói tóm lại, người Tăng Ni trẻ chúng ta sống trong một thời đại văn minh tiến bộ , cần phải hiểu biết thâm sâu về sự tu tập giới. Chúng ta không nên đóng kín những giới điều của Phật trong một khuôn mẫu nhất định mà phải dùng trí quán sát “Tuỳ Duyên Bất Biến” trong khi tu tập . Dẫu biết rằng giới lànền tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là cửa ngõ của Niết Bàn; song chúng ta phải biết thực hành giới trong từng hoàn cảnh, tình huống khác nhau khi tu tập; miễn là tâm hồn định tĩnh, không tham đắm với ngoại cảnh xung quanh. Giống như cây to lớn phải nảy cành thay lá nhưng không bao giờ rời gốc của nó. Chúng ta cũng vậy, luôn uyển chuyển về sự tu tập giới trong từng hoàn cảnh thích hợp với mình không nên quá khắc khe hoặc phóng khoáng trong việc tu tập giới. Chủ yếu là làm sao thân tâm chúng ta được an tịnh, tướng mạo đoan trang trong một thái độ thoải mái, lịch lãm. Có như vậy, ta mới hoà nhập vào lối sống cuộc đời một cách dễ dàng khi hoá độ. Tinh thần này đã được các vị thiền sư, tổ sư vận dụng nó làm “kim chỉ nam” trong qúa trình hành đạo, cũng như ngài Tùng Thẩm Pháp sư vì muốn khai ngộ cho đệ tử mà tự tay mình bóp chết con mèo trước mặt các hàng đệ tử với một tâm trạng lắng đọng vô tư; như vậy đối với ngài có sát sanh chăng? Ngài Thiền Lão Thiền sư làm cố vấn, ngài Thảo Đường làm quốc sư, ngài Đỗ Thuận Thiền sư được vua Lê Đại Hành mời vào cung bàn luận việc chính trị ngoại giao của nước nhà … Như vậy, các ngài đã tham đắm danh lợi, hoặc mất tính chất một tu sĩ, hay phá giới chăng?
   Là đời hậu tấn, chúng ta phải noi theo tinh thần của các vị tiền bối, luôn “phóng khoáng” trong một “trật tự nề nếp” khi tu học giới mà không chấp chặt ở một giới điều nào cả. Điều quan trọng nhất là luôn duy trì và giữ vững thân tâm mình được thanh tịnh, an lạc; chánh niệm tĩnh giác trong khi đi-đứng-nằm-ngồi-nói năng-cư xử … một cách lịch thiệp, ôn hoà và nhã nhặn. Như vậy, ta đã biết tực hành giới một cách trọn vẹn. Chúng ta đừng qua niệm rằng: giữ giới tức là mắt thấy sắc không nhìn, tai không dám nghe tiếng, mũi không dám ngửi mùi hương, lưỡi không chịu nếm hương vị, thân không dám va chạm, ý không dám suy nghĩ; đó là những người giữ giới theo sự cố chấp trong từng giới điều. Là con người, lẽ dĩ nhiên chúng ta luôn cần những món ăn vật chất để nuôi cơ thể và những cuộc vui giải trí hầu làm thoải mãn tinh thần của con người khi mệt mỏi. Song, là một tu sĩ Phật giáo, chúng ta phải ăn uống như thế nào để khỏi bị bội thực; tiếp xúc với ngoại cảnh như thế nào hầu không bị ô nhiễm, tham đắm và đừng để mọi người chê bai. Đó mới là người biết sống, biết tu trì giới luật trọn vẹn của Phật. Đạo Phật chúng ta luôn luôn hoà mình vào cuộc đời, mãi mãi là bông sen mang hương thơm đến cho đời và mọi người mà không bị tổn hại đến hương sen. Vì vậy, hoa sen là một hình ảnh tượng trưng cho tinh thần nhập thế của Đạo Phật, tượng trưng một lối sống “tuỳ duyên bất biến” của người tu sĩ trong thời hiện đại với sứ mạng :
“Truyền trì đạo mạch, tục diệm truyền đăng, xiển dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh, báo Phật ân đức” trên tinh thần “Đạo pháp – Dân tộc –CNXH”.
“Hương Chiên đàn Già la – Hương Sen và Vũ quý,
Ngần ấy loại hương vị – Không sánh bằng Giới hương”
(Sandalwood or Tagara, a lotus flower or a vasiki,
Among these kinds of perfume, the perfume of virtue is unsurpassed )(27)
Hay: “Ít giá trị hương này – Hương già-la, chiên đàn,
Chỉ hương ngườiđức hạnh – Tối thượng toả thiên giới”
(Scanty is the scent that comes from Tagara and sandalwood but the perfume of those who possess virtue rises up to the gods as the highest.)(28)
III. KẾT LUẬN: (Conclusion)
Đề tài : “Tìm hiểu về Giới Luật (SìLa) trong Phật giáo.” Là một phần nhỏ trong phạm vi Tạng luật Phật giáo, vì thế theo phạm vi của đề tài, người viết không thể diễn đạt toàn bộ Tạng luật một cách chi tiết, mà chỉ đề cập một phần nhỏ trong phần luật mà thôi. Đó là sự nghiên cứu về: Nguyên từ Sìla (định nghĩa và giới thiệu các giới điều của Sìla) , cũng như đề cập đến khái niệmvà hiệu lực của Sìla trong sự tu tập .
Như trên đã đề cập, Sìla của Phật giáo luôn dựa trên đạo đức (morality) và lòng từ (compassion) . Sự tuân thủ giới luật (Sìla) là nhằm vào sự tu tập ý thức đạo đức cá nhân hầu làm cho con người thoát khỏi mọi khổ đau ở đời . Vì thế, đức Phật đã sử dụng nhiều phương tiện thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các giới điều cho các đệ tử tuân hành hầu mang lại sự an lạc và hạnh phúc cho con người.
Mặt khác, Sìla của Phật giáo được bắt nguồn từ nỗi đau khổ của con người. Có nghĩa là sự tuân thủ giới luật (Sìla) không là gì cả ; nó chỉ là những phương tiện tạm thời hầu giải thoát con người từ những phiền não vô minh và tham ái, đạt được sự thanh tịnh thân và tâm (giác ngộ giải thoát) .
Sống trong thời đại văn minh tiến bộ, chúng ta cần phải hiểu và thực hành giới(sìla) một cách chính xác trong khi tu tập. Có nghĩa là chúng ta không nên cố chấp vào những giới điều của Phật như là một khuôn khổ ấn định không bao giờ thay đổi, mà hãy quan sát nó bằng trí tuệ sâu xa của chính mình trong khi tu tập giới. Mặc dù Sìla là nền tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là cách cửa của sự Niết bàn, chúng ta phải nhận thức như thế nào khi tu tập giới trong nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau với tâm an tịnh của chính mình. Hay nói cách khác vị ấy nên uyển chuyển để tu tập giới trong những tình huống thích hợp với chính mình và không nên giữ một thái độ quá khắc khe hoặc quá lỏng lẻo trong khi tu tập giới. Dĩ nhiên, là một con người, chúng ta cần phải thưởng thức những món ăn ở đời để giữ gìn thân thể và vui chơi nhiều trò chơi giải trí để thoải mái tinh thần; Nhưng điều quan trọng là chúng ta ăn uống như thế nào để không bị bội thực, và làm thế nào để thưởng thức những thú vui ở đời mà vẫn luôn giữ tâm an tịnh và giải thoát. Đó làngười biết tuân thủ giới luật một cách đúng đắn và hợp lý.
“Hương các loài hoa thơm – Không bay ngược chiều gió,
Nhưng hương người đức hạnh – Ngược gió khắp tung bay,
Chỉ có bậc Chân nhân – Toả khắp mọi phương trời”
(The scent of flowers does not travel against the wind, nor that of Sandalwood, or of Tangara and Malika flowers. But the fragance of good people travels even against the wind, a good man pervades every quarter)(29)
Đặc biệt chúng ta nhận thấy rằng : Bất kỳ xã hội nào muốn phát triển và tồn tại lâu dài trong cuộc đời cần phải có những con người xã hội đứng đắn. Con người xã hội đứng đắn là con người hoàn hảo về ý thức đạo đức cá nhân với sự vắng mặt của tham sân si ở nội tâm . Sự tuân thủ giới luật không phải là một cái gông cùm áp đặt con người làm điều này không làm điều kia, nó chỉ giúp cho con người quay về với ý thức đạo đức cá nhân của chính họ và diệt tận mọi phiè⮠não khổ đau. Con người sống trong sự thực hành giới có nghĩa là sống trong ý thức đạo đức của chính mình vì thế, mục đích của giới trong Phật giáo là giáo dục con người trở thành người xã hội gương mẫu, người lý tưởng , và người hoàn hảo trong xã hội .
Vai trò của giới Phật giáo là làm cho con người giải thoát tất cả mọi ràng buộc ở đời cũng như cải tạo những hành vi bất thiện mà con người gây ra trong xã hội. Khi con người sống trong giới (Sìla) và thân tâm trở nên an tịnh không còn phiền não tham sân si, xã hô褐trở nên an bình, không còn những vấn đề sát sanh, trọm cắp, v.v.; hoặc xung đột, thù oán cũng như những vấn đề xuống cấp đạo đức cá nhân. Về quan điểm môi trường sinh thái, con người xã hội không những giữ gìn môi trường, cây cối, thảo mộc, đường xá sạch và xanh ; mà còn bảo vệ và chăm sóc chúng bằng ý thức đạo đức của chính mình. Kết quả là xã hội và môi trường sinh thái ngày càng phát triển và tồn tại lâu dài từ trong ánh mắt và trái tim của chúng ta. Đối với giáo dục, giới Phật giáo có một nền giáo dục tâm lý vượt hẳn trên nền giáo dục ở đời vì tính siêu việt của nó . Điều này có nghĩa là giới Phật giáo có một phương pháp giáo dục tuyệt vời diệt tận mọi phiền não hầu mang lại an lạc hạnh phúc tối thượng cho con người. Từ quan điểm này, vai trò của giới Phật giáo có sự đóng góp to lớn đói với sự phát triển xã hội hiện nay trong nhiều phương diện khác nhau.
Bên cạnh , vì tầm quan trọng về vai trò của giới (Sìla) trong giai đoạn hiện nay, người viết chỉ hy vọng rằng chúng ta nên có những công trình nghiên cứu rõ ràng về giới của Phật giáo qua hai quan điểm Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo, hoặc  nên có sự nghiên cứu nghiêm túc về Sìla dựa theo lời dạy nguyên thủy của đức Phật mà không dựa theo tư tưởng của các trường phái khi các nhà học giả Phật giáo muốn thực hiện công trình của mình . Tại sao? Vì mỗi trường phái đều có những khái niệm về Sìla riêng biệt và khác nhau;  do đó, nguyên từ của Sìla ngay càng xa rời với ý nghĩa nguồn gốc của nó , cũng như mất đi vai trò quan trọng của nó trong cuộc sống con người hiện nay.
Ta có thể nói: với tính uyển chuyển năng động và tích cực của việc thực hành Sìla, giới Phật giáo luôn thích nghi với mọi tình huống hoàn cảnh xã hội, và luôn hiện hữu trong cuộc đời như là một sự cần thiết của xã hội ngày nay. Có như vậy đạo Phật mới đứng vững và hiện hữu được lâu dài ở mọi thời gian và không bao giờ bị mai một, như lời phát biểu của cựu thủ tướng Srilanka Bandaranaike đã nhấn mạnh:
“Phật giáo sẽ trường tồn như mặt trời, mặt trăng và loài người hiện hữu trên mặt đất; vì Phật giáo là tôn giáo của con người, của nhân loại nói chung” (Buddhism will last as long as the sun and moon last and the human race exists upon the earth, for it is the religion of man, of humanity as a whole)(30).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA.SYDNEY.15/8/2014.