Monday 24 March 2014

BÀI THUYẾT PHÁP CỦA TỔ SƯ BỒ ĐỀ ĐẠT MA.

 







tosubodedatmaI. Vài nét về hành trạng của Đạt Ma Tổ Sư
Đức Bồ Đề Đạt Ma 菩提達磨 (Bodhidharma, đầu thế kỷ 6 Công nguyên), người Ấn Độ, là tổ thứ 28 của Thiền Ấn Độ. Tổ sang Trung Hoa để truyền Phật pháp của Thiền tông và trở thành Đệ Nhứt Tổ Thiền Trung Hoa. Ngài đến Trung Hoa vào năm 520, gặp Lương Võ Đế 梁武帝 hỏi đạo. Rất tiếc Ngài không có duyên với vua Lương nên không thuyết phục được vua vì hai vị quan điểm bất đồng, Vũ Đế quá thiên về thinh âm sắc tướng, xây cất chùa chiền, in kinh độ tăng, còn Tổ lại chuyên về Tâm.
Vì thấy không hóa độ được Lương Võ Đế và khó truyền Phật pháp đắc lực ở phương Nam nên Đức Đạt Ma Tổ Sư vượt sông Dương Tử, đi lên phương Bắc. Dừng chân tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi xoay mặt ngó vào vách, tham thiền chín năm (cửu niên diện bích 九年面壁). Tương truyền Ngài bỏ thế gian năm 529, để lại rất nhiều huyền thoại, như: Đạt Ma cỡi nhánh lau vượt sông Dương Tử, Đạt Ma quảy chiếc giày phi hành trên dãy núi Thống Lãnh, v.v.



II. Bất đồng quan điểm giữa Đạt Ma Tổ Sư và Lương Võ Đế
Chỗ bất đồng quan điểm giữa vua Lương và Tổ được Đức Lục Tổ Huệ Năng 六祖慧能 (638-713) giải thích trong Pháp Bửu Đàn Kinh 法寶壇經, phẩm Quyết Nghi.
Lương Võ Đế hỏi suốt đời nhà vua làm những việc cất chùa, cúng tăng, bố thí, v.v. như vậy có công đức chi không.
Tổ sư nói: Thật không có công đức.
Theo tôn ý của Tổ, vua Lương Võ Đế thực hành hạnh bố thí 布施, hạnh đứng đầu của sáu phép Ba La Mật 波羅蜜, là tạo nhân phước để hưởng quả phước ở thiên nhân mà thôi, tuyệt nhiên không phải là chơn công đức vô lậu giải thoát.
Theo Kim Cang Kinh 金剛經, bố thí trụ tướng chẳng khác chi vào chỗ tối, không trông thấy chi cả. Trái lại bố thí ly tướng ví như có được mắt sáng lại còn nhờ thêm ánh mặt trời chiếu soi tỏ rạng, trông thấy rõ rệt các vật. Vua Lương Võ Đế bố thí nhưng còn vọng tâm trụ tướng, không khế hợp với pháp “tam luận thể không” của Phật. Pháp tam luận thể không gồm có ba điều dưới đây :
1. Không nghĩ mình là người năng thí.
2. Không nghĩ người nhận là kẻ thọ thí.
3. Không nghĩ vật đưa ra là vật sở thí.
Vua Lương Võ Đế hành bố thí như vậy là việc tạo nhân phước để hưởng quả phước ở thiên nhân mà thôi. Bậc bồ tát bố thí không bao giờ trụ trước nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, tức là lìa tất cả tướng và hành đúng theo “Tam luận thể không” nên phước báu cao cả không thể suy lường được.
Đạo Đức Kinh 道德經 của Đức Lão Tử cũng dạy (chương 38: Thiên hạ): “Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.” 上德不德, 是以有德; 下德不失德, 是以無德. Có nghĩa là người đức cao không có ý cầu cái đức cho nên có đức; người đức thấp thì chấp cái đức của mình tạo ra, nên không có công đức. Như vậy lời nói của Đức Lão Tử không khác “tam luật thể không” của Đức Phật.


III. Đạt Ma Huyết Mạch Luận
Tổ Sư rời bỏ vua Lương ra đi sau khi đã thuyết pháp tại triều đình mười chín ngày. Bài pháp này rất danh tiếng, ngày nay còn lưu truyền với tên gọi là Đạt Ma Huyết Mạch Luận 達磨血脈論. Về cơ bản, bài pháp gồm chín mục như sau: (1) Bản chất của tâm; (2) Phương thức; (3) Phật Tánh; (4) Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận; (7) Vô minh; (8) Giác ngộ; (9) Phật là gì?
1. Bản chất của tâm
Tâm là Phật, không có Phật ở ngoài tâm. Tâm của mỗi người đồng điệu, tương ứng với thực tại muôn đời, với thực tại muôn nơi. Ngoài thực tại của tâm thì tất cả chỉ là huyễn tượng, chẳng có nhơn, chẳng có duyên, chẳng có lý do, chẳng có kết quả, chỉ có hành duy nhứt, đó là tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là niết bàn.
Tâm là Phật, Phật chính là tâm. Đi tìm một sự vật ngoài tâm mình là muôn bắt sự trống không. Tưởng tượng Phật lấy ở ngoài tâm, hình dung Phật ở bên ngoài chính là mê sảng.
2. Phương thức
Vậy thì phải tìm vào trong chứ không nhìn bên ngoài. Phải tự lắng mình vào mình và tự nhìn thấy Phật Tánh ở nơi chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình, không có thiện, không có ác, mà chỉ có động tác của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích gì sự cúng kiến, sự hoằng pháp nhiệt thành, giữ giới bố thí, cầu kinh và tất cả những thứ khác chỉ cần một điều duy nhứt: nhìn thấy Phật ở nơi mình. Sự nhìn thấy ấy sẽ đưa đến giải thoát và là niết bàn.
3. Phật Tánh
Không có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ một sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Sự học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có một quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. trong sự an tĩnh vô vi hoàn toàn hãy kiếm ở nơi mình, nơi chính mình. Đó mới đúng là Phật. Hãy nhìn Phật nơi mình, đó mới là sự nhìn thấy chơn thật duy nhứt mà thôi. Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù ảo ảnh. Chỉ có một tội duy nhứt, là tội vô minh, tội không nhận được thấy ra được Phật Tánh ở nơi chính mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường phù du. Ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá lại hình bóng của mình.
4. Pháp Thân
Pháp Thân nầy đã có vĩnh cửu. Trải qua những luân hồi thăng trầm của những kiếp, Pháp Thân vẫn vô sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến, không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không ừ, không không, v.v.
Pháp Thân không một, mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng không phàm. Pháp Thân thung dung trong những kiếp liên tiếp, trong dòng sinh tử. Chính Pháp Thân nầy mà ta phải nhìn lại nơi chính mình ta phải di động và hành động. Pháp Thân chính là thần năng nhập thạch, thần năng phi hình, nhập thủy bất nịch, nhập hỏa bất phần [xuống nước không chìm, vào lửa không cháy] trong ánh sáng của tâm. Ta không thể diễn tả Pháp Thân nầy bằng lời nói. Ngoài những tên khác, ta còn gọi Pháp Thân là thánh thể (Phật Tánh, Chơn Tâm).
5. Tĩnh tâm
Tất cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư ảo, giả tạm chẳng có gì thật ngoài ra Pháp Thân. Vô ích nguyện cầu, vô ích sùng bái những gì mà chính là mình, chỉ nên làm sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm mà thôi. Chính những cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân nơi mình, tức là Phật chính những biểu tượng vật chất là sai lầm. chính sự sai lầm ấy sẽ giữ ta lại, hoặc đưa ta vào vòng luân hồi tái sanh. Hãy bỏ đi những giả tưởng về thần thánh linh thiêng vì đó chính là ảo tưởng phù phiếm.
6. Thiền luận
Không có những gì hơn những ý tưởng vô hình của tâm thoát ra từ Phật Tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là Pháp Thân ở nơi ta. Phật có ý nghĩa là giác ngộ hay linh giác mà mọi người có thể đạt được. Sự giác ngộ chính là Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng gì cả. Đối với ta chỉ đạt đến Thiền là khi ta thấy được Phật Tánh, mà không kiến tánh thì chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường.
Ta có thể nói với những môn đồ của ta như vầy: Các ngươi phải đạt đến Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp Thân, là thánh thể ở nơi chính các ngươi.
Không thể nào diễn tả được bởi vì không thể nói ra được, cho nên tất cả kinh luận đều vô ích.
Con người sẽ được giải thoát khi nào họ đã phủ nhận tất cả những bóng ma và những sai lầm ấy, khi họ chỉ gắn liền với Phật Tánh của họ. Giây phút giác ngộ nầy, giải thoát nầy, mỗi người hãy tự đi đến với chính mình, giáo lý chỉ có thể giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo lý không thể tạo ra sự giác ngộ. Lãnh hội được Phật Tánh nơi chính mình, lại không thể học được Pháp Thân rất giản dị, ta không thể tạo ra được,ta chỉ lãnh hội được.
Đối với kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh, thì không cần đến thiên đàng hay cũng không còn sợ vào địa ngục, không còn có mình, không còn có kẻ khác, không còn gì cả ở bên ngoài.
Vậy thì, việc lãnh hội Pháp Thân là một việc của đức tin tuyệt đối, không còn bị pha lẫn bóng tối của ngờ vực.
7. Vô minh
Kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh thì không còn tạo nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động nào, bởi vì kẻ ấy đã được giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những kẻ nào chưa giác ngộ vì kẻ ấy đang còn ở trong vòng ngu tối vô minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai luân hồi ở địa ngục, làm thú và làm người. Bực giác ngộ không làm nên tội lỗi nữa và cũng không phạm tội nữa.
8. Giác ngộ
Những kinh kệ, những sự tu khổ hạnh, những công trình nghiên cứu, học hành chẳng có lợi ích gì cả, còn việc kiến tánh ta không thể nào học được. Tại sao có người đã chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm đứng đắn, thế mà vẫn không đạt đến được? Bởi vì nghiệp của họ chống đối lại, vì họ chưa trả hết nợ, họ chưa đủ trong sạch để đến giác ngộ. Sự hôn mê mù quáng, sự sai lầm, sự chai cứng, sự bất lực của họ là những hình phạt về những tội lỗi của họ trong quá khứ.
9. Phật là gì?
Phật ở trong tâm của mỗi người, giữ giới luật tu khổ hạnh, cầu kinh, học vấn, nghĩa lý, tất cả những việc này chẳng dùng được việc gì cả. Mục đích duy nhứt mà mỗi người cần phải đạt đến là sự giác ngộ. Khi nào đã đến sự giác ngộ là một vị Phật. Một vị Phật với tất cả chư Phật, dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào hết.
Là Phật, nghĩa là thấy được Phật Tánh nơi chính mình, nơi tâm mình, bản thể vô hình và không rờ mó được mong manh như hư không. Tâm ấy mỗi người đều mang trong mình.
Tâm ơi hỡi tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả thế giới, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được. Hỡi tâm của ta, mi là Phật, mi chính là mi, ta phải qua Trung Hoa để truyền đạo lý.


IV. Góp ý của người sưu tập
Đức Đạt Ma Tổ Sư, do theo truyền thống của Tổ Sư Thích Ca Mâu Ni, truyền dạy giáo lý Phật giáo cho chư môn đồ các Ngài là không nên ỷ lại nơi tha lực với sự hộ trì của các đấng thiêng liêng vô hình trong việc tìm kiếm sự giác ngộ để cầu giải thoát cho chính mình, mà phải tự lực tìm kiếm lấy. Đó thuộc về Nhị Kỳ Phổ Độ với Đức Phật Thích Ca.
Ngày nay, chúng ta ở vào thời kỳ mạt kiếp, nhơn loại vì nhiễm văn minh vật chất thậm đa nên còn đọa lạc trầm luân rất nhiều ở trần gian. Vì từ bi thương xót chúng sanh, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở Tam Kỳ Phổ Độ, ban đại ân xá cho nhơn loại. Nếu quyết tâm tu hành chánh đạo, sẽ dễ dàng giải thoát luân hồi vì chính Đức Chí Tôn giáng trần bằng huyền linh diệu điển, đổ thần để dìu dắt nhơn loại tỉnh giấc mê để phản bổn huờn nguyên phục hồi vị cũ ngôi xưa ở Thiên Đình. Đó là tu nhứt kiếp thì ngộ nhứt thời.
Tín đồ của Tam Kỳ Phổ Độ rất tin tưởng sự trợ lực hộ trì của các đấng thiêng liêng vô hình, vì chủ trương của Cao Đài là Thiên Nhân Hiệp Nhứt, hai cõi hữu vô đều trợ lực lẫn nhau, có thiêng linh diệu điển qua cơ bút, do các đấng giáng lâm chỉ dạy môn sanh tu học và hành đạo. Ơn Trên thường bảo rằng Đạo vô vi, sư vô vi là vậy. Đó là đặc ân của Cao Đài Đại Đạo.
Đức Đạt Ma Tổ Sư dạy phải tự mình kiếm cho được Pháp Thân (hay Phật Tánh, Chơn Tâm) nơi chính mình thì mới giác ngộ, nhập niết bàn được. Đây là một việc làm cốt yếu, dầu ở bất kỳ thời kỳ nào. Đức Chí Tôn Thượng Đế dạy “Các con hãy tìm Thầy trong các con và các con trong Thầy” cũng cùng một lý đạo.
Đức Quan Thế Âm có dạy (15-6 Giáp Dần, 02-8-1974): “Người tu hành học đạo là tìm cái tâm minh linh đã ẩn tàng hằng tính của Thượng Đế giáng trung. Người muốn tìm lại, trước phải yên lặng để trau dồi gột rửa những lớp tham sân si dục đang dầy đặc theo những bức vô minh để thấy được đạo tài thành của thiên địa. Người noi theo đạo ấy tức là hòa hợp theo thiên lý phục hồi bổn thể chơn như vậy.”HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.25/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
“ Bí Quyết “ Thu hút người nghe khi thuyết trình.


Quần áo, dáng đi, nét mặt, cử chỉ… sẽ gây ấn tượng đầu tiên khi bạn bước vào phòng. Do đó, cách bạn thể hiện khi thuyết trình là điều vô cùng quan trọng. Những chiến lược về việc sử dụng ngôn ngữ cơ thể sau đây sẽ giúp bạn thể hiện mình một cách hiệu quả.·       







     Vị trí cơ thể :

 Đừng đứng ngay trước màn hình và che khuất biểu đồ, sơ đồ, tranh ảnh, các công cụ nghe nhìn phục vụ quá trình thuyết trìnhcủa bạn.
Hãy đứng bên cạnh bảng hoặc màn hình, bạn có thể chỉ tay hoặc dùng que chỉ hoặc di chuột để tập trung sự chú ý của khán giả vào những điểm quan trọng.
 Khi nói, hãy hướng vào phía khán giả, đừng nói chuyện với màn hình hoặc sơ đồ trên bảng.
 Đừng giấu mình đằng sau chiếc bục hoặc bàn hay ngồi một nơi mà người nghe không thể nhìn thấy hoặc nghe thấy bạn.

·         Tư thế :

Hãy đứng thẳng với tư thế chân rộng bằng vai, đầu gối xuôi một cách tự nhiên khi bạn không đi lại trong phòng.
Tư thế đứng này sẽ giúp bạn trông tự tin, thư giãn và có quyền lực.
 Bạn nên tỏ ra thoải mái và không lúng túng, hãy luyện tập vài lần để có được cảm giác đó.

·         Chuyển động
Hãy tỏ ra thật sinh động khi thuyết trình.
Hãy chuyển động một chút, ngay cả khi bạn phải đứng trên bục hoặc bên cạnh chiếc máy chiếu.
Đừng đi lang thang hay làm điều gì kỳ quặc như chạy nhảy, lắc người, đi nhanh hoặc những hành động gây ra sự xao lãng không cần thiết.

·   Cử chỉ

Hãy đưa ra những cử chỉ thật tự nhiên nhưng đừng máy móc quá.
Hãy thận trọng, đừng đưa ra những cử chỉ có thể bị xem là mất lịch sự hoặc gây khó chịu về mặt văn hóa. Chẳng hạn, đối với khán giả người Nhật, dấu hiệu “O.K” mà người Mỹ hay dùng tay ra hiệu lại mang ý nghĩa không tốt.

·         Nét mặt

Hãy dùng nét mặt để thể hiện sự quan tâm, lòng nhiệt tình, sự thấu cảm và sự hiểu biết của bạn.
Những biểu hiện thích hợp sẽ giúp bạn trở nên đáng tin cậy hơn đối với người nghe.
Hãy thành thật! Tốt nhất bạn nên tự kiểm tra trước gương trước khi thực hành nét mặt.
Hãy thường xuyên mỉm cười một cách tự nhiên.

·         Giao tiếp qua ánh mắt


Thường xuyên nhìn khán giả sẽ giúp cảm thấy họ không phải người thừa.
Hãy dừng lại vài giây nhìn một người nào đó trước khi đưa ánh mắt đến một người khác.
Nếu thời gian giao tiếp qua ánh mắt kéo dài hơn từ 3-5 giây, người nghe sẽ cảm thấy không thoải mái.
Khi khán giả không nhìn bạn nữa, đó sẽ là dấu hiệu đầu tiên cho biết họ không còn lắng nghe bạn.
Trên đây là một vài lời khuyên về việc sử dụng ngôn ngữ cơ thể khi thuyết trình. Hãy vận dụng chúng ngay trong buổi thuyết trình sắp tới của bạn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.25/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
NÓI CHUYỆN TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG - Public speaking



Chào các bạn!
Nóichuyện trước đám đông (public speaking) là một kỹ năng rất tốt để có. Nó có thể giúp ta rất nhiều trong những công việc liên hệ đến nhiều người, và trong một số công việc thì đó là kỹ năng cần thiết. Tuy nhiên, nếu ta chưa từng nói trướcđám đông, thì cũng thực là khó, phải không các bạn? Hôm nay mình sẽ nói về kỹnăng này một tí, đặc biệt là cho các bạn chưa quen việc này.
Nếu bạn phải nói chuyện trước một đám người là run lẩy bẩy, và quên hết ngôn ngữ, nói không ra tiếng, thì cũng không sao. Đó chỉ là phản ứng tự nhiên thôi. Khi ta sợ, adrenaline bơm vào máu rất mạnh và sinh ra đủ loại phản ứng tâm sinh l‎y’, cũng như nhiều người thấy trộm vào nhà thì đơ lưỡi. Chỉ cần luyện tập một thời gian thì quen thôi.
Trước hết, hãy ghi nhớ một vài quy luật căn bản này nhé:

1. Càng quen thì càng dễ nói.

 Nếu mình biết và hiểu đa số khán giả, thì dễ hơn là nói với một nhóm khán giả lạ hoắc. Nếu mình quen thuộc với chỗ mình nói (hội trường, phòng họp, v.v…) thì càng dễ nói.

2. Càng nắm vững vấn đề thì càng dễ nói. 

Nếu mình đã làm khoảng vài ngàn cái bánh xèo rồi, thì nói về bánh xèo dễ hơn là mới làm chỉ 2 cái trong đời và phần còn lại là chỉ đọc trên Internet 

3. Môi trường càng thoải mái thì càng dễ nói.

 Nếu căn phòng nóng quá, lạnh quá, ồn quá, hay ánh sáng của đèn quay phim cứ rọi thẳng vào mắt mình, thì làm cho công việc mình khó khăn hơn nhiều.

4. “Nói trước công chúng” không phải là “đọc trước công chúng.”

Bây giờ bạn bắt đầu thực tập nhé.
Thực tập hiệu quả là phải có một nhóm bạn tập chung với mình, như vậy thì mới có “đám đông” để thực tập. Cho nên nếu vài bạn thành lập một Public Speaking Club cũng là việc nên khởi đầu.
• Các buổi đầu tiên nên rất dễ dàng, và chỉ nên nói về những gì có sẵn trong đầu thôi. Ví dụ: Mọi người ngồi vòng tròn, rồi thay phiên nhau mỗi người nói về những việc đã làm trong ngày chủ nhật vừa qua.
• Đến mức cao hơn, thì đứng cao hơn khán giả, và xa khán giả, nhưng sau một cái bục, hay cái bàn nhỏ, để mình không bị thừa thải tay chân. Nói về vấn đề nào đó đòi hỏi một tí chuẩn bị và sắp xếp, như dạy mọi người làm bánh xèo, hay trìnhbày trận Điện Biên Phủ.
Lúc này bạn sẽ cần một vài “ghi chú” để nhớ mọi chi tiết phải nói. Các ghi chú này chỉ nên viết rất sơ sài, như một dàn bài nhỏ. Lúc nói mang theo cây bút và dàn bài, nói xong mục nào dùng cây bút đánh dấu mục đó.
• Một cách thực tập khác cũng dễ và hay là nói về những tấm hình bạn chụp. Nếu có máy projector rọi hình lên tường, bạn cầm cây thước chỉ và giải thích về các tấm hình cho mọi người.
• Tập “phát âm với hùng lực”: Viết một câu ngắn, đứng xa khán giả khoảng mười mấy hai chục thước, và đọc câu đó rất to để mọi người đều có thể nghe rõ được.
Cứ tập như vậy thì cũng phải tốn một mớ thời gian rồi. Còn nhiều kỹ thuật và nghệ thuật khác, hãy tham gia khóa học Kỹ năng thuyết trình chuyên nghiệp của S-WAY VIỆT NAM, để được hướng dẫn, trao đổi và huấn luyện cùng các chuyên gia giao tiếp, thuyết trình hàng đầu Việt Nam!

HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.25/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Saturday 22 March 2014

8 bí quyết lấy lại sự tự tin.

Tự tin không phải là đặc tính bẩm sinh của con nguời. Những lời khuyên sau đây sẽ giúp bạn thành công hơn trong việc đối mặt với người khác và hoàn thành tốt những công việc mà bạn đảm nhận.


1. Không nên lảng tránh cái nhìn của người khác

Rất nhiều lần, khi người nào đó hướng ánh mắt về phía bạn, bạn sẽ lập tức nhìn xuống hoặc quay đầu đi nơi khác. Hãy thôi đừng lảng tránh cái nhìn của người khác nữa! Người ta giao tiếp với nhau đâu chỉ bằng lời nói, cảm xúc của cả bạn và người đối thoại đều rất quan trọng. Tất nhiên đừng làm điều gì quá quắt và cũng đừng tìm mọi cách nhìn chòng chọc vào mặt người nói chuyện với mình.

2. Biến nỗi sợ thành hành động

Bạn thường tỏ ra hoảng loạn khi rơi vào tình huống mới. Đừng tiêu phí toàn bộ năng lượng và suy nghĩ của mình vào việc che giấu nỗi sợ hãi. Trái lại, hãy biến nó thành hành động: hãy trò chuyện, chủ động giao tiếp với những người khác…

3. Thiết lập quan hệ

Rất có thể, đối với bạn việc bắt chuyện với một người không quen biết hoặc thậm chí cả với người hàng xóm của mình cũng là điều hết sức khó khăn. Hãy tự nhủ rằng tất cả mọi người đều bồn chồn lo lắng khi phải tiếp cận những người lạ. Hãy buộc mình phải chủ động thiết lập mối quan hệ, thay vì liên tục lẩn tránh nó. Điều này sẽ khiến bạn cảm thấy yên tâm hơn và dễ dàng tìm được phương thức tốt nhất để nuôi dưỡng mối quan hệ này.

4. Lao mình xuống nước

Đừng ngại khám phá những môi trường mới và gặt hái những trải nghiệm mới. Dần dần, bạn sẽ có được khả năng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh mới.

5. Tôi là người tuyệt vời nhất

Hãy nhắc đi nhắc lại "Tôi có thể làm được điều này!" hoặc "Tôi là người tuyệt vời nhất!". Những suy nghĩ tích cực như vậy thường mang lại kết quả tốt với rất ít rủi ro.

6. Mạnh dạn khẳng định mình

Tất nhiên, nói thật to chưa hẳn là một biểu hiện của cảm giác tự tin, nhưng điều này sẽ giúp khẳng định lại niềm tin của bạn. Thế chẳng tốt hơn là bạn cứ lí nhí trong mồm và lấy tay che miệng sao? Nhớ nhìn thẳng vào mắt người đối thoại với bạn.

7. Đừng chọn những mục tiêu không thực tế

Sự thiếu tự tin bắt nguồn từ cảm giác thường xuyên thất bại? Vậy thì đừng chọn cho mình hoặc chấp nhận những mục tiêu không khả thi! Một trong những bí quyết then chốt của lòng tự tin chính là chủ nghĩa thực tế: Bạn cần biết rõ các khả năng cũng như những hạn chế của chính mình. Hãy chia nhỏ mục tiêu thành những giai đoạn chuyển tiếp nhỏ. Thành công trong những bước này sẽ giúp bạn hoàn thành mục tiêu cuối cùng, với điều kiện là nó nằm trong khuôn khổ của sự hợp lý.

8. Hoàn thiện mình

Bao giờ cũng vậy, để hạn chế thất bại, bạn phải biết rõ các lỗi lầm của mình. Hãy phân tích chính xác nguyên nhân gây ra những sai lầm trong quá khứ, cả trong sự nghiệp cũng trong đời sống riêng tư. Và để tránh lặp lại những chuyện không hay, bạn chỉ có một cách là hoàn thiện mình!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Những điều chưa biết về "lòng tự trọng" của bạn.

Có thể hiểu lòng tự trọng là những quan điểm, suy nghĩ của bạn về chính bản thân mình dựa trên thái độ của bạn đối với:

- Giá trị bản thân.
- Công việc bạn đang làm.
- Những thành tựu bạn đạt được.
- Suy nghĩ của bạn về người khác.
- Lý tưởng sống.
- Vị trí của bạn.
- Những điều bạn có thể đạt được trong tương lai.
- Điểm mạnh và điểm yếu của bạn.
- Địa vị xã hội và mối quan hệ của bạn với mọi người.
- Sự tự lập hay khả năng đứng vững trên đôi chân của mình.



Thế nào là lòng tự trọng thấp?

Lòng tự trọng thấp xuất phát từ việc bạn thiếu thái độ tích cực về một trong những điều trên đối với chính mình. Chẳng hạn: bạn không đánh giá cao công việc mà bạn đang làm hay bạn cảm thấy sống không có mục đích và lí tưởng.


Thế nào là lòng tự trọng cao?

Tự trọng cao thì ngược lại, Đó là một nhân tố tất yếu trong cuộc sống của bạn. Một khi biết tôn trọng bản thân, bạn sẽ cảm thấy tự tin, hạnh phúc và vững tin vào chính mình. Không những thế, đó còn là động lực mạnh mẽ cho bạn tiến bước và gặt hái thành công. Chính vì thế lòng tự trọng là một nhân tố quan trọng và là nền tảng định hình thái độ lạc quan của bạn về cuộc sống.

Người thiếu lòng tự trọng luôn dựa vào những điều họ đang làm trong hiện tại để nhìn nhận, đánh giá mình. Họ luôn cần những kinh nghiệm từng trải để dung hòa những cảm giác và suy nghĩ tiêu cực, những điều luôn ám ảnh họ. Và thậm chí, cảm xúc vui vẻ thì cũng chỉ là nhất thời.

Người biết tôn trọng bản thân luôn có khả năng nhận xét, đánh giá mình một cách chính xác trong bất cứ trường hợp nào. Điều này có nghĩa họ luôn biết rõ đâu là điểm mạnh, điểm yếu của mình, đồng thời thừa nhận giá trị bản thân mà không cần điều kiện.


Lòng tự trọng có từ đâu?

Lòng tự trọng hình thành và phát triển trong suốt cuộc sống khi chúng ta hình thành trong đầu hình tượng về chính mình bằng những trải nghiệm với mọi người và hoạt động xung quanh chúng ta. Những trải nghiệm trong thời thơ ấu đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên lòng tự trọng. Khi lớn lên, thành công hay thất bại, ngay cả cách đối xử của gia đình, bạn bè, thầy cô đối với bạn… đều tác động trực tiếp và góp phần hình thành nên lòng tự trọng của mỗi người.


Lòng tự trọng chủ yếu được phát triển trong thời thơ ấu

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành lòng tự trọng của trẻ: trẻ được khen thưởng; được lắng nghe; được người khác tôn trọng khi giao tiếp trò chuyện; sự quan tâm, âu yếm của gia đình, và thành công trong học tập hay vui chơi thể thao. Một yếu tố không thể thiếu là đó là một người bạn đáng tin cậy.


Sự thiếu lòng tự trọng

Những trải nghiệm trong thời thơ ấu có thể dẫn đến sự thiếu lòng tự trọng của trẻ, bao gồm: bị chỉ trích gay gắt, thậm tệ; bị la mắng đánh đập hoặc không được quan tâm chăm sóc; bị người khác nhạo báng, chế giễu, đùa cợt…, gia đình đòi hỏi trẻ phải luôn tốt về mọi mặt. Đồng thời sự thất bại trong học tập, thể thao cũng là yếu tố dẫn đến thái độ tiêu cực của trẻ đối với bản thân.

Mọi người cho rằng, những người thiếu tự trọng, một khi đã thất bại trong lĩnh vực học tập, vui chơi… cũng có nghĩa là hoàn toàn thất bại về tất cả.


Nội tâm của bạn nói lên điều gì? (tiếng lòng)

1. Những kinh nghiệm, điều từng trải của bạn mặc dù ít khi được nghĩ đến nhưng vẫn tồn tại và dần trở thành lời nói nội tâm của bạn.

2. Mỗi người có "cách lắng nghe” tiếng lòng mình khác nhau nhưng nó diễn tả cùng một nội dung, lặp lại những thông điệp ban đầu..

Đối với người có lòng tự cao, lời nói của họ luôn khách quan và làm yên lòng người khác. Nhưng người thiếu tự trọng thì ngược lại, lời nói nội tâm của họ sẽ trở thành những lời chỉ trích cay độc đoán, lời phê bình hay thậm chí làm giảm uy tín, giá trị của những điều họ đạt được.

Ba kiểu người thiếu lòng tự trọng : Hầu hết chúng ta đều có ý niệm về sự thiếu lòng tự trọng, nhưng để nhận ra nó thì không dễ tý nào. Thông thường, người thiếu tự trọng thuộc 3 loại người sau đây:

1. Kẻ lừa đảo: Bề ngoài họ tỏ vẻ hạnh phúc, thành công nhưng bên trong họ luôn sợ hãi vì những thất bại của mình. Họ cần sự thành đạt để che dấu sự tự cao giả tạo và điều này biến họ thành kẻ luôn cầu toàn, do dự và thích ganh đua.

2. Kẻ nổi loạn: Cố gắng chứng minh mình có quan điểm, thiện chí như bao người khác, đặc biệt là những người có vai vế, quyền lực; cuộc sống đầy những bực bội vì cảm giác "chưa đủ". Đối với họ, những lời phán xét hay chỉ trích của người khác không làm tổn thương họ, do đó họ trở thành kẻ chỉ trích người khác quá đáng, vi phạm luật thậm chí muốn chống đối kịch liệt.

3. Kẻ bại trận: Hành động một cách ngớ ngẩn, vô ích để chống lại mọi thứ rồi chờ người khác đến giải cứu; tỏ vẻ đáng thương hại hay vẻ thờ ơ nhằm trốn tránh trách nhiệm thay đổi cuộc sống chính mình; luôn luôn trông chờ vào sự hướng dẫn của người khác do đó trở thành người thiếu quyết đoán, khó thành đạt và hay ỷ lại.


Hậu quả của việc thiếu lòng tự trọng

Thiếu lòng tự trọng có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng sau :

1. Luôn cảm thấy cố đơn, lo lắng, căng thẳng và nguy cơ mắc chứng trầm cảm cao.

2. Gặp rắc rối với bạn bè cũng như trong các quan hệ khác.

3. Giảm sức học và hiệu quả làm việc.

4. Dễ thất bại và dễ bị tổ thương do nghiện rượu và thuốc lá.

5. Tệ nhất là, những hậu quả này khiến họ trở nên mặc cảm với bản thân, tinh thần ngày càng sa sút, thậm chí có hành vi gây hại đến cả bản thân mình.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT. ( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Nói đúng và hiệu quả.


Hãy nghĩ về lần cuối cùng bạn đối mặt với những tình huống mà ở đó bạn phải đứng dậy vì bản thân mình, yêu cầu thứ mà bạn cần. Với phụ nữ, việc nói ra yêu cầu, mong muốn thực sự của mình thường khó khăn hơn nam giới. Trong con mắt của xã hội, chúng ta đã quen được nhìn với những đức tính như nhu mì, nhẫn nhịn. Điều này có thể để lại hậu quả lâu dài, từ mối quan hệ nghèo nàn đến việc một sự nghiệp tầm tầm, ít được đề bạt.


HÃY KIỂM TRA XEM BẠN CÓ MẮC PHẢI NHỮNG THÓI QUEN SAU ĐÂY KHÔNG?


1. Quá cẩn trọng trong lời yêu cầu

Chúng ta thường khiến câu hỏi trở nên nhẹ nhàng hơn với những từ như "có lẽ", "ước gì" thay cho "tôi cần", "tôi muốn". Điều này làm cho câu nói của bạn có vẻ dễ nghe hơn nhưng cũng có thể gây "mập mờ" giữa lời đề nghị hay gợi ý, do đó người nghe có thể tiếp nhận nó một cách ít nghiêm túc hơn.

2. Hỏi thay vì nói rõ

Hãy cẩn thận khi chuyển lời tuyên bố của mình thành dạng câu hỏi kiểu như "Màu sắc đó thật tuyệt, phải không?" hay câu "cậu có nghĩ chúng ta nên thử một chút với món hàng đó không?". Những kiểu như vậy làm cho ý đồ của bạn trở nên không rõ ràng. Người nghe có thể sẽ hiểu bạn đang hỏi và không chần chừ gì đưa ra câu trả lời đối nghịch những gì bạn mong muốn.

3. Miễn cưỡng chấp nhận

Khi gặp một câu trả lời đối nghịch những gì bạn mong muốn, một số người lập tức "bỏ cuộc". Tuy nhiên tự nhận thức của bạn về câu trả lời có thể không chính xác. Nếu bạn gặp một câu trả lời như vậy, điều quan trọng là phải nhắc lại mong muốn của mình và yêu cầu thỏa hiệp. Thực ra, mọi người nói chung hoàn toàn thoải mái với một thỏa hiệp lành mạnh.

4. Không biết cách điều khiển ngôn ngữ, cử chỉ

Bạn có thể phát biểu không tồi nguyện vọng của mình nhưng hãy xem liệu ánh mắt, cử chỉ của bạn có nói lên những điều gì khác không.

Theo thống kế: chỉ khoảng 23% giá trị lời nói của bạn nằm ở thông điệp. Hơn 70% còn lại nằm trong giọng nói, điệu bộ, ánh mắt và chắc chắn người nghe đang quan sát bạn rất kỹ. Những nét biểu hiện trên khuôn mặt, thói quen áy náy, bồn chồn như vặn tay, cắn móng tay sẽ "mách lẻo" rằng điều bạn đang nói không phải là những gì bạn thực sự muốn.


KHẮC PHỤC BẰNG CÁCH NÀO?


1. Tự tìm hiểu rõ xem mình muốn gì và tại sao?

Việc biết rõ nhu cầu và mong muốn của mình, tầm quan trọng của chúng khiến bạn tạo ra kết quả khả quan. Hãy đánh giá cả nhu cầu của người khác và thử suy nghĩ về biện pháp có thể thỏa mãn cả hai bên.

2. Lường trước những câu trả lời có thể

Điều này dễ dàng hơn nếu bạn bếit người nghe. Hãy dự tính hàng loạt những câu trả lời bạn có thể nhận được và loại trừ từng cái. Chuẩn bị kỹ lưỡng cho từng trường hợp, bạn sẽ nói thế nào, cử chỉ ra sao. Điều này giúp bạn tránh tình trạng rơi vào tình thế bất ngờ và bị động.

3. Thư giãn

Thông thường chúng ta đánh giá quá cao khả năng phủ định. Điều này gây nên sự sợ hãi và khiến việc nói ra những gì mình mong muốn trở nên khó khăn hơn. Thực ra, điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là khi yêu cầu của bạn bị từ chối và khi đó, chúng ta tìm một biện pháp khác, vậy thôi.

4. Nói lên yêu cầu

Một khi bạn đã nhắc lại và thư giãn thì còn chần chờ gì nữa mà không tới bên “đối tượng” và nói ra mong muốn của bạn?

5. Đánh giá

Khi việc trao đổi của bạn đã hoàn thành, hãy dành một chút thời gian để đánh giá, rút kinh nghiệm cho lần sau. Hãy xem liệu nó có thể tốt hơn không, bạn đã thành công ở điểm nào? Đừng tự hành hạ mình nếu kết quả diễn ra không được như ý muốn. Thay vào đó, hãy tìm những cách khác để thực hiện mong muốn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Bí quyết nói chuyện trước đám đông.

Phần lớn mọi người xem việc phải nói chuyện trước đám đông là nỗi sợ hãi kinh khủng nhất. Nỗi sợ đó còn hơn cả sợ rắn, sợ đi máy bay, hoặc ngay cả sợ cái chết. Nhưng chúng ta không thể trốn tránh nó mãi. Nhiều người trong chúng ta có thể được mời ra trình bày một báo cáo, phát biểu trong buổi họp phụ huynh học sinh, nói lời chúc mừng trong lễ cưới. Làm sao để bạn có thể vượt qua những thử thách đó. Thật đơn giản chỉ với một chút thời gian luyện tập.

- Quy tắc quan trọng nhất trong việc nói chuyện trước đám đông là bạn phải biết mình nói gì. Điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng thông thường các “diễn giả” không hề có một ý niệm rõ ràng về những gì họ truyền đạt đến người nghe. Bạn cần phải biết chính xác bạn sẽ đưa người nghe đến đâu. Một khi đã biết, hãy liệt kê nó thành 3 hay 4 điểm chính và soạn bài nói của mình tập trung vào những điểm này thôi. Bạn không phải là một cuốn từ điển sống, việc đưa ra quá nhiều thông tin hay không đủ thông tin cũng đều dở như nhau.

- Thực hành, nhưng không cần quá nhiều: Liệt kê ra những gì bạn sẽ nói và tập nói 1 hay 2 lần. Sẽ rất hay nếu như bạn canh thời gian trong khi tập, việc đó sẽ giúp bạn kiểm soát được thời gian nói mà không sợ bị lố. Có thể sẽ có những phút ngẫu hứng tình cờ xảy ra làm bạn bất ngờ và làm khán giả thích thú. Bạn sẽ không còn muốn xuất hiện trước đám đông nếu bạn đã nói về một đề tài cả ngàn lần rồi, bạn sẽ cảm thấy chán và chẳng thèm để ý tới khán giả nữa. Bạn cũng nên lập kế hoạch sẽ mặc những gì. Chú ý rằng đó phải là bộ đồ mà bạn cảm thấy thoải mái khi mặc vào. Và điều quan trọng nhất, đó phải là bộ đồ mà bạn biết sẽ làm mình nổi bật. Quyết định trước việc mình sẽ mặc gì trong ngày diễn thuyết sẽ làm bạn bớt lo lắng hơn.

- Hãy là chính mình! Nhiều người cảm thấy cần phải rập khuôn theo phong cách của ai đó khi nói trước đám đông, đó là vì họ cảm thấy họ không đủ tự tin để lôi cuốn sự chú ý của khán giả. Một số cảm thấy bị “khớp” và nghiêm túc quá mức và quên rằng tính hài hước cũng là một công cụ quan trọng của diễn giả. Đừng nên chỉ tập trung vào vấn đề chính, đôi khi những giai thoại cá nhân hay những mẩu chuyện nhỏ cũng là một cách rất tốt để hòa nhập với khán giả.

- Khán giả là bạn bè! Khán giả luôn ở đó, bởi vì họ quan tâm tới những gì bạn sẽ nói và muốn nghe bạn nói về vấn đề đó. Họ muốn bạn phải làm tốt. Đừng nghĩ khán giả như là một khối người thù địch, hãy xem họ chỉ là một nhóm cá nhân riêng lẻ. Hãy cố gắng nhìn vào một ai đó một lúc. Khi nói chuyện với khán giả, tiếp thu những ý kiến phản hồi của họ để hoàn thành bài nói chuyện của mình.

- Bạn sẽ vượt qua thôi mà! Tôi chưa bao giờ từng nghe thấy có ai chết trên bục diễn thuyết cả. Bạn cũng không bị thở dốc, hụt hơi, quên mất tên mình hay bị nổi nóng. Đấy là những chuyện gây ám ảnh cho bất cứ ai phải đứng trước đám đông. Người ta gọi đó là cơn ác mộng của diễn viên. Việc đó hoàn toàn bình thường. Sử dụng một số kỹ thuật thư giãn trước khi bắt đầu. Bạn có thể tìm một nơi để nhảy lên nhảy xuống hoặc dậm chân thật manh, điều này sẽ giúp bạn cảm thấy vững vàng và giảm bớt căng thẳng. Lắc bàn tay và co duỗi nắm tay. Điều này sẽ làm tay bạn bớt run. Nếu run tay thực sự là một vấn đề thì hãy nắm lấy một tấm danh thiếp hay nắm vào bục diễn thuyết khi nói chyện. Lè lưỡi ra, trợn mắt và há miệng to hết cỡ, sau đó nhăn tít mặt lại. Việc này sẽ làn thư giãn các cơ mặt của bạn. Hít thật sâu và thở mạnh ra tiếng để làm ấm giọng của bạn. Tưởng tượng như bạn đang ở trên một đám mây, không gì có thể làm hại đến bạn khi bạn đang ở trong đó. Hãy cố gắng giữ hình ảnh ấy trong đầu khi bạn đang đứng trên diễn đàn. Sẽ trở nên dễ dàng hơn! Nói chuyện trước công chúng càng nhiều, việc đó càng trở nên dễ dàng hơn. Có khi bạn còn cảm thấy thích nữa ấy chứ!


 


Bạn đọc bình luận:
Tôi đã một lần thất bại khi nói chuyện trước đám đông và bây giờ rất sợ. Nhưng sau khi đọc bài này, tôi thấy rất hay, tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm.
 
Trước đây mình rất ngại khi nói chuyện ở chổ đông người, nhưng bây giờ thì khác rồi tuy mình chưa ấp dụng rất cách bí quyết trên nhưng mình đã cảm thấy tự tin.
 
Đọc bài viết, tôi nhớ đến một lần được giảng viên gọi lên giới thiệu về vùng quê của mình, tôi lúng túng đến nỗi nói mô hình quê tôi là "nuôi cây, trồng cá", bài viết rất hữu ích cho những người nhút nhát như tôi ngày xưa...
 
Điều tôi có thể nói với mấy bạn là hãy tự tin bình tĩnh, không được sợ hay run. Khi đó bạn sẽ thấy mình thật tuyệt vời!
 
Cảm ơn web của Xì Trum và chuyên mục Kỹ năng sống đã dành những lời khuyên bổ ích cho mọi người.
 
Bài báo đã giúp tôi rất nhiều nhưng sẽ tốt hơn nếu bài báo nói cho tôi nên nói gì và ở trong một số lĩnh vực chăng hạn như lĩnh vưc hướng dẫn viên chẳng hạn cám ơn.
 
Cái này hay đó, lúc trước mình cũng hay đứng trước đám đông nói chuyện, nhưng gần đây không lên trước đám đông nữa, cảm giác hơi run run, hihi, kỹ năng này cần tập và duy trì liên tục thì tốt hơn!
 
Thật là tình cờ. Có thể nói hôm nay là ngày đầu tiên tôi nói chuyện trước đám đông, nó không khủng khiếp như những gì tôi đã tưởng. Mọi người lắng nghe tôi nói 1 cách hứng thú. Những gì tôi làm cũng giống như cách bạn đã khuyên, tôi nghĩ cách tốt nhất để mình bình tĩnh trở lại là vung tay múa chân loạn lên như khi mình nói chuyện với bạn bè mình vậy. Thật là tuyệt khi được thể hiện mình, đó là suy nghĩ của tôi lúc này đấy!
 
Dĩ nhiên là chúng ta phải là chính mình nhưng đôi khi bắt trước những cách giao tiếp ứng sử hay của người khác cũng là một việc rất nên làm phải không.
 
Mình rất sợ nói chuyện trước đám đông, sợ những ánh mắt mà người khác đổ dồn về mình khi mình đứng dậy. Những điều trên đây có lẽ rất có ích cho mình khi mình muốn được tự tin khi nói chuyện trước nhiều người.
 
Tuyệt với lắm, điều này có thể xem là một kinh nghiệm cuộc sống đấy :)
Hãy can đảm để đối đầu với tất cả điều đầu tiên là kinh nghiêm ứng xử .
 
Hay quá! Mình sẽ tập làm theo những điều ở trên để khi tiếp xúc trước đám đông, mình sẽ không còn lo lắng nữa.
 
Tôi cũng là người rất hay sợ khi phải đứng trước một dám đông và phát biểu vì tôi là một con người rất nhút nhát, ngay ca việc nói chuyện cùng bạn bè thì tôi cung là người ít nói nhất. Nhưng khi tôi đọc bài này, tôi cảm thấy mình nên thay đổi. Phải tập cho minh một phong cách ăn nói mới để có được nhiều tự tin hơn và có nhiều bạn bè hơn.
 
Tuy đã biết như vậy nhưng em vẫn chưa thực hiện được mong muốn của mình là nói trước đám đông, vẫn còn run, nói lắp bắp, wên trước wên sau, đỏ mặt tía tai, sợ lắm cơ.
 
Tôi đã có vài lần nói chuyện trước đám đông, mọi người nhận xét nghe hấp đẫn, nhưng bản than tôi , mỗi lần chuẩn bị lên bục nói chuyện tôi cũng rất hồi hộp. Cảm ơn tác giả đã dịch và truyền bá kỹ năng này, có lẽ từ nay tôi sẽ bớt hồi hộp hơn (vì trước mỗi lần xuất hiện trước đám đông toii sẽ nhớ đến bài viết này) .
 
Tự tin hay không la do bản thân mỗi cá nhân quan trọng nhất đối với 1 con người là phải dám nghĩ dám làm và bít nói lên suy nghĩ xủa mình đúng lúc và đúng chỗ.

Tôi tin mình sẽ thành công và nc hay như tôi sau này.
 
Mình là một sinh viên quan trị kinh doanh nhưng ở mình lại thiếu sự tự tin và tài hùng biện truớc đám đông . Đó la một thiếu sót lớn nhưng mình khó mà khắc phục được nhưng sao khi đọc xong minh sẽ cố gắng hơn nữa.
 
Bài rất hay, rất thích hợp với ngành nghề của tôi sau này. Cám ơn xitrum.
 
nhiều lúc mình cũng rất sợ nói trước đám đông .nhưng chỉ sợ khi chuẩn bị thôi còn đến khi bắt đầu nói rồi lại thấy hay hay....vì vậy mà mình cũng hay tham gia những hoạt động luyện kỹ năng giao tiếp để tự tin hơn và cũng thấy hiệu quả thật.....
 
Tôi đã 1 lần nói trước đám đông và còn được khen ngợi nữa. Tôi run cầm cập. Cảm ơn, cảm ơn rất nhiều!
 
Bài viết của bạn rất hay, tuy nhiên còn chung chung quá. Với nội dung như trên thì những người chưa có kinh nghiệm nói chuyện trước đám đông sẽ chưa cảm thấy yên tâm. Để có được sự tự tin,không bị lo lắng ,hồi hộp bạn cần phải chuẩn bị trước rất nhiều, cụ thể như sau:
1. Nội dung: Bạn phải soạn phần nội dung mà mình định trình bày. Nội dung này phải "gãy đúng chỗ ngứa" của khán giả...
2.chuânbỉ dụng cụ hỗ trợ cho phần trình bày.
3. Cách tạo ấn tượng ban dầu về mình với khán giả.v.v.v.
Mình thì có rất nhiều kinh nghiệm trong việc nói trước đám đông và có rất nhiều tài liệu hữu hiệu về vấn đề này. Bạn nào có hứng thú thì liên lạc nhé.
 
Có thể cảm giác của bạn lúc đầu sẽ là run và hồi hộp. Nhưng trong quá trình nói chuyện thì là một cảm giác rất tuyệt. Bạn nên thử nếu bạn còn đắn đo. Có thể lần đầu làm không tốt nhưng sau hai ba lần bạn se quen và có được một cảm giác rất tuyệt đó.
 
Đây là một điểm yếu của người Việt nhưng bây giờ đối với giới trẻ thì nó không còn gì là khó khăn nữa rồi.
Sự tự tin và những tác động của xu thế toàn cầu hóa đã giải quyết được vấn đề này.
Cái tôi của mỗi con người đều rất đáng tôn trọng và càng cảm phục hơn khi nó được thể hiện trước đám đông.
 
Từ lúc còn là học sinh cho đến khi đi làm...đã nhiều lần tôi nói chuyện trước đám đông. Mặc dù đã chuận bị cẩn thận, có tập luyện hẳn hoi...nhưng không hiểu sao mỗi khi đứng lên nói thì tôi lại run, mắt tôi bị nhoà đi không còn thấy được gì, giọng nói của tôi trở nên yếu ớt, nói ngập ngừng hoặc nói quá nhanh dẫn đến phát âm không được rõ ràng...Mặc dù đã cố gắng khắc phục (vì công việc của tôi buộc tôi thường phải đứng trước nhiều người) để mỗi lần đứng lên giới thiệu về buổi làm việc không làm mọi người cười ồ lên nhưng cuối cùng thì tôi cũng rơi vào tình trạng đó, và càng lúng túng hơn...đến đỗi quên giới thiệu cả tên của mình.
Hôm nay đọc bài viết của bạn,tôi rất tâm đắc, tôi sẽ thử áp dụng cho mình xem sao. Cám ơn bạn rất nhiều
Bạn muốn có cơ hội thể hiện chính mình trước công chúng? Bạn muốn có khả năng tỏa lan một sức hút mạnh mẽ trên đám đông? Bạn muốn, nhưng bạn lại nghĩ rằng mình thiếu khả năng nói chuyện? Đừng lo! Bạn có thừa khả năng, và việc duy nhất bạn phải làm là khơi dậy và trau dồi khả năng đó, biến nó thành một kỹ năng sắc bén, khiến bạn cảm thấy ung dung, tự tin mà thỏa sức bộc lộ bản thân và truyền lan sức thuyết phục trên công chúng. "Bí quyết nói trước Công chúng" sẽ giúp bạn làm được điều đó.
 
Thực ra mình thấy việc đứng trước đám đông nói chuyện cũng đơn giản thôi. Không khó lắm đầu các bạn ạ. Ngày trước mình cũng là thằng nhát lắm, nhưng biết làm sao được, mình học về kinh doanh thì không thể nhát được, phải mạnh mẽ. Mình đã rèn luyện được khó khăn đứng trước đám đông này. Bằng cách trong lớp mình luôn muốn giơ tay phát biểu, mọi hoạt động chỗ đông người mình đều muốn tham gia. Chắc có lẽ đến giờ, dù mới là sv năm thứ 2 ĐH Ngoại Thương, nhưng tổng số người mình đứng trước nói tới cả chục nghìn người. Mình thấy nó cũng đơn giản thôi, chỉ cần các bạn nghĩ rằng "chẳng có quái gì phải sợ bọn họ, bọn họ sợ mình thì có" Bạn sẽ làm được thôi.
Từ khi đi học đến giờ mình rất ngại đứng trước đám đông nói chuyện, mỗi lần đứng trước đám đông thì tim mình bắt đầu đập mạnh, thở không ra hơi, và không có đủ sức để nói 1 câu. Lúc đó mình chỉ biết đứng thần người ra và cố gắng nén từng hơi ra cửa miệng và nói từng lời ngập ngừng như đứa trẻ vừa tập nói. Nhưng bây giờ thì cảm giác đó cũng dần dần bớt hẵn do mình tập luyện rất kì công, nào là tự mình fát biều đề ra từng ý kiến.. nhưng mà lại lúc đó thì mình ko biết nói gì cả hơi thờ thì bắt đầu dồn dập nói chẳng ra hơi.... nói ra thì sợ ko nói đúng đề tài... cứ như thế và cho đến bây giờ thì minh là người nói kém nhất T_T
 
Qúa hay! tuy mình chưa bao giờ dưng trước đám đông
 
Tôi thường hay sợ khi nói chuyện trước đám đông bỡi vì tôi rất ít tiếp xúc với moi người và còn 1 lí do nữa là tôi ngượng nhưng khi đọc bài này thì tôi rút được cho mình bài học và từ nay tôi sẽ ứng dụng nó vào cuộc sông hằng ngày của tôi xin cám ơn các bạn.
 
Tôi đã từng nói chuyện nhiều trước đám đông, hay trình bày báo cáo trên lớp nhưng đôi lúc cảm thấy rất run. Khi đọc xong bài báo này Tôi đã cảm thấy mình tự tin hơn rồi ...
(
Mình đã từng nói chuyện trước đám đông vài lần rồi. Trước khi lên bục mình cảm thấy rất tự tin, nhưng không hiểu sao khi đứng trên đó tim mình lại đập mạnh hơn và mình thường bị hụt hơi khi nói. Mặc dù mình vẩn tự nhủ với bản thân là hãy bình tĩnh và mình cảm thấy chẳng có gì phải run sợ cả. Vậy mà không hiểu sao mình vẫn không điều khiển nổi bản thân mình. Mình rất buồn và lo lắng vì năm tới mình phải bảo vệ đồ án tốt nghiệp rồi. Mình muốn có nhiều lời khuyên hơn nữa từ các bậc tiền bối và những người đã từng trãi để mình được yên tâm hơn.
Hy vọng mình sẽ tự tin hơn khi đứng trước đám đông nói chuyện. Vì mình sắp trở thành giáo viên mà lại run sợ trước đám đông. Mình sẽ nhớ kĩ bài viết này. Cám ơn nhiều!
 
Trước kia minh cũng như bao người khác cư mỗi lần nói chuyện hoặc là trình bày một vấn đề nào đó trước đám đông là minh run,sợ,tim đập thình thịch. Nhưng sau khi đọc bài viết này mình đã đã tập luyện sau một thời gian, mình tự cảm thấy khả năng trình bày của mình tiến bộ hơn. Không còn run sợ nữa..HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Nghệ thuật nói trước công chúng (Phần 1) .

Làm sao để vượt qua sự sợ hãi và tự tin nói trước công chúng? Women’s Health sẽ mách bạn
Vượt qua nỗi sợ hãi
Nói trước công chúng là một kinh nghiệm vui và hào hứng, cho chúng ta cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức với người khác. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết khoảng 90% người trên thế giới sợ nói trước công chúng ở các mức độ khác nhau.
Những vấn đề tâm lý hay mắc phải khi nói trước công chúng là thiếu tự tin, hồi hộp, tự nhiên hụt hơi, mất bình tĩnh… Những điều này làm người nói cảm thấy sợ hãi, có thể quên đi một phần hoặc toàn bộ bài nói. Áp dụng những cách sau có thể giúp bạn vượt qua sự sợ hãi và trở nên tự tin khi nói trước công chúng.
Chuẩn bị
Quan trọng và mất nhiều thời gian nhất là khâu chuẩn bị. Để có một bài nói thành công đòi hỏi bạn nghiên cứu thật sâu chủ đề sắp nói. Để nói trong 1 phút, bạn phải dành 1 giờ để chuẩn bị. Theo đó bạn mất 10 giờ cho một bài nói 10 phút.
Thực hành
Thực hành bất cứ lúc nào và nơi đâu có thể. Tham gia câu lạc bộ nói trước công chúng tạo cơ hội cho bạn cùng mọi người thực hành, nhận xét và rút kinh nghiệm.
Ngoài ra, trước khi nói trước đám đông, bạn có thể tập nói trước 1 nhóm nhỏ gồm bạn bè hoặc người thân. Nếu có điều kiện, bạn hãy đến nơi sẽ nói trước 1 ngày để quan sát và thực hành.

Suy nghĩ tích cực
Sử dụng khả năng tưởng tượng để tạo cho mình tâm lý tự tin ví dụ như hãy hình dung diễn cảnh mình nói rất thành công, được mọi người vỗ tay và tán dương. Và diễn cảnh này phải được ta thấy rất nhiều lần trước ngày chúng ta thực hiện bài nói. Suy nghĩ tích cực sẽ giúp bạn tự tin hơn.
Vì thế, hãy bước lên trước đám đông với lòng tự tin và ngẩng cao đầu, bạn sẽ cảm thấy thoải mái và điều khiển được mình.
Hít thở
Trước khi thực hiện bài nói, hãy hít vào thật sâu, thở ra từ từ trong 3 đến 5 lần sẽ giúp bạn lấy lại bình tĩnh.
Kiên trì
Dù bài nói vừa rồi có tệ hại thế nào, bạn hãy cho mình cơ hội để thử lại. Cố gắng liên tục giúp bạn ngày càng tiến bộ.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng 02

HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng 01

HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Tuesday 18 March 2014

BÁT KỈNH PHÁP -


     Một trong những vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóng phụ nữ.  Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn.
     Tuyên ngôn này đã gây một biến động lớn lao trong giới tôn giáo thời bấy giờ vì đó là trực tiếp đương đầu với niềm tin đã ăn sâu vững chắc trong dân gian. Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni (*), nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo cũng như các trường phái tư tưởng được biết trước và ngay thời Đức Phật.
     Thập sư Ni hướng dẫn giới tử thọ Tỳ kheo Ni tiến vào Tổ đình Long Thiền cầu pháp đại Tăng.
     Đây là một sự canh tân mới lạ phi thường vì nó chấp nhận cho hàng phụ nữ đặc quyền tiếp thụ một bản chất cao quý, một sức mạnh kiên cố vững chắc trong nền đạo lý, một khả năng thấm nhuần trí tuệ thâm sâu ngang hàng với nam giới. Và hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, mặc dù nhiều hệ thống tôn giáo khác đã phát triển cực thịnh, nhưng vẫn chưa thấy có thêm một tôn giáo nào thành lập một giáo hội cho hàng nữ tu sĩ.
     Cho nên có thể nói rằng hàng phụ nữ trên thế giới vẫn chịu một món nợ trường cửu đối với Đức Phật vì Ngài đã nâng cao họ từ địa vị thấp kém và nhục nhã nhất trong xã hội lên hàng danh dự này.
     Thế nhưng, cũng chính sự việc thành lập giáo hội Tỳ kheo ni mà người nữ xuất gia giữa thời đại tiến bộ hiện nay lại miễn cưỡng trong niềm hạnh phúc lớn lao đó, vì họ ngờ vực Đức Phật chưa thực sự triệt để trong việc nâng cao vị trí của họ ngang hàng danh dự với nam giới, đã chế ra tám điều cần phải cung kính. Tám điều kiện ấy có thực sự quan trọng làm tăng ích cho giáo hội Tỳ kheo ni tồn tại hay chỉ có tính khả thi trong hoàn cảnh xã hội đương thời?
     Tưởng cần nhắc lại sự việc thành lập giáo hội Tỳ kheo ni và nguyên nhân Đức Phật chế ra tám điều kiện cần phải cung kỉnh. Sau khi vua Suddhodana (Tịnh Phạn) băng hà, bà Mahà Pajàpati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề - Kiều Đàm Di) nhàm chán sự giả tạm của kiếp phù du, quyết định trở về nương tựa đời sống xuất gia giải thoát. Một lần, khi Đức Phật về lại kinh thành Kapilavattu (Ca Tỳ La Vệ) để giảng hòa một cuộc tranh chấp dữ dội giữa hai dân tộc Sakyan và Koliyan, đang giành quyền sử dụng nước của dòng sông Rohini.
     Sau khi cuộc cãi vã cay đắng đã được dàn xếp ổn thỏa và hai bên dịu giọng, như thường lệ, Đức Thế Tôn mở lời thuyết giảng giáo pháp, và sau thời pháp đó một số đông người trai trẻ Sakyan xin gia nhập vào giáo hội chư Tỳ kheo. Các bà vợ của những vị ấy, do bà Mahà Pajàpati Gotami hướng dẫn đến chỗ Đức Phật khẩn khoản xin được xuất gia: “Bạch Đức Thế Tôn, thật là một đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ chúng con được chấp nhận gia nhập vào Tăng đoàn để khép mình trong khuôn khổ của giáo pháp và giới luật mà Ngài công bố”. Đức Phật  không sẵn sàng khích lệ thỉnh nguyện của bà Gotami và trả lời: “Đủ rồi, này Gotami, Như Lai không thể làm vừa lòng bà và chấp nhận như vậy”.
     Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba, bà Gotami lặp lại lời thỉnh cầu, nhưng mỗi lần đều bị từ chối. Sau đó Đức Thế Tôn lần hồi sang thành Vesali (Phệ Xá Ly) và ngự trong một đền thờ trên đỉnh núi. Bà Gotami vẫn không nao núng ngã lòng vì những đợt thỉnh nguyện bất thành, mà bền gan cam chịu mọi khổ nhọc và đương đầu nghịch cảnh, quyết định theo chân Đức Thế Tôn đến Vesali cùng với một số đông mệnh phụ phu nhân có niềm tin nơi bà (có nơi nói cùng với 500 người nữ giòng họ Xá Di).
     Cắt bỏ chùm tóc đẹp thuở nào, vứt bỏ nữ trang lộng lẫy, tự khoác lên mình tấm y thô thiển, các bà cam chịu khổ nhọc đi bộ, trải qua đoạn đường dài 150 dặm đến Vesali, mình mẩy lấm lem bụi bặm, y phục rách rưới tả tơi, chân cẳng sưng vù đau nhức. Thế mà, ba lần kiên nhẫn nhờ thầy thị giả A Nan tha thiết trình bày nguyện vọng, Đức Phật vẫn một mực chối từ.
Song, dưới sự nài nỉ nồng nhiệt của Tôn giả A Nan, sự tinh tế chọn điểm tế nhị là vấn đề biết ơn đối với Di mẫu Gotami và đặc biệt là gợi mở khả năng của người nữ có thể chứng nhập bốn quả Thánh nên Đức Phật đã thuận lòng.
     Tuy nhiên, với trí tuệ nhìn xa và hiểu rộng, Đức Thế Tôn có thể thấy những hiểm họa và những khuyết điểm không thể tránh trong việc điều hành song song hai giáo hội Tăng già cùng một lúc. Do đó, Ngài ban hành tám điều qui định cho giáo hội Tỳ kheo ni nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai giáo hội. 
1  Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo
5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.
7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.
     Tôn giả A Nan trao truyền lại tám điều giới pháp ấy cho bà Mahà Pajàpati Gotami. Bà vui mừng khôn xiết, hoan hỷ lãnh thọ và nguyện kính giữ trọn đời không vi phạm. Sau khi giáo hội Tỳ kheo ni thành lập dưới sự lãnh đạo của bà Gotami - Đại Ái Đạo, từ các nẻo đường cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đến gia nhập vào giáo hội và công trình nỗ lực tiến tới mục tiêu giải thoát hoàn toàn của các bà đã để lại trong văn học Phật giáo những trang vẻ vang chói lọi bằng khúc ca khải hoàn, Therigàthà (những Thánh thi của chư Tỳ kheo ni).
     Không còn nghi ngờ gì nữa về sự ra đời và tồn tại đến nay của giáo hội Tỳ kheo ni khắp nơi trên thế giới. Chúng ta thấy được tuệ giác gì nơi Đức Phật khi năm lần bảy lượt Ngài mới tán thành việc thành lập giáo hội Tỳ kheo ni và đặt chế tám điều kiện trước khi cho ra đời thêm một giáo hội nữa? Sự kiện Đức Phật thông hiểu tiềm năng sâu ẩn và khả năng hoàn mãn những thành tựu vĩ đại và cao thâm của hàng phụ nữ không làm cho Ngài mù quáng không thấy những khuyết điểm về kết cấu tâm sinh lý của người nữ.
     Khuynh hướng nhẹ dạ yếu mềm của người nữ dễ dàng rơi vào tội lỗi, dễ bị khuyến dụ đi trên con đường kém đạo Đức. Chính điểm đặc thù ấy là một trở ngại lớn lao cho phẩm hạnh cốt yếu của người sống độc thân, vốn dĩ rất cần thiết cho sự điều hành suôn sẻ của một cộng đồng. Đó là thiên tánh. Đức Phật vạch rõ yếu kém và khuyết điểm của hàng phụ nữ không phải để chế nhạo hay cười khinh, mà Ngài nhắm đến mục tiêu cao quý là giúp họ nhận định những khó khăn gây trở ngại cho những nỗ lực thành tựu mục tiêu của mình và khuyến khích họ thận trọng canh phòng các cuộc tấn công của những khát vọng, các cuộc đột kích của những cám dỗ.
     Đức Phật không vì sự trở ngại đó mà không tạo điều kiện cho họ vượt lên ngang hàng với vị trí mà nam giới có thể tới, chứng đắc quả giải thoát. Song, thái độ do dự trước khi chấp nhận người nữ vào giáo pháp là hồi chuông cảnh báo con đường tiến bộ của họ đầy dẫy sự hiểm nguy và ảnh hưởng đến sự tồn vinh Phật pháp.
     Rõ ràng trong thiên tánh người nữ đã không thể so sánh với người nam, mặc dù dù khả năng tiến bộ và thành tựu mục tiêu Niết bàn có ngang nhau. Nhưng làm sao để người nữ luôn khắc ghi sâu vào lòng bài học tự mình uốn nắn tâm tánh, diệt trừ bản ngã mãnh liệt để thành đạt mục tiêu tối hậu là một công trình vĩ đại, là thành trì phải được bảo vệ kiên cố hơn người nam tiến tu gấp nhiều lần. Làm sao để người nữ xuất gia luôn thấy rằng việc thành lập cho giáo hội Tỳ kheo ni sở dĩ thành tựu là từ sự có mặt vững chãi trước đó khoảng 20 năm của giáo hội Tỳ kheo (Căn bản tạp sự - Q.37, Kinh Trường A Hàm) làm điểm tựa.
     Làm thế nào để Tỳ kheo ni hiểu rằng sự thành lập giáo hội của họ từ giai đoạn sơ khai đã mang theo với nó một vài yếu tố hiểm nguy, và nếu không có những phương sách dự phòng, trong tương lai có thể xảy ra những bất trắc khó lường. Vì thế, Đức Phật ban hành ra tám điều giới hay tám điều kiện bảo vệ. Chính tám điều giới này tạo điều kiện để điều hành tốt đẹp hai cơ quan trong tinh thần trang nghiêm và thích đáng với bản tánh tự nhiên. Nó giữ chư Ni trong vị trí thích hợp với tâm tánh người nữ. Cũng chính tám điều giới này đã hỗ trợ trạng thái điều hòa và thuận thảo, đem lại tình giao hảo thích nghi giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. 
     Người nữ học giới ngày nay lẽ nào không thấy được giá trị thiết thực tám điều giới làm khuôn phép tiến tu và điều kiện cần thiết cho sự tồn tại giáo hội Tỳ kheo ni mà lại không muốn tuân thủ, cho là lỗi thời? Lẽ nào Tỳ kheo tăng ngày nay không đáng cung kính? Tăng thì luôn luôn thanh tịnh và hòa hợp, vì Tăng là chỉ số gồm có 4 vị Tỳ kheo trở lên. Nếu cho rằng Tăng không đáng cung kính vì thiếu sự thanh tịnh và hòa hợp, giáo giới Ni chúng sẽ không hợp căn cơ, không làm cho Ni chúng vui thích mà không cầu giáo thọ hay không đến Đại Tăng cầu thọ cụ túc giới thì nhất định không tồn tại tánh Tỳ kheo ni.
     Có thể vì một vài cá nhân Tỳ kheo nào đó bê bối không đủ phạm hạnh khiến chư Ni bất nhẫn không muốn cung kính, nhưng đừng vì thế mà quên rằng việc cầu giáo thọ hay cầu thọ đại giới là cầu với Tăng chứ không phải cầu với cá nhân. Song, cho dù cá nhân vị Tỳ kheo đó có như thế nào đi nữa thì đó cũng thuộc phạm vi của giáo hội chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải luôn nhớ trong tám điều không thể vượt qua đó đã ghi rõ không được khiển trách hay nặng lời đối với Tỳ kheo, không được chê bai nói rằng: Thầy phá giới, phá kiến, phá oai nghi (Luật Tứ Phần, Ngũ Phần, Ma Ha Tăng Kỳ - Q.3). Đủ thấy, tám điều giới pháp là linh hồn của giáo hội Tỳ kheo ni không thể không bảo trọng, như trong Luật Tứ Phần - Tỳ kheo ni ghi : “Như vậy đó A Nan! Ta nay đã nói tám kỉnh pháp suốt đời tôn trọng không được trái phạm, nếu người nữ nào thực hành được thì tức là được thọ giới. Cũng ví như có người muốn qua dòng nước lớn, phải bắc cầu mà đi qua”.
     Chiếc cầu lợi ích qua dòng sông sanh tử đó ai muốn bỏ vì thấy ràng buộc thì tùy. Nhưng hãy nên nhớ một điều nếu không có tám pháp cung kính đó thì chắc chắn không có giáo hội Tỳ kheo ni hình thành và cũng không có ai là thật tánh Tỳ kheo ni.
Vấn đề sự xuất hiện Tỳ kheo ni đã làm chánh pháp mất đi một nửa có liên quan gì đến Bát kỉnh pháp? Chúng ta có thể lý giải điều này là do sự song hành vận động của hai giáo hội là điều kiện thuận lợi cho hai hệ phái vốn còn mang nhiễm tính “cọ xát”. Sự qua lại thuận tiện gần như “hợp thức hóa” giữa Tăng và Ni, tính yếu mếm cần được chở che của Tỳ kheo ni, sự phô trương đức tính tùng bách hiên ngang nâng đỡ của hàng Tỳ kheo đã là nội dung chính yếu cho ngọn lửa ái nhiễm bốc cháy. Tất nhiên chánh pháp có đổi sang tượng pháp là do người tu chứng ngộ ít dần chứ không thể đổ thừa do sự xuất hiện của Tỳ kheo ni. 
     Nhưng xét kỹ nguyên nhân không chứng nhập Niết bàn là hành giả không phát huy được định tuệ. Định tuệ có từ giới. Khả năng hư hại giới pháp của các thầy Tỳ kheo không gì khác hơn là nữ sắc, mà trong đó Tỳ kheo ni là khả năng nhiều nhất. Vì thế, Bát kỉnh pháp đối với Tỳ kheo ni là điều nhất định không thể vượt qua, để duy trì một nửa chánh pháp còn lại, để giữ gìn sự thanh khiết và thánh thiện giữa hai giáo hội hiện tại và tương lai.
     Tóm lại, có thể nói tám giới trọng yếu đó là nền tảng vững chắc làm nền để xây dựng kiến trúc đồ sộ và công trình sinh hoạt chảy trôi suôn sẻ của hai giáo hội. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA.SYDNEY.18/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Monday 17 March 2014

Ai là bậc hiền trí đích thực?

 
Một bậc đạo sư đích thực là tâm vị ấy thực sự xa lìa được cả hai thái cực ham muốn và ghét bỏ, tức là không còn ham muốn bất cứ cái gì, cũng không chán ghét bất kỳ cái gì.

 
Trong thời đại được gọi là văn minh như hiện nay vẫn xuất hiện không ít những người tự xưng là giáo chủ, thánh chủ, thượng sư hay đạo sư. Có người tự cho rằng được thánh nhập, chỉ cần theo họ tu bảy ngày mở bảy luân xa là đắc đạo thành tiên thánh rồi dùng nhiều cách thức mê hoặc, dẫn dụ người đi theo vì nhiều mục đích khác nhau. Điều này ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, trong đó có cả những Phật tử hiền lành chất phác.
 
Là người con của Đức Phật, chúng ta không thể làm ngơ, nên bài viết này với hy vọng góp phần chỉ rõ, ai mới là bậc thầy, bậc thiện tri thức đúng nghĩa để mọi người có thể nương tựa học hỏi, và tu hành theo đúng Chánh pháp. 
 
Làm thế nào để mọi người có thể nhận diện được một con người giác ngộ, tịch tĩnh có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh ở đời? “Trước hết, đó là một người đã buông bỏ hết tất cả những hận thù trong quá khứ, một người không còn mơ tưởng, vướng mắc gì vào tương lai. Và cả chính trong hiện tại người đó cũng không vướng vào hư danh và sự tôn kính của người đời. Người đó là một bậc Mâu Ni, một người toàn thiện” (Kinh Cha Con Gặp Nhau, Đại chánh tân tu 198, Thích Nhất Hạnh dịch).
 
Một người bình thường như tất cả những người khác, nhưng đã buông bỏ được tất cả những giận hờn, hận thù, lo lắng, phiền muộn, ân oán trong quá khứ; không dính mắc, chấp trước hay mơ mộng hão huyền vào những mong cầu ở tương lai; cũng không vướng mắc vào những gì trong giây phút hiện tại. Bởi người đó đã thấu rõ quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến, hiện tại đang luân chuyển đồng thời nhìn thấu danh lợi, địa vị vốn không thật có, nên không vướng mắc vào hư danh, tâm của vị ấy không bị dao động bởi sự tôn kính hay bất kính của người đời. Người như vậy chính là bậc trọn lành, tịch tĩnh, đức hạnh đầy đủ, hoàn toàn ung dung và tự tại ở đời.
 
Theo lời Phật dạy, trong tám con đường chân chính đưa mọi người đến nơi an vui hạnh phúc thì chánh kiến, tức là cái thấy biết chân chính đứng đầu, muốn có chánh kiến trước hết phải buông bỏ tất cả các tà kiến kể cả tư kiến.
 
Vì không ưu sầu về quá khứ, không vướng mắc vào tương lai, lại buông bỏ được mọi sự tham cầu, không còn chấp vào cái ta và cái của ta, nên vị ấy đã nhìn thấu thực tính của các pháp và vượt qua mọi nỗi sợ hãi, lòng tin chân chính được củng cố vững chãi, tâm không còn dao động trước ngoại cảnh. Như vậy, những nghi nan trong lòng của vị ấy tự nhiên tiêu trừ, xa lìa lòng ganh tỵ, an trụ trong hiện tại nhiệm mầu, tâm luôn an vui với cuộc sống hiện tại. Nhất là nếp sống của vị ấy vô cùng đơn giản, thanh thơi và tự tại.
 
Vị ấy có khả năng làm chủ chính mình, làm chủ cuộc đời mình, không bị lòng tham dục bên trong hay những lạc thú bên ngoài kéo đi. Đi đứng nằm ngồi, vị ấy luôn tỉnh giác, luôn tự tiết chế, điều độ trong ăn uống ngủ nghỉ, không bị nô lệ cho đam mê, tập khí hay thói quen. Rất nhiều người thường tự hào về những thành tựu trong sự nghiệp tiền tài, danh vọng, địa vị, nhưng suốt đời họ sống nô lệ cho lòng tham dục, si mê của mình mà họ không biết. Thật đáng thương thay!
 
Tu tập để ngày càng làm chủ bản thân mình nhiều hơn là một việc rất quan trọng và cần thiết. Với trí tuệ tịch tĩnh, vị ấy đã nhìn rõ thật tướng các pháp nên đã hoàn toàn xa lìa được lòng ganh ghét, đố kỵ; xa lìa sự nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, không nói lời trau chuốt giả tạo; buông bỏ mọi hý luận không có lợi ích thật sự cho sự giác ngộ giải thoát; tâm không còn hoài nghi, ngờ vực về con đường tu hành.
 
Vị ấy biết rõ, nguyên nhân của khổ đau là tham vọng quá nhiều, nên xa lìa được dục vọng. Tâm ý của vị ấy không còn bị trói buộc vào bất kỳ thứ gì, được tự do một cách trọn vẹn. Những sợi dây phiền não không còn nơi để phát huy tác dụng được nữa. Không còn vướng mắc, chấp trước vào những cái thấy của riêng mình. Miệng không còn nói những lời thêu dệt, hư vọng. Bước chân của vị ấy chậm rãi, thảnh thơi, vững chãi, an lành. Tâm vị ấy không còn mọi ý tưởng tham dục, ham muốn. Vị ấy luôn tỉnh táo và nhẫn nại, có khả năng hóa giải mọi sự cãi cọ, tranh chấp, hơn thua bằng trí tuệ và từ bi.
 
Vị ấy nhận rõ rằng, mọi dục tưởng là do tri giác sai lầm đưa tới ham muốn. Nếu không có dục tưởng thì sẽ không có ham muốn. Do chúng ta tham muốn tìm cầu nhiều thứ, nào là tiền tài, danh vọng, quyền hành, nữ sắc…, vì cứ nghĩ chúng sẽ đem lại cho mình an lạc và hạnh phúc, cho nên chúng ta khổ đau nhiều. Còn vị ấy biết rõ, một khi bị vướng vào những thứ đó rồi mình sẽ mất hết hạnh phúc, thảnh thơi, an lạc mà chỉ còn lại toàn là đau khổ.
 
 
 
 
Lòng vị ấy đã trong sạch và sáng suốt, nên không còn mưu toan hay thủ đoạn để thỏa mãn sự ham muốn bản thân - ngay cả việc thành tựu được một mức độ nào đó trong tu học - cho nên không buồn phiền, lo lắng hay oán giận khi không có được hay mất mát thứ gì. Nhất là vị ấy đã đoạn trừ được sự luyến ái, không còn bị nô lệ cho ái dục. Đây là một điều rất khó làm được, vì sở dĩ chúng ta có mặt trong cuộc đời này là do ái dục; chúng ta trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu đủ mọi đau khổ triền miên cũng là do ái dục. Ái dục chính là nguồn gốc của sinh tử luân hồi, là nguyên nhân của khổ đau, nên xa lìa được ái dục tức là an vui giải thoát.
 
Vị ấy quán chiếu sâu và thấy rõ tất cả mọi chúng sinh đều có thật tánh bình đẳng, tất cả các pháp thật sự bình đẳng, đạt đến cái thấy vô ngã, nên xa lìa được hai trạng thái tự cao và tự ti, không còn mặc cảm hay tự mãn, không còn ý tranh luận hơn thua với người. Vị ấy luôn kiểm soát tâm ý không để buông lung theo cảnh vật bên ngoài, nhìn thấu, hiểu rành các pháp thiện và pháp ác, cũng không kẹt vào thiện ác, suy nghĩ không còn dấu vết và sai lầm.
 
Người nào chưa đạt đến cái nhìn vô ngã, chưa thấu rõ thật tánh bình đẳng của các pháp, thì chưa thể xem là bậc đạo sư được. Đây chính là cơ sở quan trọng nhất để nhìn nhận ai là đạo sư chân thật.
 
Vị ấy dùng trí tuệ quán chiếu, thấu rõ tự tánh của các pháp, bản chất của mọi sự vật hiện tượng, nên không còn bị trói buộc hay vướng mắc vào bất kỳ pháp nào, cũng không còn kẹt vào hai đầu đối đãi có và không, do đó không có gì là không vượt thoát được.
 
Tâm vị ấy đã tịch tĩnh, lòng tham ái cũng không còn, những vô minh, những ham muốn, những cám dỗ, lạc thú trong cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc không còn làm cho tâm vị ấy dao động. Vị ấy thực sự là một người tự tại đối với các pháp, tâm đã hoàn toàn buông xả, không còn bị cái gọi là sở đắc trói buộc.
 
Đó là người đã vượt qua biển sầu khổ đến nơi không còn bất kỳ âu lo, phiền muộn gì nữa.
 
Bậc đại trí tuệ chỉ rõ cho chúng ta thấy được, người mà còn muốn có con trai để nối dõi tông đường, kế thừa sản nghiệp, lòng muốn tích trữ tiền bạc của cải cho nhiều, cái mình không thích thì chán ghét, thứ mình thích thì bo bo gìn giữ, thì chắc chắn người ấy không phải là người thanh tịnh, không phải là chân tu, cũng không phải là đạo sư đích thực.
 
Một bậc đạo sư đích thực là tâm vị ấy thực sự xa lìa được cả hai thái cực ham muốn và ghét bỏ, tức là không còn ham muốn bất cứ cái gì, cũng không chán ghét bất kỳ cái gì.
 
Vị ấy là người thấy đạo, đã xác định rõ con đường cần phải đi, tâm ý đã hoàn toàn an tịnh sáng suốt, vượt ra ngoài tác động của những sự khen ngợi hay chê bai, tôn kính hay xúc phạm. Tức là khi bị chê bai, xúc phạm, vị ấy không còn khởi ý nóng giận; khi được khen ngợi, tôn kính, vị ấy không cảm thấy tự cao tự mãn, kể cả khi bị vu oan vị ấy cũng không còn muốn bào chữa, minh oan cho mình.
 
Những ý niệm tham lam, keo kiệt, ganh ghét hoàn toàn không còn hiện hữu trong tâm vị ấy, ý niệm tự cao tự mãn hay mặc cảm tự ti cũng hoàn toàn được tịnh trừ không còn dấu vết. Tâm vị ấy đã được kiên định, lời nói, việc làm và suy nghĩ không còn mảy may sai lầm.
 
Vị ấy đã thấu rõ tính Không, liễu ngộ thực tính của vạn pháp, hiểu hết bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, không còn mong cầu bất kỳ cái gì, cũng không thấy mình có bất kỳ sở đắc nào, vượt ra ngoài những ham muốn phàm tục của thế gian.
 
Tâm vị ấy hoàn toàn tĩnh lặng, sáng suốt và an ổn, ý của vị ấy đã không còn buông lung. Vị ấy thật sự đã vượt ra ngoài mọi sự ràng buộc, giải thoát ra khỏi mọi khổ đau trong sinh tử luân hồi, sạch hết mê lầm và sợ hãi, là con người tịch tĩnh, sáng suốt, chứng ngộ Niết Bàn.
 
Như vậy, con người trí tuệ tịch tĩnh của dòng họ Thích Ca đã đích thân minh chứng cho tất cả mọi người trên thế gian này thấy rõ một chân lý lớn: Từ một con người bình thường sống trong khổ đau triền miên, bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi như bao người khác, nhờ vào sự nỗ lực cố gắng tu tâm dưỡng tính đúng phương pháp của tự thân, hoàn toàn có khả năng giải thoát bản thân ra khỏi mọi sự ràng buộc, đạt đến an vui, tự do, tự tại với ý nghĩa toàn vẹn nhất.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.18/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.