Tuesday 27 December 2011

Tìm Hiểu Giới Luật Người Tu Sĩ

 
Khi đức Phật nhập diệt rồi, cuộc kiết tập mới bắt đầu. Cuộc kiết tập tụng lại Kinh tạng và Luật tạng. Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
Nội dung của Kiết tập có nghĩa như thế nào?
Kiết tập: Phạn tự là Samgati, Tàu dịch là “Chúng đẳng tụng”, nghĩa là cả chúng cùng nhau tụng lại lời đức Phật dạy. Tụng bằng cách nào? Tôn giả Ưu-ba-li hay Tôn giả A-nan-đà ngồi giữa chúng đọc rõ từng câu như: ngày hôm đó, tại chỗ đó, tôi có nghe đức Phật dạy như thế này thế này… nếu đại chúng có vị nào nghe Ngài dạy khác xin phát biểu, nếu không ai phát biểu mà im lặng thì cho qua. Tiếp tục tụng đoạn khác cũng y như trên cho đến hết, nên gọi là chúng đẳng tụng. Cuộc kiết tập đầu tiên chưa có văn tự gì hết. Kiết tập bằng miệng đọc lên rồi ai nấy đều ghi nhớ trong ký ức mà thôi. Ký ức của các vị toàn là các bậc A-la-hán thì ghê gớm lắm. Nhớ như vậy cốt để mà tu tập chứ không có mục đích gì khác.
Tôn giả Ưu-ba-li tụng Luật
Như vậy, về Luật bộ đầu tiên là Bát thập tụng do Tôn giả Ưu-ba-li tụng, rồi sau đó nó biến ra năm bộ nữa:
Ðàm-vô-đức bộ (Pháp tạng bộ) truyền luật Tứ phần, gồm 60 cuốn.
Tát-bà-đa-bộ (Hữu bộ) truyền luật Thập tụng, có 60 cuốn.
Di-sa-tắc bộ truyền luật Ngũ phần, có 30 cuốn, thuộc Hóa địa bộ.
Ca-diếp-di bộ truyền Giải thoát giới, gồm 50 cuốn, thuộc Căn bản nhất thiết hữu bộ.
Ma-ha Tăng-kỳ bộ truyền luật Tăng kỳ, có 40 cuốn, thuộc Ðại chúng bộ và Ðộc tử bộ.
Trong thời Phật, Ngài không phân ra năm bộ luật như trên, nhưng trong quá trình hành hóa, tùy chỗ phạm lỗi mà chế ra giới để cho hàng đệ tử biết và lần sau đừng có phạm nữa. Ðó là khởi nguyên của Luật. Sau khi đức Phật diệt độ, cuộc kiết tập lần thứ nhất chỉ tụng thuần nhất là tám mươi lần ngồi tụng mà thôi. Từ đó về sau, qua sự truyền trì của Tôn giả Ðại Ca-diếp, A-nan, Mạt-điền-địa, Thương-na-hòa-tu, Ưu-ba-cúc-đa (Maha Kàsyapa, Ananda, Madhyàntika, Sàna Vàsa, Upagupta) đều thuần nhất vị, chưa phân dị kiến về giới luật. Ðến Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa là vị thứ năm, nhằm khoảng thời gian sau Phật diệt độ 110 năm, lúc đó A-dục vương ra đời. A-dục vương là vị vua lúc đầu cai trị rất tàn ác nên dân chúng gán cho cái tên là Hắc A-dục vương (A-dục vương đại ác). Nhưng về sau cải ác tùng thiện, qui y Tam Bảo và trở thành một Phật tử thuần thành, hộ trì Phật pháp một cách đắc lực nhất, gọi là Pháp A-dục vương.
Nguyên nhân phân hóa Luật
Giáo pháp đức Phật do vậy cũng bị điêu linh, các vị tỷ kheo mỗi đoàn du hóa một phương, không kết tụ với nhau được, do đó mà từ nơi một bộ Bát thập tụng luật lại chia ra năm nơi, năm nhóm. Năm nhóm này ghi nhớ và đọc tụng theo năm cách riêng và việc hành trì cũng khác, nên tạo ra năm bộ luật khác nhau. Năm bộ luật đó là do năm đệ tử của Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nắm giữ và truyền tụng. Năm bộ luật đó là:
Ðàm-vô-đức bộ truyền trì luật Tứ Phần.
Tát-bà-đa bộ truyền trì luật Thập Tụng.
Di-sa-tắc bộ truyền trì luật Ngũ Phần.
Ca-diếp-di bộ truyền trì luật Giải Thoát.
Bà-ta-phú-la bộ truyền trì luật Ma-ha Tăng Kỳ.
Năm nhóm trên đều truyền trì Luật tạng riêng mà phát sinh thành ra năm bộ như trên.
Năm bộ luật vừa nêu về phần chính thì giống nhau, chỉ có sai khác về Ba-dật-đề và Chúng học pháp.
Năm bộ luận giải thích Luật
Ngoài những bộ luật chính ở trên, sau này có những bộ gọi là luận về luật. Năm bộ luận đó là gì?
Tỳ-ni-mẫu luận, 8 quyển (thất truyền).
Ma-đắc-lặc-già luận, gọi đủ là Tát-bà-đa-bộ Tỳ-ni Ma-đắc-lặc-già, 10 quyển do Lưu tống Tăng-già-bạt-ma dịch.
Hai bộ luận trên dựa vào Tát-bà-đa bộ tức Căn bổn nhất thiết hữu bộ mà giải thích những điều trong bộ luật đó mà tạo ra luận này.
Thiện kiến luận, hay còn là Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa, 18 quyển do Tiêu-tề Tăng-già-bạt-ma dịch. Cốt giải thích Tứ phần luật.
Tát-bà-đa luận hay gọi là Tát-bà-đa Tỳ-ni-tỳ-bà-sa, chín quyển, mất tên người dịch, cốt giải thích luật Thập tụng.
Minh liễu luận, hay còn gọi là Luật nhị thập nhị minh liễu luận, một quyển do Trần-chân-đế dịch, cốt giải thích giới luật thuộc Chính lượng bộ.
Hai bộ này đều thuộc Chính lượng bộ, tức một trong hai mươi bộ phái tiểu thừa Phật giáo.
Nội dung của Luật tạng
Khi nói Luật tạng là nói chung cả năm bộ luật và năm bộ luận đó gọi là luật tạng.
Sự hành trì về Luật tại Ấn Ðộ chắc cũng có sự sai khác chút đỉnh. Khi thì các Tổ dùng bộ này, khi thì dùng bộ khác, nên đôi lúc tưởng chừng trong nội dung của nó có sai khác. Nhưng tùy theo địa phương và hoàn cảnh, các Tổ có thể du di phần học pháp, vì vậy, khi truyền qua Trung Hoa, Tổ Ðạo tuyên mới lấy một bộ làm căn bản cho việc truyền Luật, nên Tổ đã dùng bộ Tứ phần luật, phát triển thành Luật tông mà Tổ là vị khai sáng. Từ đó Tứ phần luật được diễn giảng, giải thích và truyền bá rất mạnh.
Việt Nam chúng ta từ trước tới nay cũng áp dụng Tứ phần luật để hành trì.
Nội dung Tứ phần luật
Tứ phần luật, 60 cuốn do Diêu Tần Phật-đà-da-xá và Trúc-phật-niệm cùng dịch, chia bốn phần.
Phần một, gồm hai mươi mốt cuốn: nội dung chuyên nói 250 giới của Tỷ-kheo.
Phần hai, gồm mười sáu cuốn: chín cuốn đầu nói 348 giới điều của Tỷ-kheo-ni. Bảy cuốn sau quy định việc thọ giới, thuyết giới, an cư, tự tứ…
Phần ba, có mười hai cuốn: gồm các chương quy định việc Tự tứ tiếp theo, Bì-cách, y, Dược, Casina y, việc xảy ra ở Câu-diệm-di, ở Chiêm-ba, Kiết-ma-ha-trách, về người, về tội phú tàng, giá, phá tăng, diệt tránh, về pháp Tỳ-ni và về Pháp.
Phần bốn, gồm mười một cuốn: là các chương nói về phòng xá, tạp, ngũ bách kiết tập, thất bách kiết tập, điều bộ Tỳ-ni, Tỳ-ni tăng nhất.
Tóm lại, Tứ phần luật gồm có hai phần chính:
(a) Phần thứ nhất nói về giới bổn của Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni.
Giới bản của Tỷ-kheo có 250 giới, Tỷ-kheo-ni có 348 giới. Theo Nam truyền Luật tạng Tỷ-kheo có 227 điều, Tỷ-kheo-ni có 311 điều. Các giới điều tuy có khác, nhưng chỉ khác phần chi tiết, còn phần nội dung chính vẫn giống nhau.
(b) Phần thứ hai nói về hai mươi kiền độ (hai mươi chương).
Chương Thọ giới: Thuyết minh về việc thọ giới.
Chương Thuyết giới: Thuyết minh về nghi thức thuyết giới.
Chương An cư: Thuyết minh về ý nghĩa và sự việc an cư.
Chương Tự tứ: Nói về ý nghĩa tác pháp tự tứ.
Chương Bì-cách: Khai cho các Tỷ-kheo gặp hoàn cảnh đặc biệt được dùng các loại da thuộc.
Chương nói về Y: Thuyết minh cách may y và sử dụng nó.
Chương nói về dược liệu: Thuyết minh về cách dùng thuốc để chữa bịnh.
Chương nói về Y Casina (Kathina): Nói về cách thọ y và xả y Casina (công đức y).
Chương nói về việc xảy ra ở Câu-diệm-di (Kosambi): Nói về việc các Tỷ-kheo tranh cãi nhau, và ba loại cử tội: (1) Bất kiến cử là cử cái tội có lỗi mà nói không thấy, không nhận tội. (2) Bất sám cử là cử cái tội đã nhận tội mà không chịu sám hối. (3) Ác kiến bất xả cử là cử cái tội có ác kiến mà không chịu bỏ.
Chương nói về việc xảy ra ở Chiêm-ba, nói về các loại Kiết-ma như pháp và phi pháp.
Chương nói về Ha-trách: Nói về chế định bảy thứ Ha-trách, tức 35 việc mà một Tỳ-kheo đã phạm tội thì không được làm.
Chương nói về Người: Thuyết minh phạm tội Tăng tàn, lục dạ biệt trú phép bản nhật trị và cách sám trừ nghiệp quả, sám diệt phi pháp.
Chương Phú tàng: Nói các thứ tướng của tội phú tàng và cách diệt trừ tội.
Chương nói về Giá: Nói về cách ngăn ngừa và cử tội người khác, khi cử phải đủ năm pháp là: Tri thời, chân thật, lợi ích, nhu nhuyến, từ tâm.
Chương phá Tăng: Nói việc tội phá Tăng.
Chương diệt tránh: Nói về Thất diệt tránh (bảy phép diệt sự tranh cãi).
Chương nói về Ni: Nói việc Ni chúng thọ giới, thuyết giới.
Chương nói về Pháp: Nói các oai nghi, pháp thức đi lại… của Tỷ-kheo.
Chương nói về Phòng: Nói việc sửa sang tu bổ phòng xá.
Chương tạp: Thuyết minh xen lẫn hết thảy các chương, và cách trì giới.
Ðạo Tuyên Luật sư trong “San bổ tùy cơ yết-ma” tóm tắt hai mươi chương trình mười điều.
Chương tập pháp: Nói tổng quát về sự duyên thành không thành của các pháp Kiết-ma.
Chương kết và giải giới
Chương nói pháp thọ các giới.
Chương nói áo, thuốc, thọ trì, thuyết tịnh.
Chương nói các pháp thuyết giới.
Chương nói về chúng an cư.
Chương nói pháp tự tứ.
Chương nói về chia áo (của Tăng đã chết)
Chương nói sám hối các tội.
Chương nói việc cốt yếu của vị trú trì Phật pháp.
Chỉ trì, Tác trì
Giới luật thì nhiều, nhưng không ngoài hai môn: Chỉ trì và Tác trì.
Chỉ trì là đình chỉ, đình chỉ không làm các điều ác. Tức qui định về điều giới, đó là giới, thuộc chỉ trì.
Tác trì là tu thiện, tức làm các điều thiện. Tức qui định về các pháp Kiết-ma, đó là luật, thuộc Tác trì.
Ví dụ thực hành giới bổn là Chỉ trì, giữ gìn hai mươi kiền độ là Tác trì.
Phân tích Giới bổn
Vì sao gọi là Giới bổn? Ðây là những giới bổn gốc, chính yếu của Luật tạng. Giới bổn của Tăng có 250, của Ni có 350 giới. Ngoài giới bổn chính còn có phần Kiền-độ dịch âm chữ Khandha, có nghĩa là nhóm, thiên, chương.
Phân tích giới bổn gồm có tám mục, 250 giới, chia năm thiên và bảy tụ.
Năm thiên:
Ba-la-di có 4 giới.
Tăng tàn có 13 giới.
Ba-dật-đề gồm 30 xả đọa, 90 đơn đọa.
Ðề-xá-ni có 4 giới.
Ðột-kiết-la gồm 100 chúng học, 7 diệt tránh.
Bảy tụ:
Ba-la-di.
Tăng-tàn.
Thâu-lan-giá.
Ba-dật-đề.
Ðề-xá-ni.
Ác-tác.
Ác-thuyết.
( 6. và 7. hợp chung gọi là “Ðột-kiết-la”)
Năm thiên là nương ở chỗ tội nặng nhẹ của tội quả. Bảy tụ là những loại tụ căn cứ ở tội tính và nguyên nhân của nó. Thâu-lan-giá là phương tiện tội (tức nhân tội) của Ba-la-di và Tăng-tàn. Ác-tác là tội nhẹ thuộc về thân. Ác-thuyết là tội nhẹ thuộc về khẩu.
Giải thích bốn Ba-la-di
Bốn Ba-la-di: Ba-la-di, Phạn tự là Pàràjjka, Tàu dịch là Khí – bỏ vứt ra ngoài Tăng chúng. Tội Ba-la-di có bốn, là bốn tội phạm vào thì bị bỏ đi, vứt đi. Mắc bốn tội này coi như bỏ ra ngoài Tăng chúng, vì vậy gọi là Khí (vứt bỏ). Phạm tội này gọi là bất cọng trụ, tức không được phép tham dự tất cả công việc của Tăng. Luận Du-dà-sư-địa cho rằng khi phạm bốn tội này gọi là Tha thắng – tức khi phạm tội nầy thì bị Ma thắng. Vì sao? vì người tu sĩ ví như một chiến sĩ chiến đấu với bốn thứ ma: Ma phiền não, ma ngũ ấm, tử ma, thiên ma. Họ đánh bằng khí giới gì? Họ chiến đấu bằng cách hành trì giới luật. Khi người tu sĩ không trì giới, không giữ giới thì thua bốn thứ ma đó, như vậy là Ma thắng. Do đó phạm bốn Ba-la-di cũng gọi là phạm Tha thắng. Tha là kẻ khác, thắng là hơn. Phạm tội để kẻ khác hơn gọi là Tha thắng. Nếu phạm tội này thì Ma hơn. Còn phạm tội dưới tội đây thì còn dằn co, chưa phần thắng bại.
Giải thích mười ba Tăng tàn
Mười ba Tăng tàn: Phạn tự là Samghà-vasena. Phiên âm là Tăng-già-bà-thi-sa. Tàu dịch là “Tăng tàn”. Tăng tàn có hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất: Giới luật là tính mạng của Tăng. Khi phạm Ba-la-di coi như chết hẳn. Còn nếu phạm Tăng tàn thì như một người chết mà chưa chết hẳn, mới hấp hối thôi, nếu cấp cứu kịp thời, gặp thầy hay thuốc tốt thì có thể cứu được.
Nghĩa thứ hai: Phạm giới này nếu đủ hai mươi Tỷ-kheo hợp lại Kiết-ma đúng pháp, cho họ sám hối thì có thể tiêu diệt được tội này, nên gọi là Tăng tàn. Trong Căn bản nhất hữu bộ gọi là Chúng giáo. Chúng là chúng Tăng, giáo là giáo dục. Chúng giáo có nghĩa phải có hai mươi vị Tăng giáo dục cho, cho sám hối thì mới hết tội.
Giải thích hai Bất định
Hai bất định: Vì sao gọi là Bất định? Vì không dứt khoát tội đó là Ba-la-di hay Tăng tàn hay Ba-dật-đề. Nó có thể thành tội Ba-la-di hay tội Tăng tàn hoặc Ba-dật-đề theo lời trú tín Ưu-bà-di, là vị nữ cư sĩ có lòng tin thanh tịnh kiên cố, không nhất định nên gọi là Bất định. Hai tội này chỉ liên hệ giới bất dâm, chứ không liên hệ các giới khác.
Giải thích ba mươi Xả đọa
Ba mươi tội Xả đọa: Phạn tự là Nissagiya-pàcittiya. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là phiên âm. Tàu dịch là “Xả đọa”.
Tội xả và tội đọa. Loại tội này là chỉ các Tỷ-kheo, đồ dùng đó khi phạm vào mà trái phép thì phải đọa. Muốn sám hối tội đó thì phải ở giữa chúng hoặc đối một người mà xả đồ vật lấy dùng trái phép trước rồi sám tội sau.
Nói cách khác, khi đề cập đến tội xả đọa là các vật sở hữu của Tỷ-kheo, như y, bát, tọa cụ… lại không làm thủ tục tác pháp thì phải làm phép xả vật, xả tội, chừa bỏ tâm lý chứa chấp, tàng trữ tài vật để khỏi đọa lạc, nó gồm ba mươi giới. Ai phạm nên đưa các phẩm vật ấy ra giữa Tăng, từ bốn vị trở lên để xả và đối trước một vị Tỷ-kheo để nói tội và xin sám hối.
Giải thích chín mươi Ba-dật-đề
Ba-dật-đề (Pàcittiya). Tàu dịch là “Ðơn đọa”. Nó liên quan đến các tội tiểu vọng ngữ, cố ý sát hại côn trùng, cùng với nữ nhơn đi chung đường v.v… gồm có chín mươi đơn đọa là tội không dính dáng gì đến vật dụng hết. Phạm thì bị đọa thôi, không cần xả, nên gọi là đơn đọa.
Giải thích bốn Hối quá pháp
Bốn hối quá pháp. Ba-la-đề Ðề-xá-ni (Pàtidesanniya), Tàu dịch là “Hướng bỉ hối”. Phạm tội này chỉ hướng tới một Tỷ-kheo khác, nói rõ lỗi lầm đã phạm và xin sám hối. Tóm lại là tội nhỏ, có thể hối cải, người phạm có thể nói tội với một Tỷ-kheo khác mà xin sám hối.
Giải thích một trăm Học pháp
Một trăm Học pháp phiên âm Phạn tự là Thức-xoa-ca-la-ni (Sikkhà Karaniya). Tàu dịch là “Chúng học”. Chúng học pháp là những pháp cần nên học. Như các sinh hoạt hằng ngày, các oai nghi nhỏ nhặt…. Pháp này chủ yếu là tự trách lấy mình. Ðây là tội nhỏ nhặt, tội khó giữ nhưng hết sức dễ phạm. Khi biết phạm thì tự trách lấy mình để ăn năn, tự hứa lần sau không tái phạm là đủ.
Giải thích bảy Diệt tránh
Bảy Diệt tránh pháp, tiếng Phạn là Adhika-ramásama-thaàdharmàh. Tàu dịch là “Diệt tránh pháp”. Tức bảy phương pháp trị tội hay bảy cách thức để chấm dứt sự tranh cãi giữa chúng Tăng. Phạm 100 học pháp và 7 Diệt tránh kết vào tội Ðột-kiết-la, chỉ tâm niệm sám hối, học tập, là đủ.
Riêng về Tỷ-kheo-ni, Phật ưu đãi hơn:
Ba-la-di không phải bốn mà là tám.
Tăng tàn không phải mười ba mà là mười bảy.
Xả đọa bằng nhau.
Ðơn đọa không phải chín mươi mà là 178.
Hối quá không phải bốn mà là tám.
Một trăm học pháp giống nhau.
Cộng tất cả là 348 giới. Chưa hết, Ngài còn trao thọ mạng Phật pháp cho Ni nữa. Ðặc biệt là Ni có Tám kỉnh pháp, nhưng Tăng thì có nhị bất định, còn Ni thì không. Như vậy Ni hơn tám, Tăng hơn hai. Ni thì có ngũ thiên lục tụ.
(Trích “Cương Yếu Giới Luật”, Sài Gòn, 1996)
Hòa thượng Thích Thiện Siêu.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).28/12/2011.
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnh là trang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
Vì Tăng Ni chính là đoàn thể tiêu biểu cho ý nghĩa thanh tịnh, luôn nêu cao tác phong đạo đức của người xuất gia, xứng đáng là Tăng Ni mô phạm của mọi người, bậc gương mẫu của bốn chúng, hướng đến giải thoát sanh tử. Vì chưa phải là những bậc toàn thiện, toàn mỹ nên phải thể hiện sự chơn tu qua phương pháp hành trì theo lời Phật dạy như: Niệm Phật – Trì Chú hoặc Tham Thiền.
Bước đầu xuất gia học đạo, tâm ý Tăng Ni rất thành kính mạnh mẽ và cao thượng nên được Thầy thâu nhận, cho tập sự, dạy bảo rất chân tình. Đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, thưa hỏi, xá chào, ăn uống, ngủ nghỉ đều trong qui củ của thiền môn. Sau khi được cạo tóc xuất gia thì Thầy hoặc những người đi trước chỉ dạy, đánh khánh, chuông, mõ, lời kinh tiếng kệ cho đúng nghi thức, dạy chúng ta Tỳ Ni, oai nghi, cảnh sách.
Nếu muốn chuyên sâu rộng hơn nữa Tăng Ni được Thầy cho phép đến các trường Phật học. Khi vào các trường, lớp Tăng Ni phải tuân theo qui củ của trường, lớp. Tăng Ni vô trước Thầy giáo thọ vô sau, khi tan học Thầy ra trước mình ra sau. Trong giờ học nếu Tăng Ni quay ngang, nhìn dọc hoặc nói chuyện v.v … không chú ý lắng nghe giảng dạy thì được sự nhắc nhở của ban giám thị. Khi được thọ giới thì có ban quản giới tử giám sát, nhắc nhở khi có lỗi lầm, ban điển lễ chỉ bày lúc nào quỳ, khi nào lạy. An cư kiết hạ thì giới luật và thanh quy nghiêm minh hơn sẽ đem đến cho mình sự an lạc thù thắng hơn.
Từ sơ tâm học đạo cho đến trưởng thành, Tăng Ni chúng ta đã trải qua những bước thăng trầm của cuộc sống, vui buồn đều có, cũng may mắn thay Tăng Ni luôn luôn đều nhờ sự dắt dìu, đùm bọc, chở che của những bậc Thầy cao cả, giới đức kim ưu.
Cổ đức thường dạy: Hổ ly sơn hổ bại, Tăng Ni ly chúng Tăng Ni tàn. Cho nên, Tăng Ni lập hạnh quyết định nguyện trụ tòng lâm, tự viện vì là nơi trang nghiêm thanh tịnh, chỗ tu học của người xuất gia đệ tử Phật, là nơi hướng thượng của người niệm Phật, trì chú hoặc tham thiền, là nơi giác ngộ của bậc hiền Thánh, chỗ kiến tánh của Tổ sư, những bậc tiền bối Tổ Sư của chúng ta từ thập niên 20 – 30 của thế kỷ trước (XX) đứng ra chấn hưng Phật Pháp, lợi ích hữu tình cũng xuất phát từ đây, là chỗ an thân lập mạng của mỗi người tu nên phải quyết định thề nguyền dù tán thân mất mạng cũng không rời khỏi chốn này. Nếu rời khỏi Tòng lâm, Tự, Viện thì cô phụ hạnh nguyện, lập chí, quyết định thuở ban đầu của chính mình thì bị nghiệp lực lôi cuốn trong lục đạo luân hồi. Bởi nơi đây đều có các bậc thiện tri thức thấu rõ phương pháp tu hành hướng dẫn, truyền trao cho Tăng Ni chúng ta thành tựu giới thân huệ mạng là nơi đào tạo Tăng, Ni có đủ tài đức, đạo hạnh trang nghiêm để gánh vác Phật sự, lợi ích chúng sanh.
Ví như, trong lòng đất có quặng vàng được khai thác lên nhưng chưa xài được vì còn lẫn nhiều tạp chất, phải trải qua thời gian tôi luyện, gạn lọc loại bỏ hết tạp chất mới dùng được. Nếu đem cất kỹ hay quăng bỏ bất cứ nơi đâu cũng là vàng ròng.
Cũng vậy, Tăng Ni bắt đầu niệm Phật thì tâm còn nhiều tạp loạn, lâu dần tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. v.v… được loại bỏ chỉ còn niệm thiện thì tâm hay cung kính, bố thí, cúng dường, khiêm tốn với mọi người. Đi, đứng, ngồi, nằm hằng niệm Phật không gián đoạn thì đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, an trụ trong chánh niệm, chuyên sâu hơn nữa thì sẽ đạt đến chỗ liễu tâm.
Tăng Ni có trì chú. Đi, đứng, nằm, ngồi không gián đoạn thì thân, khẩu, ý được tương ưng, sở cầu được như ý, lợi ích chúng sanh. Nếu tiến sâu hơn nữa thì cũng được liễu tâm.
Tăng Ni có tham thiền luôn đề khởi câu thoại đầu, có nghi tình thì mọi tạp niệm sẽ bớt dần. Công phu được miên mật thì nghi tình sẽ thành khối, cắt đứt được mọi vọng niệm, thình lình nghi tình tan vỡ thì tự tánh tự hiện, thấu rõ được chính mình để làm chủ cho mình, đến đi tự tại.
Dù niệm Phật, trì chú hay tham thiền đều phải đạt đến liễu tâm. Vì thấu rõ được bổn tâm hay cứu cánh tâm thì sanh tử mới có phần tự do giải thoát. Cũng chính vì nỗ lực công phu tu tập nên Tăng Ni được an trụ trong chánh niệm. Do vậy giới luật không hề vi phạm, nên:
- Thân khi đi luôn ngay thẳng, mắt chẳng ngó liếc hai bên, ung dung tự tại.
- Đứng thì trang nghiêm, chân không kiểng, bên cao, bên thấp, tay không chống nạnh.
- Ngồi lưng thẳng , đầu ngay không chồm phía trước, ngữa phía sau, không ngồi bó gối, không gác chéo, gác ngang, gác lên bàn, cũng không nương tựa bất cứ nơi nào.
- Nằm theo thế kiết tường, nghiêng bên phải, luôn không sái thời.
- Khẩu không nói vọng ngữ, thêu dệt dù một việc rất nhỏ, không chưa nói đã cười hoặc vừa nói vừa cười, luôn nói lời hòa nhã từ tốn với mọi người, nói lời đúng như chánh pháp khiến cho mọi người kính tin Tam Bảo, phát nguyện tu trì.
- Ý thường thấy lỗi mình – không thấy lỗi người, không khinh người sơ tâm học đạo. Vì luôn luôn có chánh niệm.
Do sống trong tòng lâm, tự viện, nương với đại chúng, mọi sinh hoạt đều theo thiền môn thanh quy mà hành sự. Ban chức sự, thanh chúng giờ nào việc đó, ai có bổn phận nấy.
- Giờ công phu: khi nghe hiệu lệnh, không trễ nãi, pháp phục nhẹ nhàng trang nghiêm là tế hạnh, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền luôn hòa nhịp với đại chúng là tế hạnh, khi đi kinh hành chân bước nhẹ nhàng ngay thẳng là tế hạnh.
- Giờ thọ trai: kéo ghế ngồi cũng như đứng dậy không gây tiếng động là tế hạnh, không ăn mích lòng chúng là tế hạnh, không khua chén đũa, vật thực rơi đỗ là tế hạnh.
- Giờ chỉ tịnh: ngủ, thức đều đúng giờ là tế hạnh, không loạn đơn, gây tiếng động cho người bên cạnh là tế hạnh.
- Giờ tắm giặt và vệ sinh: sinh hoạt cá nhân biết tôn trọng kính nhường người là tế hạnh, tắm giặt không xối nước ồn ào trong phòng tắm, phòng vệ sinh là tế hạnh. Rời khỏi phòng tắm, phòng vệ sinh luôn sạch sẽ là tế hạnh. Phơi y phục không làm ước đồ đã khô của người bên cạnh là tế hạnh. Biết tiết kiệm điện nước, vật dụng của thường trụ là tế hạnh.
Được sống trong đại chúng, thân cận với bậc minh sư theo thiện tri thức nhắc nhở Tăng Ni giữ gìn giới luật đã thọ, tôn trọng thanh quy giúp ích cho Tăng Ni chúng ta tăng trưởng đạo hạnh trang nghiêm, oai nghi tế hạnh được vẹn toàn. Trong khế hợp với chân như, ngoài hiển bày được phạm hạnh của người xuất gia.
Khi hội đủ nhân duyên ra ngoài xã hội tùy nghi giảng kinh, thuyết đúng như chánh pháp, hoạt động từ thiện làm lợi ích chúng sanh, được mọi người mến mộ oai nghi, tế hạnh của Tăng Ni trẻ họ sẽ quay về nương tựa Tam Bảo, hộ trì chánh pháp khiến được lâu dài.
Thế là Tăng Ni đã lưu bố được dòng thánh pháp vào cuộc đời xuôi ngược, làm an lạc chúng hữu tình. Phật pháp ngày mai có hưng thịnh hay không! đều trông cậy vào Tăng Ni trẻ, lúc nói năng, động tịnh, tạo tác thi vi, tu trì hoặc im lặng đúng như chánh pháp. Trên thì có thể đền đáp được bốn ân nặng – Dưới có thể cứu giúp được ba đường khổ.
Ngày tháng qua mau nếu phạm hạnh không tròn, một khi mất thân người rồi thì bị đọa lạc trong chốn tam đồ muôn kiếp khó được lại, Tăng Ni hãy nỗ lực tinh cần hạ thủ công phu thì oai nghi, tế hạnh tự hiển bày, tâm luôn an trụ trong chánh niệm mới mong có ngày giác ngộ giải thoát. Nếu không được như thế thì Tăng Ni chúng ta chỉ là người phản bội lại chính mình cũng là lạm dụng hạnh nguyện cao cả của người xuất gia.
HT. Thích Minh Hiền.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).28/12/2011.
Khi Phật còn tại thế …
Một lần Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Phật : “Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, làm sao để chánh pháp của Như Lai được tồn tại lâu dài?”
Thế Tôn dạy : “Đức Phật nào có nói giới nói pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho chánh pháp được trụ lâu dài sau khi Như Lai diệt độ”.
Khi ấy Xá-lợi-phất thưa : “Bạch Thế Tôn! Tại sao con không thấy Ngài chế giới mà chỉ nói pháp?
Phật dạy : “Này Tôn giả! Ta biết thời phải làm gì. Nay chưa tới thời nên ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.
Vì thế, suốt 12 năm đầu, sau khi Phật thành đạo, Ngài đã không thuyết giới. Đến năm thứ 13, các pháp hữu lậu xuất hiện, bắt đầu xảy ra sai phạm trong chúng Tỳ kheo … Căn cứ vào đó Phật mới chế giới. Như người vá áo, không bao giờ vá vào những chỗ chưa bị rách. Đức Phật cũng không bao giờ quy định trước điều này, hay ngăn cấm điều kia khi đệ tử của Ngài chưa thật sự làm gì sai với Thánh đạo. Như vậy chứng tỏ rằng Phật chế giới không phải là để bó buộc đệ tử mình, mà chính vì con đường giải thoát và ngăn ngừa sự hư đốn của Tăng đoàn.
Giới luật Phật giáo bao gồm tại gia và xuất gia. Tại gia có Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện (mười giới). Xuất gia thì có 10 giới của Sa di và Sa di ni. Thức xoa ma ni thì có thêm 6 học giới. Tỳ kheo có 250 giới. Tỳ kheo ni có 348 giới. Bồ tát thì có 10 giới trọng và 48 giới khinh cho cả xuất gia lẫn tại gia.
Với mục đích ngăn ngừa các hành vi bất thiện, giới luật của đạo Phật đã được thiết lập trên tinh thần “tùy phạm tùy chế”, nên không có tính cách giáo điều ràng buộc. Vì vậy ý nghĩa về giới luật rất rõ ràng :
GIỚI: tiếng Pali là Sila, phiên âm là Thi la, có nghĩa là điều ngăn cấm do đức Phật chế định cho hàng đệ tử Phật dùng để ngăn ngừa tội lỗi của 3 nghiệp. Do vậy, GIỚI còn được định nghĩa là :
- Phòng phi chỉ ác : Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác.
- Biệt giải thoát : Giữ được giới nào, giải thoát được giới đó.
- Xứ xứ giải thoát : Nơi nào giới luật được tuân thủ thì nơi ấy cuộc sống được thanh thoát.
- Tùy thuận giải thoát : Hướng về con đường giải thoát.
- Thanh lương : Làm cho cuộc sống mát mẻ, thoải mái.
- Chế ngự : Có năng lực kiềm chế những việc xấu, ác.
LUẬT: Tiếng Phạn là Vinaya, phiên âm là Tỳ-nại-da, nói gọn là Tỳ-ni. Dịch nghĩa là điều phục (chế ngự, nhiếp phục) hay diệt (diệt trừ điều ác). LUẬT là những nguyên tắc do Phật quy định cho hàng Tỳ kheo áp dụng khi sống trong tập thể Tăng đoàn.
Tóm lại, GIỚI là điều răn, LUẬT là quy luật thi hành giới. Luật bao hàm cả giới còn giới chỉ là một bộ phận của luật. Tuy gọi khác nhau như thế nhưng tính chất vốn đồng nên có tên ghép là GIỚI LUẬT.
GIỚI LUẬT gồm có nhiều loại:
1. Giới Thanh văn : Đây là giới của hàng xuất gia, có công năng giúp giữ gìn bản thể thanh tịnh Tỳ kheo và phát triển sự hòa hợp Tăng đoàn, gồm các điểm sau:
+ Công dụng:
- Chỉ trì : Không làm việc bất thiện tức là hành trì. Đây chỉ cho các loại giới bản của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni
- Tác trì : Thực hiện các điều Phật quy định tức là hành trì. Đây chỉ cho các Kiền độ, các pháp Yết ma.
+ Tính chất:
- Tánh giới : Tính chất của sự việc. Nghĩa là việc đó nếu vi phạm thì có tội.
- Giá giới : Những điều ngăn cấm để khỏi dẫn đến phạm các trọng tội.
+ Qui cách: Giới chia làm 4 loại:
- Giới pháp: Những điều do Phật chế định
- Giới thể : Bản thể của giới. Giới này phát sinh lúc thọ giới Cụ túc khi có đủ 3 nhân tố: Giới tử chí thành, giới sư thanh tịnh và giới đàn trang nghiêm.
- Giới hạnh: Các hành vi của 3 nghiệp hoạt hiện ra ngoài phù hợp với giáo pháp.
- Giới tướng: Các tướng trạng của giới.
Thông thường các Luật sư đem chia giới bản của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni thành 5 thiên 7 tụ.
- Năm thiên : 1/Thiên Ba-la-di. 2/Thiên Tăng-già-bà-thi-sa. 3/Thiên Ba-dật-đề, 4/Thiên Đề-xá-ni. 5/Thiên Đột-cát-la.
- Bảy tụ : 1/Tụ Ba-la-di. 2/ Tụ Tăng-già-bà-thi-sa. 3/Tụ Thâu-lan-giá. 4/Tụ Ba-dật-đề. 5/Tụ Đề-xá-ni. 6/Tụ Aùc-tác. 7/Tụ Aùc-thuyết.
Ngoài ra còn phân chia qua các tên gọi :
- Khai : Mở ra.
- Giá : Ngăn lại.
- Trì : Tuân thủ.
- Phạm : Vi phạm.
- Danh : Tên gọi của giới.
- Chủng : Chủng loại của giới.
- Tánh : Tính chất của giới.
- Tướng : Tướng trạng của giới.
2. Giới Bồ tát : Giới này còn gọi là thông giới, tức gồm cả xuất gia và tại gia cùng ứng dụng tu tập để thành tựu tâm Bồ đề, cũng có các đặc điểm sau:
+ Tính chất : Được chia thành 3 loại gọi là Tam tụ tịnh giới. Đó là:
- Nhiếp luật nghi giới : Giới lìa ác (Nguyện dứt các điều ác).
- Nhiếp thiện pháp giới : Giới hành thiện (Nguyện làm các điều lành).
- Nhiêu ích hữu tình giới : Giới lợi tha (Nguyện làm lợi ích cho tất cả chúng sanh).
+ Khinh và trọng : 10 giới trọng và 48 giới khinh.
+ Ứng dụng : Chia thành 2 loại :
- Định cọng giới : Do tu thiền định, tự nhiên thân tâm thanh tịnh, giới hạnh đầy đủ, nghĩa là người tu thiền khi phát sanh hiệu quả, không cần giữ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.
- Đạo cọng giới : Do tu Vô lậu nghiệp phát sanh trí tuệ, không cần thọ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.
Ngoài ra giới của Phật chế còn có Biệt giới và Thông giới.
- Biệt giới : Như giới của hàng xuất gia là 10 giới Sa di, 250 giới Tỳ kheo… và giới của hàng tại gia là 5 giới.
- Thông giới : Là giới Bồ tát ai thọ cũng được.
3. Giới tại gia : Theo nguyên tắc của Phật giáo, để trở thành một Phật tử, yêu cầu mọi người phải phát tâm thọ nhận ba pháp quy y (Quy y Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng) và hành trì năm giới.
- Năm giới : Đây là bước đầu của sự tu học Phật pháp mà cả xuất gia và tại gia đều phải chấp hành. Bởi vì Năm giới là căn bản đạo đức làm người, là đức tính cơ bản của luân lý, là chiếc cầu nối đưa đến an lạc Niết Bàn. Đó cũng là yếu tố để xây dựng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã hội. Năm giới đó là:
1. Không được sát sanh.
2. Không được trộm cắp.
3. Không được tà dâm
4. Không được nói dối.
5. Không được uống rượu.

Năm giới này được ghi chép lại trong bài kinh Ưu-bà-tắc 128 thuộc kinh Trung A Hàm và đã được đức Phật đúc kết lợi ích của việc thọ trì năm giới qua bài kệ sau:
“ Kẻ trí sống tại gia,
Thấy địa ngục sợ hãi,
Do thọ trì Thánh pháp,
Trừ bỏ tất cả ác.
Không sát hại chúng sanh,
Biết rồi hay lìa bỏ,
Chân thật không nói dối,
Không trộm của kẻ khác,
Tri túc với gia phụ,
Không ái lạc vợ người,
Dứt bỏ việc uống rượu,
Gốc tâm loạn cuồng si.
Thường nên niệm chánh giác,
Suy nghĩ các pháp lành,
Niệm Tăng, quán giới cấm,
Do đó được hoan hỉ…”

- Mười giới : Trên nền tảng căn bản của năm giới, cũng y cứ nơi hành vi (thân), ngôn ngữ (khẩu), tâm lý (ý) mà đức Phật đã thiết lập pháp tu Thập thiện ( 10 giới) để nâng cao đời sống tâm linh, ý thức đạo đức cho hàng Phật tử tại gia. Thập thiện là:
+ Thân : Có 3 : Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm.
+ Khẩu : Có 4 : Không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm.
+ Ý : Có 3 : Không tham lam, không sân hận, không si mê.
- Bát quan trai giới : Để tạo điện kiện cho hàng Phật tử tại gia tập tu hạnh xuất gia trong một ngày một đêm 24 giờ, đức Phật đã dạy thọ trì 8 giới. Trong đó, 5 giới đầu là của hàng tại gia, chỉ trừ giới thứ 3 là đổi lại thành không dâm dục; 3 giới sau tương đương với giới Sa di (của hàng xuất gia) là không được nằm giường cao rộng lớn đẹp đẽ, không được trang điểm, thoa dầu thơm và múa hát hay xem múa hát, không được ăn phi thời.
Nói chung, Đức Phật chế giới không ngoài việc đem lại an lạc trong đời sống hiện tại và tương lai cho những ai có ứng dụng hành trì. Không phân biệt là xuất gia hay tại gia, nếu khéo nghiêm trì giới luật thì sẽ được những lợi ích sau:
1. Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh tấn.
2. Người có giới đức được tiếng tốt đồn xa.
3. Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc.
4. Người có giới đức khi chết tâm không rối loạn.
5. Người có giới đức sau khi mạng chung được sinh về thiện thú, thiên giới.
Ở các bộ Quảng luật (chỉ cho tất cả các bộ Luật trong Luật tạng) có nói đến 10 lợi ích của giới là:
1. Nhiếp phục Tăng chúng.
2. Triệt để nhiếp phục Tăng chúng.
3. Khiến cho Tăng chúng an lạc.
4. Nhiếp phục những người không biết hổ thẹn.
5. Khiến những người biết hổ thẹn cư trú yên ổn.
6. Khiến những người không tin khiến họ tin tưởng.
7. Khiến những người đã tin tăng thêm lòng tin.
8. Khiến dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại.
9. Giúp những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi.
10. Giúp cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Như vậy, giới luật là nền tảng để hành giả hoàn thiện nhân cách, trong sạch thân tâm, hóa giải phiền não, xây dựng Tăng đoàn, tận trừ mọi lậu hoặc. Người nào tha thiết chấp trì giới luật thì chính là giữ gìn sự an lạc hạnh phúc cho mình và tha nhân ngay trong hiện tại và tương lai. Ngược lại, người nào không nghiêm túc vâng giữ giới luật là tự mình gây tổn hại đến nguồn an lạc hạnh phúc ấy.
Về việc thọ trì giới luật, trong kinh Tăng Chi II, chương 7 Pháp, đức Phật có dạy: “ Biết vi phạm, biết không vi phạm, biết phạm nhẹ, biết phạm nặng, có giới luật, sống ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học pháp, chứng được không khó khăn, không mệt nhọc, không phí sức đối với bốn Thiền Tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí ngay trong hiệh tại, chứng ngộ, chứng đạt Vô lậu tâm giải thoát. Thành tựu bảy pháp này gọi là người trì luật.”
Nói tóm lại, để bảo hộ sự thanh tịnh trang nghiêm của Tăng đoàn, để gìn giữ bản thể của các Tỳ kheo cũng như để thiết lập một đời sống an ninh cho nhân loại, đức Phật đã tuyên bày giới luật. Giới luật có công năng là dứt đi nghiệp duyên, nghiệp nhân trong đường sanh tử. Không chỉ ở vị lai mà ngay trong đời sống hiện tại, nếu chúng ta vâng giữ giới pháp nghiêm cẩn thì cuộc sống sẽ an lành, thân tâm luôn thanh thản.
Tuy nhiên cũng nên hiểu cho đúng nghĩa của giới luật là không chỉ ngăn ngừa đều xấu ác mà còn thể hiện ở việc năng làm điều thiện. Tức là bên cạnh việc “chỉ ác”, mặt tích cực của giới luật phải là “tác thiện”.
Cho nên, là đệ tử Phật chúng ta phải thể hiện đúng vai trò của mình. Đối với hàng xuất gia thì phải “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, giữ gìn gia tài pháp bảo để hoằng dương chánh pháp. Đối với Phật tử tại gia thì song song với việc hộ trì Tam bảo, người phật tử còn phải thể hiện nếp sống mô phạm của hàng tại gia, góp phần xây dựng một gia đình hạnh phúc và một xã hội văn minh.
 Tâm Chơn
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).28/7/2011.
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: “Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng hàm thông tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỷ kheo độc trì, như vương bí tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận”. Dịch nghĩa: “Ba đời chư Phật đều nói ba tạng Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai tạng Kinh-Luận chung cả tại gia, xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỷ kheo gìn giữ, như tạng bí mật của vua, hàng ngoại quan không được biết đến. Nếu Sa di, bạch y mà xem trước, thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc tội ngang với tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết sức cẩn thận”.
Ý kiến này có lẽ bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển Luật Sa di: “Bất đắc đạo thính Ðại Sa môn thuyết giới”.
Thật ra, câu cảnh cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được nghe lén khi Tỷ kheo tụng giới; vì nghe lén là hành vi bất chính. Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp nhân của một vị Tăng thực thụ nên không được phép tham dự vào những sinh hoạt chính yếu của Ðại tăng như các việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v… Nếu người chưa thọ Cụ túc mà khoác áo cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỷ kheo, tham dự các pháp yết ma, bố tát, tự tứ thì phạm tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về sau không được thọ Ðại giới, hay giới Tỷ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền phương tiên (thủ tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi trong Tăng chúng: “Người chưa thọ giới Cụ túc đã ra chưa?”. Và khi được xác nhận trong Tăng không có người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến hành các pháp yết ma.
Như vậy, việc làm này rất chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ giới Cụ túc xem giới pháp của Tỷ kheo? Còn việc không cho Sa di, bạch y tham dự bố tát là có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm chư Tăng bố tát, có một người bạch y tham dự, sau đó, một Tỷ kheo phạm tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ kheo. Các Tỷ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: “Từ nay trở đi không nên cho bạch y và Sa di tham dự bố tát” (Ngũ phần luật, Ð.22, tr.123a).
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới. Nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ: “Nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư” (Nếu muốn hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng). Và một đoạn khác trong Luật Sa di, Ngài khuyến khích: “Tuy Tỷ kheo sự, Sa di đương dự tri chi” (Tuy là việc của Tỷ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Như vậy, thiết nghĩ quan điểm của Luật sư Châu Hoằng đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận như trường hợp ngài Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có người đã luận giải, nêu ra ba lý do:
1- Nếu Sa di xem trước giới luật Tỷ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn, sẽ sanh tâm thối thất, không dám thọ giới Cụ túc.
2- Nếu Sa di biết giới luật Tỷ kheo, khi họ thấy các Tỷ kheo thọ giới rồi mà không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm cấm giới, họ sẽ sanh tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỷ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích.
3- Khi đã biết trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm chí thành sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể.
Lý luận ấy mới nghe qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không ổn. Vì các lẽ: Thứ nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là những kẻ bạc nhược hết hay sao mà “thấy giới pháp nhiều sanh tâm thối thất?”; thứ hai, lẽ nào những người xuất gia lại quá kém phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, hễ “thấy Tỷ kheo phạm giới liền sanh tâm khinh rẻ?”; thứ ba, vấn đề giới tử đắc giới thể là do ba việc: “Giới sư thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới tử chí thành”, chứ đâu phải nhờ giới tử không biết trước giới luật mà đắc giới thể?
Quả thật lối lập luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giới pháp và giới luật. Ai cũng biết ngài Qui Sơn (771-833) định nghĩa người xuất gia: “Phàm là người xuất gia là mong cất bước đến chân trời cao rộng, hình dáng và tâm hồn khác với thế tục. Vì mục đích làm rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi”. Và các bậc cổ đức cũng đã nói: “Thế thượng phi trượng phu đại giải thoát hán, hà năng kham thủ?” (Trên đời này, nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải thoát, thì làm sao đảm đương nổi “sứ mệnh xuất trần”?).
Vả lại Luật dạy, vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người: về hình dạng thì sáu căn phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào, về tâm hồn thì phải là người hảo tâm xuất gia, có dũng khí kiên cường bất thối, chứ không phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà ca dao ta có câu “Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu”.
Ðúng ra, vì nhờ xem trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của giới là “phòng phi chỉ ác”, là “thuyền bè đưa người qua bể khổ”, nên họ mới sinh tâm khát ngưỡng, trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó làm mà các Tỷ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm tâm cung kính, chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỷ kheo khi đã hiểu rằng mọi người đều biết những giới luật mình đã lãnh thọ, thì càng phải nỗ lực hộ trì không dám buông lung, vì sợ thiên hạ phê bình.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy các nước Nam phương như Campuchia, Thái Lan…, mọi Phật tử đều biết giới luật của Tỷ kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường hay chỉ trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều kiện và tìm cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở thành phố ta có những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương Phật pháp. Nếu Phật tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách ngăn chặn hành vi phi pháp của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong sáng của đạo pháp.
Còn vấn đề này nữa, tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy Tỷ kheo, các chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy thật là vô căn cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực tế. Vì trong các giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di, không có một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỷ kheo hết. Ðành rằng chỉ có các Tỷ kheo thọ 250 giới, và các Tỷ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận tuân thủ giới pháp của mình, còn những người khác không ai có quyền bắt họ phải tuân thủ. Ðó là nói về trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thị, tìm hiểu với thiện chí hướng thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỷ kheo mà không vi phạm bất cứ điều khoản nào.
Giả sử một hội đoàn nào đó gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường tận điều lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Ðó là một việc làm hợp lý và có tinh thần khoa học.

Vả lại, Phật giáo là đạo công truyền chứ không phải bí truyền, là đạo trí tuệ chứ không phải giáo điều, lại càng không chấp nhận sự cuồng tín. Chính Ðức Phật đã bác bỏ quan điểm độc quyền của Bà La Môn cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà La môn mới có quyền đọc Thánh kinh Vệ Ðà. Phật còn dạy: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta”. Và một chỗ khác lại nói: “Chánh pháp được thuyết giảng giống như bàn tay mở ra, chứ không phải bàn tay nắm lại”. Hoặc nói: “Phật pháp là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ”. Chung quy cũng chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư tưởng và tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.
Hơn nữa, bàng bạc đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỷ kheo; như kinh Di Giáo, Phật dạy Tỷ kheo không được buôn bán đổi chác, không được mua ruộng tạo nhà, không được đào đất, đốn cây, không được coi ngày, xem tướng v.v… Như vậy toàn là giới cả, chứ có gì khác đâu. Vả lại ngày nay, kinh điển, giới luật được in ấn, phát hành rộng rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta xem giới cho được.
Hơn nữa, giá như ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp với đạo lý làm người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá trị, rồi chúng ta đem cất trên khám mà thờ, không biết trong đó nói gì, thì thử hỏi hành vi ấy là tôn kính hay bất kính đối với tổ tiên?
Ai cũng biết rằng tính chất của giới luật là “thanh lương”, nghĩa là mát mẻ, là “biệt biệt giải thoát”, tức là giữ được điều nào giải thoát được điều ấy, thế mà bảo rằng “người nào xem trước giới luật Tỷ kheo thì phạm tội ngang bằng tội ngũ nghịch” thì thực không còn biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng hóa ra quyển Luật Tứ phần là một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói kiểu ấy là chỉ nhìn vấn đề một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều người hiểu rành giới luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều; và những tội ác xảy ra hàng ngày làm cho chúng ta phải đau lòng chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
Ðành rằng công đức xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân trọng, chúng ta chẳng dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một cách tuyệt đối, không được tìm hiểu thấu đáo, thì chúng ta cũng không thể chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Ðức Phật dạy: “Khi nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin ngay, dù nó là Thánh điển”.
Thử hỏi, từ khi Ðức Ðạo sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến Tổ Châu Hoằng (1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị, không có điều gì phải thắc mắc, đến khi ngài Hoằng Tán (1611-1685) xuất hiện sau Tổ Châu Hoằng gần cả thế kỷ, đưa ra một câu nói khiến cho nhiều người hoang mang, thì làm sao chúng ta không bức xúc cho được?
Do vậy, chúng tôi mạo muội nêu vấn đề này ra thương xác ở đây là nhằm hai mục đích: thứ nhất là hy vọng trấn an được phần nào nỗi hoang mang của tầng lớp Tăng Ni trẻ, nhất là những người mới xuất gia, chưa thọ Ðại giới; thứ hai là để cho những ai tha thiết tìm hiểu giới pháp có thể nhận thức đúng đắn tinh thần giới luật mà đấng Ðại giác đã từ bi truyền dạy. Vì thế, tuyệt nhiên không hề có ý phê bình ngài Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy, chúng tôi cũng rất mong thỉnh thị các bậc tôn túc luật sư cao minh, và hy vọng nhận được sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có điều chi sai sót.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).28/12/2011.

Friday 16 December 2011

Người Xuất Gia
Người Xuất Gia
Viết bởi Thích Như Điển
Trước khi Đức Phật ra đời tại Ấn Độ cách đây 2.555 năm, Ấn Độ Giáo đã có mặt tại đó và hình ảnh người tu khổ hạnh, sống không có gia đình đã được người Ấn Độ thực hành cả mấy ngàn năm về trước nữa.

Khi Đức Phật thành lập Giáo Đoàn, kể từ khi chuyển pháp luân lần thứ nhất tại vườn Lộc Uyển thì Tăng Đoàn của Đức Phật sau đó đã lên đến 1.250 vị Khất Sĩ. Xuất gia thuở ấy là một danh dự. Vì Thái Tử đã bỏ ngôi báu đi tu và nhiều Hoàng Tử trong dòng họ Thích Ca cũng đã thể hiện điều đó như Ngài A Nan, Nan Đà v.v… Như vậy xuất gia không phải là trốn tránh thế gian, mà cốt tìm ra một chân lý thoát khổ để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi cảnh khổ của luân hồi sanh tử.
Người xuất gia thuở bấy giờ được định nghĩa là: „độc cư nhàn cảnh“. Nghĩa là ở riêng một mình nơi chốn vắng vẻ và trụ trong thiên nhiên tĩnh lặng ấy. Sau nầy khi thọ giới Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni; người xuất gia được gọi là người Khất Sĩ, kẻ bố ma và phá ác.
Điều ấy có nghĩa là người xuất gia lấy không gian trời đất làm nhà ở, lấy chúng sanh làm chỗ nương nhờ về thức ăn, đồ mặc. Còn giáo pháp giải thoát mới là con đường chân chính, mà người xuất gia cần phải tỉnh thức và dụng công thực hiện. Ngoài ra phải hàng phục những con ma bên trong lẫn những ma chướng bên ngoài và diệt trừ những niệm ác để tăng trưởng đạo tâm.

Đến khi Đạo Phật được truyền vào Trung Quốc ở thế kỷ thứ nhất, thì đời sống của Tăng Viện đã bắt đầu phát triển khá mạnh và tinh thần Đại Thừa Phật Giáo đã triển khai; cho nên chữ khất sĩ hay đi khất thực như tại Ấn Độ đã bắt đầu biến đổi, qua tư tưởng Đại Thừa. Nghĩa là có chấp tác, có làm việc, có tu học mới ăn cơm để sống; chứ không còn phải đi khất thực như tại Ấn Độ và các xứ Nam phương Phật Giáo khác.

Khi Phật Giáo đến Trung Quốc, ý nghĩa của chữ xuất gia được định nghĩa và thực hiện rộng lớn hơn để khế hợp với tinh thần của giáo lý Đại Thừa. Đó là ra khỏi nhà thế tục, ra khỏi nhà phiền não và ra khỏi nhà của 3 cõi. Nhà thế tục là nhà có gia đình vợ con, ông bà, cha mẹ. Nơi ngôi nhà đó, con người vẫn mãi trầm luân với sanh tử và luân hồi đau khổ; cho nên người xuất gia phải cắt ái ly thân. Đây là điều kiện tiên quyết mà đa phần các quốc gia theo Phật Giáo tại Á Châu vẫn còn gìn giữ.
Đó là đời sống độc thân, không bị ràng buộc bởi gia đình. Có gia đình không phải là việc xấu ác; nhưng nơi ấy phiền não, tục lụy, khổ đau và người xuất gia khó thể hiện tánh thoát tục được; cho nên cần phải ra khỏi. Điều quan trọng cuối cùng mà người xuất gia phải vượt khỏi 3 cõi. Đó là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Nếu còn sanh tử luân hồi; tức là còn quẩn quanh nơi 3 cõi và 6 đường nầy. Người xuất gia, ngoại trừ còn hạnh nguyện độ sanh, sau khi chết mới trở lại cõi nầy. Nếu không, đa phần họ an hưởng nơi cảnh giới giải thoát Niết Bàn hoặc cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.

Xuất gia là một công đức. Do vậy mà nhiều ông Vua của Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Nam Hàn, Tây Tạng đã bỏ ngôi báu để đi xuất gia học đạo. Nếu ngai vàng là một chốn quyền uy và danh vọng tột đỉnh và nơi đó không có khổ đau, tục lụy thì những ông Vua, bà Hoàng Hậu, Công Chúa đã không từ bỏ đời sống vinh hoa phú quý ấy để đi xuất gia. Cho nên trong kinh Kim Cang cũng như nhiều kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa nêu cao tính cách tối thượng của công đức qua việc xuất gia nầy.

Vào thế kỷ thứ 13, qua chủ trương của Ngài Shinran thuộc Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản, với tư tưởng „tức thân thành Phật“; bất luận là cư sĩ hay xuất gia, ai ai cũng có khả năng thành Phật trong đời nầy. Nên đời sống xuất gia của Tông Phái nầy không còn giữ tính cách độc thân nữa. Đến cuộc cách mạng của Vua Meji năm 1868 hầu như 90% Tăng Sĩ của Nhật Bản đã không còn giữ lại nếp sống độc thân; trong khi đó các nước Trung Hoa, Đại Hàn và Việt Nam vẫn còn giữ lại truyền thống nầy cho đến ngày hôm nay.

Một phần tại Tây Tạng; một phần nhỏ của Đại Hàn và phái Cổ Sơn Môn của Việt Nam vẫn có phái lập gia đình; nhưng xem ra người cư sĩ không nể vì lắm. Vì họ nghĩ rằng: xuất gia là phải thanh tịnh và không sống đời ràng buộc với ái tình. Vì đó là cái nhân của sinh tử.

Đạo Phật đến Đức thật đa dạng và qua nhiều truyền thống khác nhau. Có nhiều người Đức đã đến các nước Á Châu để xuất gia và thành tựu nhiều sự nghiệp như Ngài Nanapolika (?) người Đức tại Tích Lan, hay nhiều người Mỹ như Ngài Bodhi, người Úc A. Janta v.v… Tuy nhiên Phật Giáo tại Đức phải nên thể hiện là Phật Giáo của người Đức; chứ không nên rập theo hoàn toàn khuôn mẫu của các xứ Á Châu và làm giống như văn hóa tại xứ đó. Ngày xưa các vị Thầy Ấn Độ đến Trung Hoa và Tây Tạng hay Việt Nam v.v… họ mang tư tưởng của Đạo Phật đến đó và thổi vào các quốc gia nầy những tư tưởng giải thoát, lợi tha của Đức Phật và rồi một ngày nào đó họ cũng phải ra đi; nhưng cái còn lại ở những quê hương đó, là tinh hoa của Đạo Phật.

Tôi mong rằng tại Đức có được những người xuất gia có sắc thái của Đức rõ ràng qua nhân cách, giáo lý, hình ảnh chùa chiền và ngay cả những tượng Phật cũng nên tạc theo dạng của người Đức, thì đó mới chính là tinh thần hòa tan vào văn hóa nơi đây một ách thực tế.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).17/12/2011.
Nghĩ về

NĂM ĐỨC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA

(Luận văn tốt nghiệp)

GSHD: TT Thích Phước Sơn

Ni Sinh: Thích Nữ Lệ Thành

--- o0o ---

Mục lục

A.- DẪN NHẬP
B.- NỘI DUNG
1) Những điểm đặc trưng cho đời sống xuất gia.
2) Các cách học đạo của người xuất gia.
1) Phát tâm xuất gia, hoài bội đạo cố.
2) Huỷ kỳ hình hảo, ứng pháp phục cố.
3) Cát ái từ thân, vô thích mạc cố.
4) Uỷ khi thân mạng, tôn sùng đạo cố.
5) Chí cầu đại thừa, vị độ nhân cố.
C.- KẾT LUẬN
Sau lễ Tốt nghiệp, những “cánh y vàng” của Tăng Ni sinh khóa III -những người nhân danh “Như Lai sứ giả” lần lượt sẽ tung bay trên khắp mọi miền đất nước (cũng có thể là ở ngoài nước). Dĩ nhiên, tuỳ theo nhân duyên và hạnh nguyện, sẽ có những người ở những vai trò, vị trí khác nhau. Song, điều mà chư Tôn đức trong Ban Giám Hiệu cũng như chu Giáo Thọ Sư kỳ vọng nơi đàn hậu học thừa kế mạng mạch Phật Pháp này, phải chăng vẫn không ngoài một điều tâm huyết: “Hãy sống và hành xử xứng đáng với danh nghĩa người con họ Thích, người mặc pháp phục của đức Như Lai”?-Chạnh nhớ bốn năm qua, mỗi khi ủng hộ tài vật cho Tăng Ni Sinh tu học, hàng Phật Tử tại gia vẫn thường bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối trước “những cánh y vàng giải thoát” kèm theo những lời xưng tán: “Quý vị là rường cột của Phật Pháp, là bậc mô phạm của trời người, là ruộng phước lớn của nhân gian…”. Phải sống như thế nào để không cô phụ những niềm kỳ vọng ấy, những lời xưng tán ấy? Đó là một trong những điều băn khoăn của người sắp ra trường.
“Nghĩ về NĂM ĐỨC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA” là hình thức biểu hiện cho tấm lòng trân quý của người viết khi nghĩ đến “ phước điền của người mặc pháp phục” cũng là nơi gởi gắm nỗi niềm ưu tư của người viết khi nhìn lại hiện trạng tu học của mình cũng như của các pháp lữ đồng học với mình. Ôi! Trong thời đại khoa học tân tiến, có thể ít còn ai nghĩ đến việc “nhuộm cho y hoại sắc” nhưng đâu phải vì vậy mà “Năm phước điền của pháp y” trở thành những điều lỗi thời, lạc hậu, không cần được đoái hoài!
“Sống xứng đáng với danh nghĩa người con họ Thích” chính là lối hành xử ứng hợp với năm phước điền của pháp y (năm đức của người hảo tâm xuất gia). Viết về năm phước điền này, người viết chỉ mong gợi nhắc lại phần nào những cái cao đẹp của đời sống phạm hạnh nhằm tạo cơ hội để mình cùng chư pháp lữ “hâm nóng” lại sơ tâm xuất gia cũng tức là để làm phấn chấn lại cái chí “ xuất trần thượng sĩ”. Vẫn biết: đem ống tre nhỏ hẹp mà ngắm bầu trời thì không sao thấy hết những cái cao rộng. Dầu vậy, cái thấy ấy ít nhiều cũng mang lại chút vẻ tươi sáng, rỗng rang của bầu trời. Với khả năng và điều kiện giới hạn, người viết không có tham vọng soạn phẩm của mình hoàn chỉnh như ý muốn, chỉ mong người đọc cảm nhận nơi đây “một tấm lòng thành” mà hỷ xả cho những gì vụng về, sai sót.
Trước khi đi vào đề tài, xin được hướng về chư Tôn đức trong Ban Giám Hiệu, chư vị Giáo Thọ Sư (đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác thành giới thân tuệ mạng cho con) bằng tất cả tấm lòng thành kính niệm ân. Thật áy náy khi nghĩ đến sự truyền đạt của quý Ngài như những trận mưa to mà sự lãnh hội của con chỉ như “sức hút của một thân cây nhỏ” ! Soạn phẩm này ra đời nếu có được chút thành tựu gì, ấy là nhờ nơi công giáo dưỡng của chư Ân Sư; còn như có gì sai sót, ấy là bởi khả năng hạn chế của kẻ hậu học bất tiếu này. Kính mong được quý Ngài đại xá cho.
Sau cùng, xin thay lời kết luận bằng lời kệ pháp nguyện của cố Thượng tọa thượng MINH hạ PHÁT:
“Người xưa đại nguyện quyết xuất trần
Người nay nối gót quyết tròn nhân
Đem lại ĐẠO VÀNG SOI MUÔN NẺO
Chẳng uổng hôm nay có trong trần”
Kim Liên ni tự, ngày 25-12-1996
Soạn giả kính lễ
Cầm trên tay mảnh bằng Tốt nghiệp Phổ thông trung học, người học sinh thường cảm thấy phân vân, tam tâm lưỡng ý khi phải chọn lựa: nên thi vào Đại học nào? Hoài bão và sở thích có thể đã được u mang từ trước, nhưng còn: khả năng thực tại? điều kiện cho phép?... Thôi thì có vô số những vấn đề để ưu tư, để trăn trở. Thế nhưng, “đã nộp đơn rồi tức là mô hình sinh hoạt tương lai xem như đã sơ bộ phác thảo. Rồi khi bước chân vào giảng đường đại học, người đủ điều kiện và nghị lực thì không kể, với những sinh viên kinh tế gia đình yếu kém lại phải trọ học nơi xứ lạ quê người, đời sống vật chất thiếu trưóc hụt sau, những va chạm trong giao tế, những cú sốc trong đời thường… sức mạnh gì có thể giúp họ khắc phục những khó khăn để không phải “bán đồ nhi phế”? Dĩ nhiên, lời động viên của cha mẹ, lời khích lệ của thầy cô, lời an ủi của bạn bè… rất cần thiết trong lúc này. Dầu vậy, bên cạnh sự hỗ trợ tinh thần ấy, người sinh viên cần phải biết tự củng cố nghị lực cho chính mình. Có thể nói: phương pháp củng cố hữu hiệu nhất ban đầu như một mãnh lực vô hình giúp họ không chùn bước dẫu rằng đoạn đường trước mặt hãy còn nhiều chông gai trở lực
Cũng vậy, với Tăng Ni trẻ chúng ta, “SƠ TÂM XUẤT GIA” đóng một vai trò khá quan trọng. Nếu như bước ngoặt lớn trong đời người học sinh là ngưỡng cửa đại học thì bước ngoặt lớn trong đời người học đạo là ngày xả tục xuất gia. Ngày nào đây, với bầu nhiệt huyết “mong được đời cao thượng” ta đã dõng mãnh ct đứt những sợi dây ràng buộc của phàm tình để tự nguyện hiến mình cho đạo. Ngày nào đây, nơi Bảo điện tôn nghiêm, trước mặt Tôn đức, ta đã dâng tấc dạ chí thành của mình vào lời kệ phát nguyn:
“Huỷ hình thủ chí tiết,
Cát ái từ sở thân,
Xuất gia hoằng Thánh đạo
thệ độ nhất thiết nhân[1]
(Tạm dịch:
Huỷ hình, vẹn giữ tiết trong
Dứt tình thân ái, vào dòng Thích Ca
Xuất gia - sống kếp không nhà
Hoằng dương Phật Pháp, lợi tha muôn loài)
Ôi ! Cao đẹp và tuyệt vời thay chí nguyện của người xuất gia trong buổi đầu xả thân cầu đạo. Ta đã thao thức, đã chờ đợi bao năm tháng để có được ngày này. Bút mực nào tả hết tâm trạng của ta trong nhũng giờ phút thiêng liêng “quyển sử đời mình lật sang trang mới”. Từ đây, mỗi trang phải được viết trong trân trọng vì cuộc đời này là đâu còn là của riêng ta (lại cũng chẳng phải của riêng ai). Trong giới bổn sa di ni, ngài Độc Thể từng khuyên chúng ta, những hành giả sơ cơ nên chuyên tâm trau giồi tam vô lậu học tiến đến cửa ngõ Niết Bàn chính là để không cô phụ CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA BAN ĐẦU này. Cổ đức cũng từng nói: “Nhất niên Phật hiện tiền” nhằm đề cao sức mạnh của sơ tâm. Sơ tâm xuất gia chính là tiềm lực vô biên giúp ta kiên tâm trì chí trên cuc hành trình “vượt đường hiểm tìm đến nhà trân bửu”. Bởi vậy, để có thể sống xứng đáng với danh nghĩa người con họ Thích (Thích tử) thiết tưởng mỗi người chúng ta nên thường xuyên “hâm nóng” sơ tâm xuất gia của mình.
Có nhiều cách để “hâm nóng” sơ tâm (như nghĩ đến: ân Phật, ân Sư Trưởng, ân thí chủ, nỗi khổ sanh tử; hoặc tôn trọng tánh linh của mình v.v…). Ở đây, trong phạm vi tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng nhau hâm nóng sơ tâm bằng cách gợi nhắc lại “NĂM ĐỨC HẠNH CỦA NGƯỜI HẢO TÂM XUẤT GIA”


[1] Lời Kệ phát nguyện xuất gia
--- o0o ---
Mục Lục | Phần I | Phần II.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).17/12/2011.

Thursday 15 December 2011

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN

CỦA PHẬT


Nguyên tác Hán văn của Tinh Vân pháp sư

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch

và biên soạn thêm phần “Phụ Lục”

Nữ cư sĩ Tịnh Kiên hiệu đính



CHÙA LIÊN HOA

HỘI CƯ SĨ PHẬT GIÁO ORANGE COUNTY

PL.2549 (2005)




MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT

(Thập Đại Đệ Tử Truyện)

Nguyên tác Hán văn của Hòa Thượng Tinh Vân (Đài-loan)

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch, đánh máy và trình bày

Nữ cư sĩ Tịnh Kiên hiệu đính

Chùa Khánh Anh, Paris, France, in lần thứ nhất, 1994

Tu Viện Trúc Lâm, Edmonton, Canada, in lần thứ hai, 1999

(có thêm phần “Phụ Lục” do người dịch biên soạn)

Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam,

Nha-trang, Việt-nam, in lần thứ ba, 2004

Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Orange County,

California, USA, in lần thứ tư, 2005











LỜI NGƯỜI DỊCH

(nhân kì tái bản)


Mười vị tôn giả được nêu ra trong sách này, chỉ là những vị tiêu biểu nhất trong số đệ tử của Phật. Ngoài ra, còn có một số vị khác, xuất gia cũng như tại gia, cũng rất nổi tiếng, vì đã có những đóng góp quan trọng trong việc hoằng dương đạo pháp, từng được đức Phật và tăng chúng tán thán, như quí ngài Kiều Trần Như, Ma Ha Ba Xà Ba Đề, Cấp Cô Độc, v.v...

Thể theo lời yêu cầu của quí vị độc giả, trong kì tái bản này, chúng tôi soạn thêm phần “PHỤ LỤC” ở phía sau, để xin lược thuật cống hiến quí vị độc giả, cuộc đời một số vị đệ tử quan trọng khác của Phật (cả trong bốn chúng: tì kheo, tì kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ), mà chúng ta vẫn thường nghe tên.

Trong phần “Phụ Lục” này, về chúng tì kheo, chúng tôi sẽ đề cập đến ba vị đệ tử lớn của Phật mà chúng ta đều nghe tiếng, là các tôn giả Kiều Trần Như, Da Xá và Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp. Thêm vào đó, một người hầu cận rất trung thành của đức Phật hồi Ngài còn là một vị thái tử, là Xa Nặc, cuộc đời về sau của ông như thế nào, tưởng cũng là điều nên biết. Đặc biệt, đức Phật có một vị phản đồ vô cùng nguy hiểm là Đề Bà Đạt Đa, mà qua ông, chúng ta sẽ thấy rõ đức độ cao tột của đức Phật. Bởi vậy, truyện của ông cũng được chúng tôi đề cập tới. Về chúng tì kheo ni, chúng tôi xin nêu lên hai vị có liên quan vô cùng mật thiết với tiểu sử của đức Phật, là hai ni sư Ma Ha Ba Xà Ba Đề và Da Du Đà La. Về chúng cư sĩ, trước hết chúng tôi xin giới thiệu với quí vị độc giả, vua Tần Bà Sa La, vị đệ tử đầu tiên của Phật trong hàng vua chúa, đã có những đóng góp lớn trong sự nghiệp hóa đạo của đức Phật; và sau đó, chúng tôi xin nêu lên một vị tiêu biểu trong giới cư sĩ nam và một vị tiêu biểu trong giới cư sĩ nữ, đó là ông Cấp Cô Độc và bà Tì Xá Khư, từng được coi là hai vị đại thí chủ của giáo đoàn, được chính đức Phật tán dương công đức.

Cũng thể theo lời yêu cầu của quí vị độc giả, trong lần tái bản này, chúng tôi sẽ chua thêm chữ Phạn (trong dấu ngoặc đơn, Sanskrit trước, Pali sau, hoặc chỉ một trong hai chữ đó) theo sau các nhân danh và địa danh quan trọng được nói tới trong sách. Ví dụ:

- Xá Lợi Phất (Sariputra - Sariputta)

- Già-da (Gaya)

- v.v...

Khi cuốn sách này ra đời, nó đã được quí vị độc giả đón nhận một cách rất hoan hỉ. Điều đó cho thấy, cuộc đời của chư vị thánh chúng đã được mọi người con Phật tỏ lòng kính ngưỡng trọn vẹn, và lấy đó làm tấm gương cao đẹp cho chí hướng tu học của mình. Nhưng đời sống thánh thiện ấy không phải chỉ có ở một chúng tì kheo, mà còn có cả ở ba chúng kia. Đó là lí do chúng tôi soạn thêm phần “Phụ Lục” cho kì tái bản này.

Chúng tôi xin chân thành cám ơn tất cả quí vị đã giúp cho các ý kiến quí báu để đưa đến quyết định tái bản cuốn sách này.

Chúng tôi đã soạn phần “Phụ Lục” trong một hoàn cảnh vừa thiếu thốn tài liệu tham khảo, vừa eo hẹp về thời giờ và khả năng; cho nên không thể nào tránh khỏi các sai sót. Kính mong các bậc cao minh chỉ giáo cho.


Trân trọng,

Thành phố Edmonton, Canada

Đầu xuân năm Kỉ Mão (1999)


Hạnh Cơ - Tịnh Kiên









LỜI NÓI ĐẦU



Lịch sử Phật giáo bắt đầu với đức Giáo chủ, Phật Thích Ca Mâu Ni, đản sinh tại Ấn-độ cách nay đã 26 thế kỉ.

Bán đảo Ấn-độ vào thời đó gồm rất nhiều vương quốc; và nếu so sánh với các vương quốc rộng lớn, hùng mạnh nằm dọc theo sông Hằng, như Ma-kiệt-đà (kinh đô là Vương-xá), Kiều-tát-la (kinh đô là Xá-vệ), Bạt-kì (kinh đô là Tì-xá-li) v.v..., thì quê hương của Phật, vương quốc Thích-ca (kinh đô là Ca-tì-la-vệ), chỉ là một nước nhỏ nằm thật xa ở phía Bắc, tận chân núi Hi-mã-lạp.

Các vương quốc rộng lớn kia, không những bề thế về đất đai, phồn thịnh về kinh tế, hùng mạnh về binh bị, phát triển về văn hóa, mà còn là những địa bàn hoạt động rộng rãi, phong phú, nhộn nhịp của tôn giáo. Đó chính là vùng trung tâm điểm của đạo Bà la môn. Đó cũng là trung tâm của những trào lưu tư tưởng cấp tiến đối kháng lại Bà la môn truyền thống thời bấy giờ. Những vị lãnh tụ tôn giáo tiếng tăm lừng lẫy lúc đó như Uất Đầu Lam Phất, A La Lam, A Tư Đà, San Xà Da v.v... đều có đạo tràng lớn tại vùng này.

Trong khi đó, nói đến vương quốc Thích-ca thì ít người biết đến! Bởi vậy, nếu thái tử Tất Đạt Đa có nổi tiếng thì cũng chỉ nổi tiếng trong phạm vi vương quốc của mình, hoặc xa hơn thì đến nước láng giềng (quê ngoại của thái tử) là Câu-lị mà thôi. Đó cũng là lí do tại sao mà thái tử, khi quyết định xuất gia, đã phải rời xa quê hương mình, xuống tận Bạt-kì và Ma-kiệt-đà (cách Ca-tì-la-vệ về hướng Đông Nam từ 200 đến 400 cây số đường chim bay) ở lưu vực sông Hằng để tìm thầy học đạo. Có thể nói, chính cái bầu khí đua nở nhộn nhịp nhưng hỗn tạp, lẩn quẩn của các trào lưu tư tưởng lúc đó, đã tác động và thúc đẩy mạnh mẽ thái tử phải tìm cho ra một con đường sáng, đúng đắn, đầy tin tưởng để hướng dẫn và làm nơi nương tựa cho mọi người.

Khi Phật đã thành đạo và thành lập giáo đoàn với năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên tại vườn Nai, mọi người dân Ấn vẫn chưa biết gì về Phật. Đến lúc giáo đoàn đông dần, và các vị đệ tử đầu tiên đã có đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi hành hóa các nơi, thì người ta mới bắt đầu nghe nói đến “Phật”! Cho đến gần một năm sau, khi Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, và sau đó không lâu là Đại Ca Diếp, thì tiếng tăm của Phật mới thực sự vang khắp bốn phương, trong triều ngoài nội ai ai cũng biết!

Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn. Trong số đệ tử đó, dĩ nhiên là không làm sao tránh khỏi có những phần tử kém phẩm hạnh, nhưng chỉ là phần rất nhỏ, còn đại đa số, như ai cũng nhìn nhận, đều là những Phật tử chân chính, thuần thành, siêng năng tu học, nhiệt tình phụng sự chúng sinh. Chư vị tì kheo và tì kheo ni chứng quả A la hán, được liệt vào hàng thánh chúng có đến hàng ngàn, mà các vị cư sĩ tại gia chứng các quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm cũng không phải là ít!

Trong số thánh chúng đệ tử của Phật, không phải vị nào cũng có sở trường và hạnh nguyện giống nhau, mà mỗi vị đều có nét đặc biệt của riêng mình. Và khi nói đến điều này thì người ta thường nhắc đến “Mười Vị Đệ Tử Lớn (Thập Đại Đệ Tử) của Phật”.

Thật ra, khi còn tại thế, đức Phật đã không hề nói đó là mười vị đệ tử lớn nhất của Ngài, mà Ngài chỉ bảo rằng, vị này rất giỏi về phương diện này, vị kia xuất sắc về phương diện kia... mà thôi. Kinh Tăng Nhất A Hàm có ghi một danh sách các vị đệ tử đứng đầu giáo đoàn về từng phương diện khác nhau, do chính đức Phật xác nhận, ví dụ: A Nhã Kiều Trần Như có pháp lạp cao hơn hết; Xá Lợi Phất có trí tuệ siêu việt nhất; Mục Kiền Liên thần thông bậc nhất; Nan Đà giữ gìn sáu căn cẩn trọng nhất; v.v... Danh sách ấy gồm cả thảy 41 tì kheo, 13 tì kheo ni, 11 cư sĩ nam và 10 cư sĩ nữ. Con số “mười vị đệ tử lớn” này là do người đời sau chọn lựa. Bởi vậy, đã có nhiều danh sách khác nhau về “Mười Vị Đệ Tử Lớn”, nhưng danh sách sau đây được coi là thông dụng nhất: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nan, Ưu Ba Li, A Na Luật, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề và La Hầu La. Có thể nói, đó là mười vị đệ tử tiêu biểu nhất của đức Phật. Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoằng pháp độ sinh, làm cho Phật pháp hưng thịnh trên khắp lãnh thổ Ấn-độ thời đó, và còn lưu truyền mãi đến ngày nay.

Nhìn vào số đệ tử của Phật, xuất gia cũng như tại gia, mà tiêu biểu là mười vị thánh chúng ở trên, chúng ta sẽ thấy rõ đức bao dung, tâm bình đẳng và tình thương yêu bao la của Ngài đối với mọi người. Ngài như biển cả, nước của trăm sông đều chảy vào đó. Chỉ trong số mười vị đó thôi, chúng ta cũng thấy họ đại diện cho đủ mọi thành phần trong xã hội: A Na Luật, A Nan, La Hầu La vốn là các vương tử, vương tôn, thuộc giai cấp vua chúa đầy quyền uy thống trị; Đại Ca Diếp, Ca Chiên Diên xuất thân từ những gia đình thuộc giai cấp bà la môn, danh phận cao trọng tột bậc, giàu có nhất nước; Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đã từng là những nhà học giả lỗi lạc, lãnh tụ của một hệ phái ngoại đạo, dưới trướng có hàng trăm đồ chúng; Phú Lâu Na, Tu Bồ Đề sinh trong những gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ; và sau hết là Ưu Ba Li, xuất thân từ giai cấp nô lệ, nghèo khổ, thất học. Tất cả mười vị, từ gia sản, trình độ, đến danh phận, địa vị trong xã hội của họ thật khác nhau, nhưng khi đã hòa nhập vào nếp sống tăng đoàn thì tất cả đều bình đẳng. Tất cả đều một mực tôn kính đức Phật và cùng tôn kính nhau, đều nỗ lực tu tập, đều đạt được những địa vị tôn quí, và đều được mọi người kính ngưỡng. Qua phẩm hạnh của quí ngài, từng hành vi, lời nói, cách cư xử, cũng như nhiệt tình của quí ngài đối với chúng sinh, chúng ta có thể thấy rõ được nhân cách cao thượng của Phật cùng tình thương rộng lớn của Ngài đối với chúng sinh. Cho nên có người đã nói, muốn hiểu đức Phật, cách tốt nhất là hãy nhìn vào cuộc đời của ít ra là mười vị đệ tử lớn của Ngài!

Sự tích của mười vị tôn giả được ghi chép rải rác trong các kinh truyện Nam truyền cũng như Bắc truyền, và từ lâu đã được hòa thượng Tinh Vân, một ngôi sao bắc đẩu của Phật giáo Trung-hoa Dân-quốc hiện đại, sưu tập, đúc kết và viết thành sách Thập Đại Đệ Tử Truyện (nhà xuất bản Phật-Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984). Sách viết khá đầy đủ về cuộc đời của mười vị tôn giả. Mười cuộc đời là cả mười tấm gương sáng chói, tỏ rõ phẩm hạnh cao thượng cùng nhiệt tâm vì đạo pháp và vì chúng sinh của những Phật tử chân chính, mẫu mực, mà chúng ta chỉ cần học hỏi và tu tập theo được một phần nhỏ thôi, cũng đủ làm cho Phật pháp tồn tại ở thế gian.

Đọc truyện của quí vị tôn giả, chúng tôi vô cùng xúc động, tưởng như các ngài đang hiện tiền trước mặt, đang theo chân Phật hành hóa đâu đây... Để tỏ lòng biết ơn sâu xa cũng như lòng kính ngưỡng công đức vô lượng của các ngài, và đồng thời vì lợi ích chung, chúng tôi xin đem sách Thập Đại Đệ Tử Truyện của hòa thượng Tinh Vân, dịch ra tiếng Việt để chia sẻ cùng quí vị Phật tử Việt- nam. Rất mong cuốn sách này sẽ giúp ích phần nào trong công phu tu học của tất cả chúng ta.


Kính cẩn,

Thành phố Edmonton, Canada

Trung Thu Giáp Tuất (1994) - PL. 2538

Hạnh Cơ - Tịnh Kiên
















Tôn giả XÁ LỢI PHẤT

(Sariputra - Sariputta)

(vị thượng thủ có trí tuệ siêu việt nhất)

_________________________________________




1. TRƯỚC VÀ SAU KHI RA ĐỜI


Thành Vương-xá (Rajagrha - Rajagaha) là kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha), ở miền Nam Ấn-độ. Cách thành này chừng vài dặm, có một thôn trang tên là Ca-la-tí-noa-ca (Nalaka), rừng trúc xinh tươi, non xanh nước biếc, cảnh trí thật là u nhã. Đó là quê hương của tôn giả Xá Lợi Phất, vị đệ tử có trí tuệ lớn của đức Phật.

Xá Lợi Phất được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng Bà la môn. Thân phụ của tôn giả đã từng là một luận sư nổi tiếng của đạo Bà la môn. Thân mẫu tôn giả, trong thời gian mang thai tôn giả thì tâm trí trở nên linh mẫn khác thường, đến nỗi, ông em ruột của bà là Câu Hi La (Kausthila - Kotthita), vốn dĩ cũng là một tay nghị luận cự phách đương thời mà cũng phải chịu thua bà. Bởi vậy, ông rất lấy làm hổ thẹn, phải bỏ nhà mà đi. Ông biết rằng, chị mình đã chịu ảnh hưởng của cái bào thai, và đứa bé đang nằm trong bụng mẹ kia, sau này nhất định sẽ là một bậc có trí tuệ hơn người; nếu mình không cố công học hỏi thêm thì thế nào cũng phải thua kém đứa cháu ấy, rồi người ta cười cho thì sao! Cho nên sau khi rời khỏi nhà, ông đã đi khắp nơi tìm các bậc minh sư để cầu học. Ông chuyên cần cho đến nỗi móng tay mọc dài mà không có thì giờ để cắt, khiến cho ai ai cũng gọi ông là Trường Trảo phạm chí (Dirghanakha - Dighanakha – ông thầy tu móng dài). Về sau, nhân thấy Xá Lợi Phất qui y làm đệ tử Phật, ông cũng xuất gia theo Phật làm sa môn.

Khi lên tám tuổi, Xá Lợi Phất đã làu thông kinh sử. Lúc bấy giờ, ở nước Ma-kiệt-đà có hai anh em Cát Lợi và A Già La, đều là hàng trưởng giả. Một hôm, họ thết tiệc lớn khoản đãi quốc vương, thái tử, các vị đại thần, cùng các vị luận sư. Trong phòng bày tiệc, tất cả chỗ ngồi của khách đều được qui định rõ ràng, tùy theo thân danh và địa vị từng người; thế mà cậu bé tám tuổi Xá Lợi Phất kia, không biết sợ sệt ai hết, đã dám ngang nhiên leo lên chỗ ngồi cao quí dành cho các vị luận sư để ngồi. Lúc đầu, các vị đại thần và luận sư thấy thế thì cứ cho Xá Lợi Phất vì còn là con nít không biết gì, cho nên không thèm nói năng gì tới, lại còn cho đám đệ tử trẻ tuổi của họ đến chơi với cậu; nhưng một lúc sau, nghe cách nói năng của Xá Lợi Phất rất là khác thường, ngôn từ rõ ràng, khúc chiết, nghĩa lí tinh tường, rành mạch, thì cả các quan đại thần, các vị đại luận sư đều lấy làm kinh ngạc, khen ngợi và bái phục; riêng quốc vương thì vô cùng hoan hỉ, liền truyền lịnh lấy ngay một thôn trang thưởng cho Xá Lợi Phất. Cậu thần đồng tám tuổi ấy thật đã làm rạng rỡ cho gia đình; và chính ngay thân phụ của cậu, vốn là một danh gia đương thời, cũng phải công nhận rằng sự thông minh tài trí của ông không thể sánh kịp

với đứa con cưng quí của mình.


2. BẬC THẦY CHÂN CHÍNH


Xá Lợi Phất lớn lên, trở thành một thanh niên cao lớn, nét mặt thanh tú, đôi mắt có thần, tay dài quá gối, được di truyền của thân phụ, cho nên cũng có cái phong độ của một nhà học giả trứ danh. Trong giới học thuật bấy giờ, không ai là không biết đến đại danh của chàng thanh niên hậu sinh khả úy đó.

Năm hai mươi tuổi, Xá Lợi Phất xin phép song thân đi du phương học đạo, tìm cầu chân lí. Đầu tiên, chàng đến xin học với một thầy Bà la môn tên là San Xà Da (Sanjayavairattiputra – Sanjaya-belatthiputta). Một thời gian sau, vì thấy San Xà Da không đủ khả năng làm thỏa mãn ước vọng của chàng, Xá Lợi Phất lại muốn từ giã thầy để đi nơi khác.

Lúc bấy giờ, trong số bạn học, có một thanh niên tên Mục Kiền Liên (Maudgalyayana - Moggallana), là người bạn tri kỉ duy nhất của chàng. Chàng bèn nói ý tưởng của mình cho Mục Kiền Liên biết, và Mục Kiền Liên cũng có ý tưởng giống như vậy. Hai người liền quyết định rời học viện của San Xà Da và tự mình chiêu tập đồ chúng để lập nên một học viện mới. Cả hai người đều tự cho rằng, trên thế gian không còn ai thông minh tài trí hơn họ, cho nên không còn ai có đủ tư cách và khả năng xứng đáng để làm thầy họ nữa.

Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, không những tuổi tác xấp xỉ bằng nhau, mà tư tưởng và trình độ học vấn cũng không khác nhau mấy. Cả hai người cùng có chí nguyện quyết tìm cầu chân lí. Họ thương kính nhau, ở cùng nhau, và cư xử với nhau thật vô cùng hòa hợp. Từ đây, họ chỉ cùng học hỏi với nhau và dạy dỗ đồ chúng ở trong học viện, ngoài ra, trong toàn cõi Ấn-độ, họ không còn thấy có bất cứ nhà học giả nào đáng kể dưới mắt họ. Cho đến một hôm Xá Lợi Phất bỗng nhìn thấy thầy A Thị Thuyết (hay A Thuyết Thị, A Xả Bà Thệ, Át Bệ, Asvajit - Assaji, là một trong năm vị tì kheo đầu tiên xuất gia làm đệ tử Phật, đã từng nhiều năm tu khổ hạnh, đến khi được nghe Phật dạy về giáo lí Bốn Sự Thật thì chứng quả thánh) trên một đường phố trong kinh thành Vương-xá...

Dáng vẻ của thầy A Thị Thuyết trông trang nghiêm làm sao! Mỗi cử chỉ đi, đứng của vị tì kheo ấy đều tỏ rõ oai nghi tế hạnh. Thoạt nhìn thấy, Xá Lợi Phất bỗng cảm thấy tâm hồn rúng động. Thật kinh ngạc, thật kì lạ không thể tả được! Không dằn được thắc mắc, Xá Lợi Phất liền bước đến trước mặt A Thị Thuyết, chào hỏi một cách cung kính:

– Xin lỗi ngài cho tôi hỏi thăm, ngài tên là gì và đang cư ngụ tại đâu?

Thầy A Thị Thuyết trả lời:

– Xin cám ơn ngài đã hỏi thăm. Tôi tên là A Thị Thuyết, đang cư ngụ tại tu viện Trúc-lâm (Venevana - Veluvana) ở phía ngoài kinh thành, cách đây không xa lắm. (Có thuyết nói rằng, lúc Xá Lợi Phất gặp đại đức A Thị Thuyết thì tu viện Trúc-lâm chưa được xây cất; đức Phật và chúng tăng đang cư trú trong một khu rừng ở ngoại ô phía Nam thành Vương-xá. – Chú thích của người dịch.)

– Bậc tôn sư của ngài là ai? Và thường dạy ngài những đạo lí gì?

– Thầy tôi là người thuộc dòng họ Thích Ca, người ta thường gọi Người là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thường dạy cho chúng tôi về chân lí của vũ trụ và nhân sinh, mà kẻ trí óc cạn cợt như tôi thì không thể nào hoàn toàn lãnh hội hết được. Giáo lí Thầy tôi thường giảng dạy mà tôi ghi nhớ nhiều nhất là như vầy:

Các pháp do nhân duyên mà sinh,

Và cũng lại do nhân duyên mà diệt.

Và Người còn dạy:

Tất cả các hành nghiệp đều là vô thường,

Đều là pháp sinh diệt.

Và một khi chấm dứt được sự sinh diệt,

Thì có được sự an lạc trong cảnh giới niết bàn tịch tịnh.

Thật tôi không biết diễn tả thế nào để nói lên được lòng cảm kích của chúng tôi đối với những lời giáo huấn của Thầy chúng tôi!

Xá Lợi Phất cảm thấy như trời long đất lở khi vừa nghe được danh xưng đức Phật cùng giáo pháp của Ngài do từ miệng thầy A Thị Thuyết nói ra! Như ánh sáng chói lòa của mặt trời chiếu ngay trước mắt, bao nhiêu đám mây nghi ngờ về các vấn đề vũ trụ nhân sinh tích tụ từ trước đến nay, bỗng dưng đều được quét sạch. Hai người đi với nhau thêm một quãng đường để đàm đạo. Đi bên cạnh vị tì kheo vừa mới gặp lần đầu mà Xá Lợi Phất cảm thấy như là bạn tâm giao đã lâu đời. Sau đó, Xá Lợi Phất xin cáo từ, và hứa với A Thị Thuyết thế nào cũng sớm đến tu viện để xin yết kiến đức Phật.

Xá Lợi Phất bương bả trở về học viện. Mục Kiền Liên xem thấy thần sắc Xá Lợi Phất sao mà khác thường, nét vui mừng hớn hở lộ ra trên mặt bạn hôm nay thật chưa từng thấy bao giờ! Bèn hỏi dò:

– Xá Lợi Phất! Sao? Có việc gì hứng thú lắm mà hôm nay trông bạn vui vẻ quá vậy?

– Mục Kiền Liên! Tôi mừng quá! Trong đời, đây là lần đầu tiên tôi thấy cao hứng như vậy! Này, tôi nói cho bạn biết nhé, tôi đã tìm thấy bậc tôn sư của chúng mình rồi!...

Mục Kiền Liên trố mắt:

– Này, đừng nói như vậy, trên đời này lại còn ai có thể làm thầy chúng ta nữa chứ!

– Có chớ, có! Đó là đức Phật! Tôi xin nhắc lại, đó là đức Phật!

Rồi Xá Lợi Phất đem tất cả những gì đã nghe được từ thầy A Thị Thuyết về đức Phật và giáo pháp của Ngài, nói lại cho Mục Kiền Liên nghe. Hai người bạn, một người thuật và một người nghe, trong giây phút quí báu ấy, đều vô cùng vui sướng, cảm động đến nỗi nước mắt chảy ràn rụa.

Pháp nhân duyên, người thường nghe đến thì không hiểu là gì, nhưng khi lọt vào tai của một người có trí tuệ và đang tìm cầu chân lí như Xá Lợi Phất thì khác hẳn. Ông cảm thấy như công phu tu học của mình trong bao nhiêu năm qua đều trở thành rỗng tuếch! Điều đó không sai, bởi vì, chỉ có người nào thấy rõ được nhân duyên thì mới thấy rõ được Phật pháp.

Liền ngay ngày hôm sau, Xá Lợi Phất đã cùng Mục Kiền Liên, dẫn theo hai trăm đồ chúng của họ, cùng đến tu viện Trúc-lâm xin xuất gia theo Phật. Đức Phật rất hoan hỉ, vì biết rằng, từ ngày thành đạo, đến nay mới có được hai người đệ tử đích thực có khả năng, có thể tiếp thọ chân lí do mình truyền đạt; trong khi đó thì Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng biết chắc chắn rằng, cho đến hôm nay mình mới đích thực có được bậc Thầy chân chính!


3. GIÁM ĐỐC CÔNG TRƯỜNG XÂY CẤT

TU VIỆN KÌ-VIÊN


Sau khi Xá Lợi Phất xuất gia theo Phật thì uy tín của tăng đoàn mạnh mẽ thêm lên. Tôn giả rất được Phật tin cẩn. Tôn giả đã là người đầu tiên được Ngài giao cho sứ mạng lên miền Bắc để giáo hóa, nhân tiện quản đốc công trình xây cất tu viện Kì-viên (Jetavana).

Nhắc lại, trong hai năm đầu sau ngày đức Phật thành đạo, công việc hoằng hóa của đức Phật chỉ mới phát triển ở khu vực phía Nam sông Hằng trong phạm vi các vương quốc Ca-thi (Kasi) và Ma-kiệt-đà. Lúc bấy giờ, ở kinh thành Xá-vệ (Sravasti - Savatthi) của vương quốc Kiều-tát-la (Kosala), thuộc miền Bắc Ấn-độ, có một vị trưởng giả tên là Tu Đạt (Sudatta). Nhân duyên cơ ngộ, một hôm, nhân xuống Vương-xá thăm người thân mà được diện kiến đức Phật. Vì lòng ngưỡng mộ, ông đã xin qui y Tam Bảo và thỉnh nguyện Phật cho phép ông được xây cất một ngôi tu viện ở kinh thành Xá-vệ quê hương ông để cúng dường Phật và tăng đoàn làm cơ sở tu học và hoằng pháp ở phương Bắc.

Sau khi dùng vàng ròng trải đất, mua được khu vườn cây của thái tử Kì Đà (Jeta) tại thành Xá-vệ, trưởng giả Tu Đạt liền trở lại Vương-xá xin Phật cho một vị tì kheo lên đó để trông coi công việc xây cất tu viện. Phật pháp đối với dân chúng Xá-vệ thật là mới mẻ. Nơi đó lại có đông đảo ngoại đạo hoạt động; cho nên người được cử lên đó không những phải đủ sức quán xuyến công việc xây cất tu viện, mà còn phải có đủ khả năng hàng phục ngoại đạo. Vì thấy rõ điều đó, đức Phật đã giao nhiệm vụ ấy cho Xá Lợi Phất, và tôn giả đã cùng với Tu Đạt lên đường đi về phương Bắc...

Đúng như đức Phật đã lượng định trước, công việc xây cất được khởi công không lâu thì ma nạn liền đến. Vì lòng đố kị, vì lo sợ Phật giáo bành trướng, rất đông giáo sĩ ngoại đạo đã cùng đến yêu cầu trưởng giả Tu Đạt hủy bỏ ý định xây tu viện để cúng dường Phật; không những thế, họ còn bảo Tu Đạt không được tin theo đức Phật nữa. Nhưng trưởng giả vốn đã đặt niềm tin sâu sắc nơi đức Phật rồi, thì dù cho ngoại đạo muốn nói năng thế nào đi nữa, ông cũng không đổi ý. Quí vị giáo sĩ ngoại đạo bèn thay đổi kế hoạch. Họ thách tôn giả Xá Lợi Phất công khai tranh luận với họ; vì họ tin rằng, với cách này, chắc chắn họ sẽ đánh bại được Xá Lợi Phất để cho Tu Đạt sáng mắt ra mà tỉnh ngộ. Khi biết được tin này, trưởng giả Tu Đạt lo sợ vô cùng. Ông nghĩ rằng, một mình tôn giả Xá Lợi Phất thì làm sao có thể thắng được số giáo sĩ ngoại đạo đông đảo như vậy! Ông bèn đến yết kiến tôn giả để tỏ lộ tâm trạng lo lắng của mình; nhưng khi nghe điều ấy, tôn giả đã không chút gì tư lự, lại còn tỏ ra hết sức vui mừng, vì đối với tôn giả, đây mới chính là một cơ hội thật tốt để hoằng dương giáo pháp.

Ngày giờ và địa điểm mở cuộc tranh luận đã được ước định. Bên phía ngoại đạo cử ra vài mươi vị luận sư để đối chọi với chỉ một mình tôn giả Xá Lợi Phất.

Nên biết rằng, trong cuộc tranh luận này, về số lượng, tuy đại diện đức Phật chỉ có một mình tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng trên thực lực thì một Xá Lợi Phất ấy cũng đủ để đánh bại hàng ngàn, hàng vạn các vị luận sư ngoại đạo. Tôn giả là một vị đệ tử ít có ai sánh kịp trong số các đệ tử của Phật. Lại nữa, chúng ta hẳn còn nhớ, tôn giả vốn xuất thân từ một gia đình Bà la môn, mà tổ phụ và thân phụ đều là những bậc học giả, luận sư lỗi lạc trong giới Bà la môn. Ngay từ lúc nhỏ, tôn giả đã hưởng thụ được trọn vẹn cái di sản tinh thần đó của ông, cha, đã từng tinh thông mọi điển tịch ngoại đạo; lớn lên lại gặp cơ duyên xuất gia theo Phật và đã chứng quả thánh, thì còn chọn ai hơn được tôn giả để đối phó với ngoại đạo trong trường hợp này! Cho nên, không cần nói chúng ta cũng biết được rằng, tôn giả Xá Lợi Phất đã thắng quí vị luận sư ngoại đạo trong cuộc thử thách này. Có điều đáng nói, sau cuộc tranh luận công khai ấy, quí vị giáo sĩ ngoại đạo đã thấy rõ được chân lí, phá bỏ kiến chấp, đồng lòng xin tôn giả Xá Lợi Phất giới thiệu họ được gặp Phật và qui y theo Phật tu học. Cũng nhân cơ hội này mà rất đông đảo quần chúng được biết đến Phật pháp và đều xin qui y Tam Bảo. Riêng trưởng giả Tu Đạt thì vui mừng hớn hở, càng khâm phục tôn giả Xá Lợi Phất, ông lại càng cảm kích oai đức của Phật. Lúc đó, tuy đức Phật vẫn còn đang hành hóa ở phương Nam, mà ánh sáng chân lí đã rọi chiếu đến phương Bắc.

Công trình xây cất tu viện Kì-viên được tiến hành rất nhanh chóng. Theo đồ án do tôn giả Xá Lợi Phất thiết kế, tu viện gồm có mười sáu gian nhà rộng lớn dùng cho những sinh hoạt tập thể như giảng đường, hội trường; sáu mươi gian nhà nhỏ dùng làm phòng ngủ, phòng tĩnh dưỡng, phòng rửa mặt, kho chứa vật dụng v.v...; ngoài ra còn có các sân vận động, sân tắm, ao nước, v.v...

Một hôm, khi tu viện xây cất sắp xong, tôn giả chỉ lên hư không nói với Tu Đạt:

– Trưởng giả Tu Đạt! Hãy nhìn kìa! Trên không trung hiện ra những gì, ông thấy không?

Tu Đạt lấy làm lạ đáp:

– Thưa tôn giả, con có thấy gì đâu!

– À phải rồi, nếu dùng nhục nhãn thì không thể thấy được những cảnh này đâu. Bây giờ ông hãy nương vào thiên nhãn của tôi mà nhìn lại một lần nữa nhé!

– Thưa tôn giả, con đã thấy rồi. Con thấy có rất nhiều cung điện đẹp đẽ, trang nghiêm. Tu Đạt rất lấy làm sung sướng nói với Xá Lợi Phất như vậy.

– Đó là cung điện ở cõi trời Lục-dục, để dành cho ông đấy. Ở đây ông xây tu viện để cúng dường đức Phật dùng làm cơ sở hoằng pháp; dù tu viện chưa hoàn tất, nhưng cung điện dành cho ông ở cõi trời Lục-dục thì đã hoàn thành rồi.

– Thưa tôn giả, cung điện của cõi trời Lục-dục nhiều như thế thì về sau con nên ở cung trời nào tốt hơn?

– Ở cung trời Đao-lợi thì mạng sống rất dài, lại có ý thức và siêng năng trong việc tu hành Phật đạo, cho nên rất ít khi bị đọa lạc.

– Vậy thì trong đời tương lai con nguyện được sinh về cung trời Đao-lợi.

Trong lúc Tu Đạt nói lên lời ấy thì bao nhiêu cung điện khác dần dần biến mất, chỉ còn lại cung trời Đao-lợi là sáng rỡ huy hoàng. Tu Đạt thấy thế thì vô cùng vui mừng. Đó là việc có một không hai trong đời ông từ trước đến giờ.


4. TÂM ĐẠI THỪA KHÔNG THỐI CHUYỂN


Nói đến việc trưởng giả Tu Đạt, nhân xây cất tu viện cúng dường Phật mà có thể nương vào thiên nhãn của tôn giả Xá Lợi Phất để nhìn thấy được đến các cung trời, tưởng cũng nên nhắc lại trường hợp đặc biệt của cặp mắt Xá Lợi Phất trong một câu chuyện tiền thân của tôn giả cách sáu mươi tiểu kiếp về trước, khi tôn giả đang tu hạnh bồ tát.

Thuở đó, trong khi phát tâm tu hạnh bồ tát, Xá Lợi Phất đã rất chú trọng đến hạnh bố thí. Để thực hiện hạnh bố thí, Xá Lợi Phất không những phát nguyện giúp cho mọi người tài vật, nhà cửa, ruộng vườn, mà thậm chí còn hi sinh đến cả thân thể và tính mạng nữa. Tâm nguyện chân thành của Xá Lợi Phất lúc đó đã làm cảm động đến cả trời đất. Bấy giờ có một vị trời muốn thử tâm đạo của Xá Lợi Phất, bèn hóa hiện làm một gã thanh niên tuổi chừng hai mươi, đứng bên đường chờ Xá Lợi Phất đi ngang qua. Khi Xá Lợi Phất vừa tới trước mặt thì gã thanh niên liền khóc lóc kêu gào thảm thiết. Xá Lợi Phất thấy thế thì động mối thương tâm, bèn an ủi hỏi han:

– Này cậu! Có chuyện gì mà cậu đứng đây khóc lóc thảm thiết quá vậy?

– Xin ông đừng hỏi làm gì! Tôi dù có nói chuyện này với ông cũng chỉ vô ích mà thôi.

– Cậu ạ, tôi là kẻ tu hành, có tâm nguyện giúp đỡ những ai bị đau khổ. Chỉ cần cậu nói rõ cái hoàn cảnh bất hạnh của cậu, nếu khả năng tôi có thể làm được gì để giúp đỡ thì tôi tức khắc làm cho cậu vừa ý ngay.

– Tôi biết chắc chắn là ông không thể giúp gì được cho tôi đâu! Tài sản ở thế gian tôi không hề thiếu thốn, chỉ vì mẹ tôi bịnh quá nặng, không thể tìm thuốc chữa mà tôi đau đớn đến phải khóc lóc thảm thiết như vầy. Theo lời thầy thuốc bảo thì tôi phải đi tìm cho được một con mắt sống của một người tu hành đem về làm thuốc thì chứng bịnh hiểm nghèo của mẹ tôi mới chữa khỏi được. Tôi vừa đi vừa nghĩ, đến như con mắt sống của một người bình thường còn chưa dễ kiếm, huống hồ là của một người tu hành! Nghĩ đến điều khó khăn này, rồi nghĩ đến mẹ bịnh nằm trên giường, vừa rên siết vừa trông ngóng con mau đem con mắt về làm thuốc, mà lòng tôi đau như cắt...

– Cậu ạ! Không có gì khó khăn cả. Vừa rồi tôi đã nói với cậu về cái tâm nguyện của tôi. Tôi chính là một kẻ tu hành, và mắt của tôi đúng là mắt của một người tu hành. Tôi xin biếu cậu một con mắt của tôi để cậu đem về làm thuốc chữa bịnh cho bà cụ.

Gã thanh niên vui mừng nhảy nhót:

– Thật sao! Ông hoan hỉ cho tôi một con mắt sao!

– Bao nhiêu tài sản tôi đã đem bố thí cho người hết rồi. Tôi đang muốn tiến thêm một bước nữa trên đường tu hạnh bồ tát là bố thí đến thân thể tôi, nhưng khổ nỗi là chưa có ai cần tới. Hôm nay gặp được cậu tôi thật thấy mãn nguyện. Tôi vui sướng lắm và cảm ơn cậu vô cùng. Vậy cậu hãy dùng cách nào đó để lấy con mắt của tôi đi!

Nhưng gã thanh niên không chịu, nói:

– Không được đâu! Làm như vậy thì có vẻ như tôi cưỡng đoạt con mắt của ông. Tôi không dám. Ông đã tự nguyện cho tôi thì xin ông hãy tự móc nó ra trao cho tôi.

Xá Lợi Phất cho lời nói của gã thanh niên là có lí, bèn hạ quyết tâm, nén đau đớn, đưa tay móc con mắt bên trái ra, trao tận tay gã, và nói:

– Xin đa tạ cậu đã giúp tôi hoàn thành tâm nguyện. Cậu hãy đem con mắt này về nhà đi!

Gã thanh niên đưa tay tiếp lấy con mắt do Xá Lợi Phất trao cho, nhưng bỗng hét to:

– Thật là đồ vô dụng! Tôi đâu có bảo ông móc con mắt bên trái làm gì! Bịnh của mẹ tôi, theo thầy thuốc bảo, phải dùng con mắt bên phải mới được!

Nghe thế, Xá Lợi Phất lại cho mình quả là đồ vô dụng. Ông tự trách mình sao đã không hỏi trước cậu ta cho cẩn thận. Giờ thì đã lỡ rồi. Phát tâm thì phải cho trọn vẹn; cứu người thì phải hết lòng. Thế thì ta phải móc luôn con mắt bên phải cho cậu ta mới được! Ông bèn an ủi gã thanh niên:

– Cậu đừng giận! Vừa rồi vì tôi quá hấp tấp mà đã quên hỏi cậu trước cho rõ ràng. Tôi đã biết lỗi. Con mắt bên phải của tôi vẫn còn đây, để tôi móc ra đền lại cho cậu đem về làm thuốc chữa bịnh cho mẹ cậu.

Nói xong, Xá Lợi Phất lại cố nén đau đớn, móc luôn con mắt bên phải trao cho gã thanh niên. Tiếp lấy con mắt, không một lời cám ơn, gã lại còn đưa con mắt lên mũi ngửi ngửi, rồi ném mạnh xuống đất và mắng:

– Ông mà là người tu hành gì! Con mắt của ông sao mà hôi thúi khó ngửi quá thì làm sao có thể làm thuốc chữa bịnh cho mẹ tôi được!

Mắng xong, gã lại dùng chân đạp lên con mắt của Xá Lợi Phất. Lúc đó tuy không còn trông thấy gì được nữa, nhưng tai Xá Lợi Phất vẫn nghe biết rõ mọi chuyện. Ông đã nghe gã thanh niên kia mắng ông. Ông đã nghe tiếng chân gã dẫm đạp lên con mắt của ông đã cho gã. Ông than thầm: Chúng sinh thật khó độ; tâm bồ tát thật khó phát! Thôi ta cũng không nên vọng tưởng về việc tiến tu hạnh đại thừa nữa làm gì, mà hãy cứ theo con đường tự lợi cũ là hơn. Vừa nghĩ như vậy thì bỗng trên hư không xuất hiện rất nhiều thiên chúng, đồng thanh nói với Xá Lợi Phất rằng:

– Hỡi vị hành giả kia! Người không nên thối chí như vậy. Gã thanh niên vừa rồi chính là một vị trời hóa hiện để thử đạo tâm của người đấy thôi. Người hãy nên giữ vững tâm nguyện và hãy tinh tấn dõng mãnh hơn nữa trên đường tu hành!

Nghe mấy lời ấy, Xá Lợi Phất lại tự lấy làm hổ thẹn, tâm bồ tát lại phát sinh mạnh mẽ. Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, Xá Lợi Phất vẫn không thối chuyển trên đường tu học, cho đến hôm nay được gặp Phật là liền chứng thánh quả, có được thiên nhãn thông.


5. NHẬN THỨC ĂN KHÔNG TRONG SẠCH


Xá Lợi Phất xứng đáng là vị đệ tử hàng đầu của đức Phật. Tôn giả là bậc có trí tuệ hơn người, thần lực trội chúng, mà đối với đức Phật thì trăm điều đều y thuận, chưa từng làm trái lời dạy nào của Ngài. Bởi vậy, trong tất cả đệ tử, tôn giả là người được đức Phật tín nhiệm nhất.

Trong lần đầu tiên trở về thăm quê hương Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu) sau ngày thành đạo, đức Phật đã cho La Hầu La (Rahula) xuất gia theo tăng đoàn tu học. Chính Xá Lợi Phất đã truyền giới sa di cho La Hầu La. Đức Phật cũng đã bảo La Hầu La tôn Xá Lợi Phất làm thầy, phải luôn luôn kề cận để được tôn giả dạy dỗ cho.

Một hôm, sau khi La Hầu La theo Xá Lợi Phất đi khất thực trở về, đức Phật trông thấy nét mặt La Hầu La không được vui. Sau giờ ngọ trai, Ngài bèn gọi La Hầu La đến gần hỏi xem trong lòng có gì không vừa ý. La Hầu La cúi đầu thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thân phận con chỉ là một chú tiểu, lẽ ra thì không được nói lỗi lầm của bậc trưởng thượng, nhưng nếu không nói thì không ai hiểu được hoàn cảnh của bọn sa di chúng con.

– Ừ, có việc gì con cứ việc nói ra đi!

– Bạch Thế Tôn! Khi các bậc trưởng thượng dẫn chúng con đi thọ thực, quí vị thí chủ cúng dường cho quí ngài toàn thức ăn hảo hạng; còn với bọn sa di chúng con thì họ chỉ cho toàn những thức ăn quá tệ. Con nghĩ, thân thể của mọi người đều cần thức ăn giống nhau, đâu có phân biệt tuổi tác hay giới hạnh. Các bậc trưởng thượng của chúng con chỉ biết thọ dụng sự cúng dường của thí chủ mà không có lòng thương chiếu cố đến chúng con, đã để cho quí vị thí chủ sinh tâm phân biệt trong khi cúng dường.


– Chỉ một việc nhỏ như vậy mà con cũng không nhẫn được hay sao?

– Xin đức Thế Tôn thương xót mà không trách mắng con. Bạch Thế Tôn, ăn uống có đủ chất dinh dưỡng thì thân thể mới khỏe mạnh, khí lực mới tăng trưởng, do đó mà tâm mới an lạc để tinh tấn tu tập. Thực sự thì chúng con ngày nào cũng chỉ ăn toàn các thức ăn thiếu dinh dưỡng, cho nên thân thể ngày càng mệt mỏi, khiến cho tâm ý ít khi được chuyên nhất để hành trì hữu hiệu.

Đức Phật cũng thấy những điều La Hầu La nói là đúng sự thật, nhưng vẫn dạy:

– Này La Hầu La! Con rời bỏ hoàng cung đi theo tăng đoàn có phải là vì để nhận sự cúng dường chăng?

– Dạ không phải vậy, bạch Thế Tôn! Con gia nhập tăng đoàn là để học đạo tu hành.

– Vậy thì con đâu có cần gì phải nói về chuyện ấy. Nếu chỉ vì việc học đạo tu hành thì dù chúng ta có được thí chủ cúng dường chỉ một hột mè hay một hột bắp cũng vẫn là đầy đủ. Thôi con hãy lui đi, hãy lấy việc tu hành làm trọng, đừng để tâm đến chuyện ăn uống nữa!

Tuy đức Phật dạy La Hầu La như vậy, nhưng Ngài cũng thấy việc thí chủ cúng dường tăng chúng với tâm phân biệt là không phải. Bởi vậy, sau khi La Hầu La đi rồi, Ngài lại cho mời Xá Lợi Phất đến. Ngài dạy:

– Thầy Xá Lợi Phất! Hôm nay thầy đã nhận được các thức ăn không trong sạch, thầy có biết không?

Tôn giả nghe Phật bảo thế thì thất kinh, bèn chạy ra ngoài, đem bao nhiêu thức ăn vừa ăn xong cho ói ra hết, rồi trở vào thưa với Phật:

– Bạch Thế Tôn! Từ khi theo Thế Tôn xuất gia đến giờ, con luôn luôn y theo cách thức khất thực do Thế Tôn chỉ dạy mà hành trì. Con chưa bao giờ trái lời Thế Tôn để xin những thứ đồ ăn không trong sạch.

Tâm ý của tôn giả thế nào thì đức Phật đã thấy rõ, cho nên Ngài giải thích:

– Thầy Xá Lợi Phất! Như Lai biết rất rõ là thầy luôn luôn hành trì pháp chế khất thực thật đúng cách, nhưng đối với tinh thần hòa ái trong nếp sống tăng đoàn thì mình không nên chỉ biết có mình. Pháp chế luôn luôn phải bình đẳng, mà lợi lộc thì cũng phải chia sẻ đồng đều; hơn nữa, là bậc trưởng thượng trong chúng thì lúc nào cũng nên thương yêu và quan tâm săn sóc các thầy tì kheo nhỏ tuổi cũng như các chú sa di chưa trưởng thành! Một điều điển hình là trong lúc đi khất thực, quí thầy nên để tâm đến họ.

Nghe Phật dạy, Xá Lợi Phất đã hiểu rõ sự việc. Tôn giả rất cảm kích đối với lòng từ ái của Phật đối với các đệ tử, nguyện tiếp nhận, ghi nhớ và hành trì lời Phật dạy.


6. KẺ PHẢN BỘI PHẢI SỢ SỆT


Trong số đệ tử của Phật có một vị tì kheo tên là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), vốn là em họ của Phật. Khoảng mười năm sau khi theo Phật xuất gia, ông bị ma nghiệp làm mê muội tâm linh, đã phản bội đức Phật và tách rời tăng đoàn của Phật.

Một hôm sau giờ ngọ trai, đức Phật và chúng tăng cùng nghỉ ngơi trong giảng đường, bất ngờ, Đề Bà Đạt Đa đến yêu cầu Phật trao quyền lãnh đạo giáo đoàn lại cho ông ta. Đức Phật không chấp thuận. Ông bèn la hét giận dữ, nhưng Ngài vẫn yên lặng. Ông lại kêu gọi chúng tăng hãy đi theo ông ta. Lúc ấy, em của ông, tôn giả A Nan (Ananda), đứng dậy tiến đến trước mặt ông nói:

– Xin sư huynh đừng có vọng tưởng. Vì sư huynh là bậc huynh trưởng của tôi, nên khi nghĩ đến những tội lỗi nặng nề sư huynh đã tạo ra, nghĩ đến sự đọa lạc mà sư huynh phải chịu trong tương lai, tôi cảm thấy vô cùng xót xa. Đức Thế Tôn là bậc đại từ bi, một người như sư huynh thì đâu thể nào so sánh được. Nếu hôm nay mà có hai sư huynh Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây thì nhất định là sư huynh không thể buông lung như thế được...

Sau đó, với sự ủng hộ nhiệt tình của vua A Xà Thế (Ajatasatru - Ajatasattu), Đề Bà Đạt Đa đã dùng nhiều cách như uy hiếp, hoặc đem lợi lộc dụ dỗ, để níu kéo một số đệ tử của Phật đi theo ông; đó là những vị tì kheo mới xuất gia, nhẹ dạ, lòng tin chưa vững chắc, thấy có lợi lộc và uy thế của vua là đi theo.

Một hôm, nhân lúc các tì kheo đệ tử của Phật bỏ theo Đề Bà Đạt Đa và các đệ tử riêng của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp tại một nơi nọ, Xá Lợi Phất bỗng xuất hiện. Với một phong cách đầy uy lực và trang nghiêm, tôn giả nói với họ:

– Thưa quí huynh đệ! Tôi có mặt ở đây hôm nay cốt xin hỏi quí huynh đệ một câu: Quí thầy xuất gia tu hành là chính vì để thọ nhận sự cúng dường hay là vì sự tu học?

Tất cả đồng trả lời:

– Chỉ vì sự tu học, vì muốn thoát khỏi biển khổ sinh tử.

– Nếu đã như vậy thì tại sao quí huynh đệ không đi theo con đường chân chánh do đức Phật chỉ dạy, mà lại đem cái lòng tin thuần khiết, tôn quí của mình dâng cho kẻ hoàn toàn bị dao động bởi lợi dưỡng vật chất? Xin quí huynh đệ hãy tỉnh ngộ!

Trong khi tôn giả nói những lời ấy thì từ trên thân thể tôn giả xuất hiện muôn đạo hào quang sáng rỡ. Trong hào quang ấy lại hiện ra từ dung của đức Phật, khiến cho tất cả chúng tì kheo lạc lối ấy bỗng nhiên đều quì cả xuống và nói lên lời sám hối. Tôn giả bèn đưa tất cả trở về lại với tăng đoàn.

Đem lại sự hòa hợp cho tăng đoàn là một công lao vô cùng to lớn của tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật hết sức khen ngợi. Riêng Đề Bà Đạt Đa, ông không sợ đức Phật mà lại rất sơ. Xá Lợi Phất.

Về sau, vì tội nghiệp quá thâm trọng nên Đề Bà Đạt Đa phải đọa vào địa ngục. Vua A Xà Thế thì sớm biết ăn năn hối lỗi nên đã được cứu độ. Còn tôn giả Xá Lợi Phất thì càng được tăng đoàn kính trọng.


7. TIẾP NHẬN MỘT PHÁP MÔN

CỨU ĐỘ CHÚNG SINH


Một lúc nọ đức Phật ngự tại tu viện Kì-viên. Vì thương xót chúng sinh mãi phiêu bạt trong biển khổ sinh tử không nơi nương tựa, luân hồi trong sáu nẻo mà không biết được một nơi nào có an lạc hạnh phúc chân thật để quay về, cho nên Ngài muốn nói một pháp môn để cứu độ; đó là giới thiệu cõi Cực-lạc của đức Phật A Di Đà (Amita) và cách thức rất dễ hành trì để được vãng sinh về cõi ấy. Nhưng lại sợ những người có căn cơ thấp kém, tin không tới mà không chịu tiếp nhận, Ngài bèn quyết định chọn tôn giả Xá Lợi Phất làm đối tượng nói pháp. Trong số thính chúng lúc bấy giờ cũng gồm đủ những người có các căn cơ cao, vừa, thấp, nhưng vì Ngài biết rõ rằng, chỉ có vị đại trí tuệ ấy mới biết được cái cảnh giới thật thanh tịnh, thật trang nghiêm của cõi Cực-lạc, và mới có được lòng tin chân thật nơi đức Phật A Di Đà. Ngài dạy:

– Này Xá Lợi Phất! Cách thế giới của chúng ta thật xa về phương Tây, có một thế giới tên là Cực-lạc. Vị giáo chủ của thế giới ấy là đức Phật A Di Đà, hiện tại đang nói pháp. Thầy Xá Lợi Phất! Vì sao cõi đó tên là Cực-lạc? Bởi vì cõi đó cái gì cũng viên mãn, ở đâu cũng an lạc, không giống như thế giới Ta-bà có quá nhiều khiếm khuyết, quá nhiều thống khổ của chúng ta ở đây. Ở cõi nước ấy, nói về thiên nhiên thì đất đai bằng phẳng, sự vật dồi dào, trong sạch, ngay thẳng, đẹp đẽ; nói về nhân quần xã hội thì mọi thứ tiện ích và nhu yếu cho đời sống con người đều sẵn có đầy đủ, và người ta chỉ dùng đến khi nào cần thiết. Khắp cõi nuớc ấy, chỗ nào cũng như là đô thị với những kiến trúc đường hoàng, tề chỉnh, chỗ nào cũng là vườn hoa tươi đẹp muôn màu. Thầy Xá Lợi Phất! Chỉ cần nhất tâm trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà và siêng năng tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, vun trồng phước đức thì trong tương lai nhất định sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới ấy của Ngài. Chúng sinh ở thế giới Ta-bà này, nếu muốn thoát khỏi những khổ não của sinh tử luân hồi thì chỉ cần phát nguyện cầu được vãng sinh về thế giới đó. Như Lai đã từng bảo A Nan lễ bái đức Phật A Di Đà, và thầy ấy cũng đã từng thấy được từ quang của Ngài. Đại chúng hãy tin tưởng sâu sắc vào pháp môn khó tin mà Như Lai vừa nói ra; đó mới xác thật là con đường được cứu độ của chúng sinh.

Tôn giả Xá Lợi Phất hoàn toàn không có chút gì hoài nghi về những điều đức Phật vừa nói. Tôn giả và toàn thể đại chúng đều tin tưởng sâu sắc nơi pháp môn này.


8. ĐỨC NHƯỜNG NHỊN


Tôn giả Xá Lợi Phất, đối với giáo pháp của đức Phật thì một mực tin tưởng, tôn kính và thực hành; đối với công việc hoằng pháp thì hết sức chuyên cần; nhưng đối với cá nhân mình thì không bao giờ kể đến công lao; có những khen thưởng, lợi lộc gì cũng nhường cho người khác.

Một lần nọ đức Phật dẫn chúng tăng đi hành hóa. Lúc về đến thành Xá-vệ thì nhóm tì kheo thường được đại chúng gọi là lục quần tì kheo, đã cố đi thật lẹ để về tu viện Kì-viên trước mọi người. Họ tranh nhau chiếm hết các chỗ ngủ nghỉ tương đối tốt trong chúng, kể cả tịnh thất của tôn giả Xá Lợi Phất. Họ bảo: Đây là chỗ của đức Phật, thầy ta, ta có quyền cư trú. Hôm đó Xá Lợi Phất lại về rất trễ. Khi về đến tu viện, trông thấy tịnh thất của mình đã bị nhóm lục quần tì kheo chiếm ngụ, tôn giả không phiền hà gì cả, bèn ra gốc cây tĩnh tọa suốt đêm đó. Sáng sớm đức Phật dậy, nghe tiếng ho húng hắng ở ngoài gốc cây, Ngài hỏi:

– Thầy nào ngoài đó? Sao không tĩnh tọa ở trong nội thất?

Tôn giả thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con là Xá Lợi Phất. Vì hôm qua số huynh đệ theo Thế Tôn về tu viện đông quá, các phòng ốc đều không còn chỗ trống nên con tạm nghỉ ở gốc cây một đêm.

Đức Phật nghe vậy thì khen ngợi tôn giả là người có đức nhường nhịn. Tuy vậy, Ngài cũng tập họp đại chúng để dạy bảo. Ngài hỏi:

– Này quí thầy! Trong giáo đoàn chúng ta, những ai xứng đáng được dùng giường tốt nhất, được hưởng thọ các đồ ăn thức uống ngon nhất?

Đại chúng đều trả lời khác nhau. Người thì cho là những vị tì kheo xuất thân từ hoàng gia quí tộc; người thì cho là những vị tì kheo xuất thân từ chủng tộc Bà la môn; người thì cho là những vị tinh tấn tu hành và chuyên cần bố giáo. Cuối cùng Phật dạy:

– Này quí thầy! Ngày xưa trong núi Tuyết có một con chim, một con vượn và một con voi cùng kết bạn sống chung với nhau. Tuy vậy, vì thân thể, sức vóc và trí khôn của chúng đều khác nhau, nên con nào cũng tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Về sau, cả ba đều tự biết như vậy là không phải, cho nên đã cùng thỏa thuận với nhau là con nào tuổi tác cao nhất thì được hai con kia tôn kính và nghe lời dạy bảo. Nhờ vậy, sau khi mạng chung, chúng đều được chuyển sinh về các cõi lành. Cũng vậy, nếu quí thầy biết tôn kính các bậc trưởng thượng thì chẳng những trong hiện tại được mọi người khen ngợi mà đời sau sẽ được sinh về các cõi lành. Này quí thầy! Trong giáo pháp của Như Lai không có các giai cấp cao thấp, nhưng có các vị trưởng lão mà pháp lạp cũng như giới lạp đều cao, đáng phải được đại chúng tôn kính, cúng dường, phụng sự và lễ bái. Chính những vị trưởng lão ấy mới xứng đáng được dùng giường tốt nhất, được hưởng thọ các đồ ăn thức uống ngon nhất.

Vì sao đức Phật dạy điều đó? Mọi người đều hiểu rõ. Tôn gia? Xá Lợi Phất cùng toàn thể đại chúng đều tỏ ra rất cảm kích về lời dạy ấy của Ngài.


9. HẾT LÒNG KHEN NGỢI

MỘT CÁI CHẾT THẬT ĐẸP


Tuy là một vị trưởng lão đã chứng quả thánh, nhưng tôn giả Xá Lợi Phất vẫn tỏ lòng kính trọng đối với quí vị phụ nữ đạt được thành quả cao quí trong việc tu học.

Một hôm, lúc đang ngồi thiền trong một khu rừng ở ngoại ô kinh thành Vương-xá, bỗng tôn giả nghe tiếng kêu lớn của ni sư Ưu Ba Tiên Na (Upasena) cũng đang ngồi thiền ở một hang núi gần đó. Tôn giả lập tức tìm đến nơi. Thấy tôn giả, ni sư thưa:

– Bạch thầy! Vừa mới đây, trong lúc đang ngồi thiền, con cảm thấy như có con gì đang bò trên người con. Mới đầu con không chú ý đến, nhưng sau thì con biết đó là một con rắn cực độc, và nó đã cắn con. Chắc chắn là con sắp chết. Trong thời khắc ngắn ngủi còn lại này, xin thầy hoan hỉ tìm cách mời quí thầy và quí ni sư trong vùng này đến đây cho con được từ biệt.

Trong lúc nói lên những lời này, ni sư Ưu Ba Tiên Na thật bình tĩnh, không hề hoảng hốt, đau buồn, như thể không có việc gì xảy ra. Xá Lợi Phất nghĩ là tình trạng không đến nỗi nào, cho nên nói:

– Tình trạng không đến nỗi nghiêm trọng đến thế đâu, ni sư ạ! Người bị rắn độc cắn thì sắc diện biến đổi ngay. Tôi thấy sắc diện của ni sư vẫn không có chút gì thay đổi.

– Bạch thầy! Thân thể con người là do tứ đại và ngũ uẩn tập hợp cùng các nhân duyên khác mà thành, nó không có chủ thể, vốn là vô thường, là không; đó là đạo lí mà con đã thể ngộ được. Vậy thì con rắn làm sao có thể cắn cái không được?

Xá Lợi Phất bấy giờ biết rõ là ni sư Ưu Ba Tiên Na đã thật sự đạt đạo. Tôn giả tán thán:

– Ni sư nói rất đúng; và như thế là ni sư đã thoát khỏi được sự đau đớn của thể xác, đã dùng huệ mạng của mình để duy trì sắc diện không biến đổi.

Nói xong, tôn giả tức tốc đi thông báo cho quí vị tì kheo và tì kheo ni đang tu tập quanh vùng. Họ liền tụ họp về hang núi, cùng dìu ni sư Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang. Lúc bấy giờ, nọc độc của rắn đã chạy khắp châu thân, tì kheo ni Ưu Ba Tiên Na, thần sắc vẫn an nhiên như không hề có việc gì xảy ra, liền nhập niết bàn. Đứng trước con người giải thoát đó, đại chúng đều hoan hỉ tán thán. Tôn giả Xá Lợi Phất nói với mọi người:

– Người tu hành điều phục được tâm ý thì xem cái chết của thể xác như đổ bỏ chén nước độc, như bịnh nặng được lành. Sắp chết mà tâm ý vẫn bất động, thần sắc vẫn an nhiên là vì người đã dùng con mắt trí tuệ để nhìn các tướng trạng của thế gian, đã vượt ra khỏi ngôi nhà lửa. Thật là tuyệt đẹp!

Lời tán thán của tôn giả Xá Lợi Phất dành cho tì kheo ni Ưu Ba Tiên Na cũng tức là cái nhìn của Phật giáo đối với sự chết. Những vị tu hành đạt đạo trong Phật giáo đều có cái nhìn đối với cái chết hoàn toàn giống nhau như vậy.

(Có sách nói, Ưu Ba Tiên Na là một vị tì kheo, em của tôn giả Xá Lợi Phất. – Chú thích của người dịch.)


10. LÒNG KHOAN THỨ


Ngày tháng trôi qua, tuổi ngày một cao, năm đó tôn gia? Xá Lợi Phất đã gần tám mươi. Tuy vậy, vì tâm nguyện hoằng pháp độ sinh vẫn mạnh mẽ, tôn giả đã không ngại tuổi già sức yếu, không quản gian nan khó nhọc, cho nên, sau khi khóa an cư mùa mưa vừa chấm dứt tại tu viện Kì-viên, tôn giả liền xin phép đức Phật đi du phương hóa đạo. Phật hứa khả, đồng thời khen ngợi trước đại chúng cái tinh thần vì đạo và vì người của tôn giả.

Tôn giả rời tu viện không bao lâu thì bỗng một vị tì kheo đến trước đức Phật thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Đại đức Xá Lợi Phất lần này đi vân du không phải với tâm niệm chân chính, không phải vì hoằng dương Phật pháp, mà chính vì đại đức đã khinh khi làm nhục con, rồi sinh ra hổ thẹn, không muốn nhìn thấy mặt con nữa, cho nên kiếm cách ra đi mà thôi.

Việc nói xấu người khác ở sau lưng như vậy đã làm cho đức Phật không hài lòng. Ngài bèn cho người tức tốc theo mời tôn giả Xá Lợi Phất quay về tu viện. Tôn giả vào thẳng giảng đường hầu Phật. Bấy giờ, trước mặt đông đủ đại chúng, Ngài hỏi tôn giả:

– Thầy Xá Lợi Phất! Sau khi thầy rời tu viện không lâu, có một thầy lên đây nói với Như Lai rằng, chính thầy đã khinh khi làm nhục thầy ấy, việc đó có thật không?

Tôn giả cung kính thưa:

– Bạch Thế Tôn! Từ khi con xuất gia theo Thế Tôn tu học, đến nay đã gần tám mươi tuổi. Con nhớ rất rõ, trong suốt khoảng thời gian này, con chưa từng sát hại một sinh mạng; chưa từng nói một lời hư vọng; ngoài việc tuyên dương chân lí ra, con chưa hề nói đến các chuyện lợi, hại, được, mất, hoặc bàn luận về sở trường hay sở đoản của bất cứ một người nào. Trong ba tháng an cư vừa qua, ngày ngày con đều sám hối, không hề để mất chánh niệm. Tâm con trong vắt như ngọc bích, không có một mảy may bất bình, thì có lí nào con lại dám khinh khi làm nhục người khác! Bạch Thế Tôn! Bùn đất quả thật là có đức nhẫn nhục. Bất luận là đồ vật dơ dáy đến thế nào, nó cũng không cự tuyệt; nó nhận tất cả những thứ như phân, nước tiểu, máu, mủ, đờm, dãi, v.v... như nhận thức ăn ngon ngọt. Tấm lòng của con đối với mọi người mà con xin bộc bạch trước Thế Tôn hôm nay, cũng giống như bùn đất vậy. Bạch Thế Tôn! Dòng nước trong kia, bất kể là đồ vật tốt xấu, nó đều rửa sạch; tấm lòng của con đối với mọi người không hề có niệm yêu ghét, giống như dòng nước kia vậy. Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét sạch rác bụi. Trong lúc quét, nó không lựa chọn rác tốt rác xấu. Tấm lòng của con đối với mọi người cũng như cây chổi vậy, không hề có niệm phân biệt. Bạch Thế Tôn! Tâm con thường xuyên an trú trong chánh niệm, quyết không thể khinh suất đến nỗi làm nhục thầy ấy. Trong khi con thưa những lời này với Thế Tôn thì con đã tự biết tâm của con thế nào; và chắc hẳn vị tì kheo kia cũng đã tự biết tâm của mình. Nếu quả thật là con có lỗi thì con sẽ xin sám hối trước thầy ấy để cho tâm con không bị ray rứt.

Bằng thái độ khiêm cung nhưng cương nghị, tôn gia? Xá Lợi Phất đã bày tỏ tấm lòng chân thành của mình đối trước đức Phật, khiến cho toàn thể đại chúng, không ai là không cảm động. Đức Phật bèn bảo vị tì kheo đã hủy báng Xá Lợi Phất:

– Thầy đã hủy báng một vị trưởng lão thì không thể không sám hối. Thầy đã có ý làm cho tăng đoàn khởi lên cuộc tranh luận, và như thế tức là thầy không có tinh thần xây dựng sự hòa hợp cho tăng đoàn. Nếu thầy không chân thành hối lỗi thì rồi đây sẽ phải chịu quả báo đau khổ không cùng.

Vị tì kheo kia nghe Phật dạy, vội vàng đến quì trước Phật, khẩn cầu:

– Bạch Thế Tôn! Đại đức Xá Lợi Phất quả thật là bậc cao thượng. Đối với một vị có trí tuệ và hùng lực như vậy mà con đã không biết hộ trì và học tập, lại còn đem lòng tật đố, xin Thế Tôn thương xót, cho con được cơ hội sám hối tội lỗi!

Một cách từ hòa, đức Phật bảo:

– Thầy hãy đến xin sám hối với thầy Xá Lợi Phất!

Vị tì kheo kia liền đến quì trước Xá Lợi Phất. Tôn giả lấy tay rờ đầu vị tì kheo và dịu dàng bảo:

– Trong giáo pháp của đức Thế Tôn, sự sám hối thật vô cùng hữu ích. Làm người ai cũng có thể lầm lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì đó là việc lành rất lớn. Hôm nay tôi chấp nhận sự sám hối của thầy, từ nay thầy đừng bao giờ phạm lỗi nữa!

Thái độ và ngôn từ của Xá Lợi Phất đã làm cho đại chúng hoàn toàn an lạc.



11. NHẬP KIM CƯƠNG ĐỊNH


Lúc ấy đức Phật ngự tại tu viện Trúc-lâm ở ngoại ô kinh thành Vương-xá. Một hôm tôn giả Xá Lợi Phất đang nhập định kim cương trong núi Kì-xà-quật (Grdhrakuta - Gijjhakuta) thì có hai con quỉ đến gần. Nguyên đó là hai con quỉ đang trấn thủ ở núi này, một con thì hiền lành tên là Ưu Ba Ca La và một con thì hung ác tên là Già La. Khi thấy Xá Lợi Phất đang ngồi nhập định, con quỉ dữ bảo con quỉ hiền rằng:

– Này Ưu Ba Ca La, ta muốn đánh nát đầu ông sa môn kia quá!

Quỉ hiền cản ngăn:

– Đừng nói bậy! Vị sa môn kia là đệ tử của đức Phật. Ông ta là người thông minh trí tuệ số một mà uy đức thần lực cũng cao thâm. Nếu ngươi có ý đồ xấu xa đối với ông ta thì trong tương lai sẽ vĩnh viễn trầm luân, chịu khổ báo vô lượng.

– Ngươi sợ sa môn lắm vậy sao! Chính sa môn là bọn dễ ăn hiếp nhất trên đời này. Để ngươi xem, chỉ một quyền này của ta là cái đầu ông ấy sẽ nát vụn như cám!

– Đúng như ngươi nói, ta rất sợ quí vị sa môn! Tuy họ là những người có thể ăn hiếp được, nhưng đó là vì họ tu hạnh nhẫn nhục. Mặc dù vậy, đức lực của họ uy mãnh vô cùng, nếu ngươi đánh họ, họ chỉ có thể bị đau đớn trong chốc lát, nhưng còn ngươi thì sẽ vĩnh viễn khổ đau...

Nhưng dù con quỉ hiền nói gì thì con quỉ dữ vẫn không thèm nghe theo. Nó liền vung tay, nhắm ngay đỉnh đầu tôn giả đánh xuống! Con quỉ hiền không dám nhìn, bèn ẩn thân đi mất. Nói thì chậm chứ cú đánh của con quỉ dữ lúc đó lẹ lắm. Tôn giả bỗng cảm thấy như có chiếc lá rụng trên đầu, bèn xả định, mở mắt ra thì thấy một con ác quỉ mình mẩy máu me dầm dề, và liền đó, nó đọa ngay vào địa ngục.

Tôn giả đứng dậy, y áo chỉnh tề, trở về tu viện Trúc-lâm bái kiến đức Phật. Thấy tôn giả, đức Phật hỏi:

– Thầy Xá Lợi Phất! Thân thể thầy có được an khang không?

– Bạch Thế Tôn! Con vẫn không có bịnh hoạn gì cả, mà chỉ cảm thấy hơi đau trên đầu mà thôi.

– Thầy Xá Lợi Phất! Hôm nay vì thầy nhập kim cương định nên quỉ Già La đã không thể đả thương

thầy được; nếu không thì, thầy biết không, một cái đánh của nó có thể chẻ hai núi Tu-di! Thế mới biết, thần lực của kim cương định lớn lao là như vậy, tất cả quí thầy nên tinh tấn tu trì.


12. XIN PHẬT CHO PHÉP

NHẬP NIẾT BÀN TRƯỚC


Lúc bấy giờ Phật đang ngự trong một khu rừng thuộc làng Trúc-phương, ở ngoại ô thành Tì-xá-li (Vaisali - Vesali). Hôm đó, sau thời pháp thoại, đức Phật đã thông báo cho toàn thể đại chúng biết rằng, trong ba tháng nữa Ngài sẽ nhập niết bàn. Lời thông báo đó của Ngài đã làm cho mọi người kinh hoàng, sửng sốt, và đau buồn cực độ. Riêng Xá Lợi Phất thì xót xa đến nỗi không muốn nhìn thấy đức Phật nhập niết bàn. Trong lúc thiền định, tôn giả quán niệm: Trong quá khứ, các vị đệ tử thượng thủ của chư Phật đều nhập niết bàn trước chư Phật. Ngày nay mình cũng là đệ tử thượng thủ của Phật, vậy mình cũng nên nhập niết bàn trước Phật.

Nghĩ thế, tôn giả bèn xuất định, đến quì trước đức Phật, thưa:

– Bạch Thế Tôn! Giờ đây con muốn nhập niết bàn, xin Thế Tôn hứa khả cho.

Đức Phật chăm chú nhìn Xá Lợi Phất, hồi lâu mới hỏi:

– Vì sao thầy muốn nhập niết bàn sớm vậy?

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã bảo, không còn bao lâu nữa Thế Tôn sẽ nhập niết bàn. Thế Tôn đã ban cho con quá nhiều ân đức lớn lao, làm sao con cầm lòng được khi nhìn thấy Thế Tôn nhập niết bàn! Vả lại, Thế Tôn đã từng dạy, trong quá khứ, các vị đệ tử thượng thủ của chư Phật đều nhập niết bàn trước chư Phật, thì con nghĩ, nay cũng vậy, đây chính là lúc con nên nhập niết bàn. Xin Thế Tôn từ bi hứa khả.

– Thầy muốn nhập niết bàn tại đâu?

– Bạch Thế Tôn! Làng Ca-la-tí-noa-ca là quê hương của con, nơi đó, thân mẫu con nay đã trên một trăm tuổi và vẫn còn khỏe mạnh. Con muốn về đó để thăm thân mẫu con lần cuối, sau đó con sẽ nhập niết bàn ngay trong căn phòng mà trước kia thân mẫu đã từng sinh dưỡng con.

– Thầy đã muốn thế thì Như Lai cũng không thể ngăn cản được. Có điều, thầy là đệ tử thượng thủ của Như Lai, vậy trước khi lên đường, thầy cũng nên có vài lời giáo huấn để lại cho đại chúng.

Đức Phật liền bảo tôn giả A Nan đi mời hết tăng chúng tập họp tại giảng đường. Khi đại chúng đã tập họp đông đủ, tôn giả Xá Lợi Phất hướng về đức Phật thưa:

– Bạch Thế Tôn! Từ vô lượng kiếp con đã mong cầu được sinh nhằm vào thời đại có Phật trụ thế, và cuối cùng, kiếp này con đã được mãn nguyện. Niềm vui mừng được gặp Phật của con thật trên đời không gì có thể so sánh được! Trong hơn bốn mươi năm qua, mong nhờ Thế Tôn từ bi dạy bảo mà một người ngu si như con đã mở được con mắt trí tuệ, thấy rõ được chân lí. Niềm hoan hỉ và lòng cảm kích của con đối với Thế Tôn thật không thể dùng ngôn từ của thế gian để diễn tả hết được. Giờ đây, không còn bao lâu nữa con sẽ từ giã cõi đời. Nhờ hưởng thọ nước pháp cam lộ của Thế Tôn mà con giải thoát được tất cả những ràng buộc của thế gian, không còn khổ não, và nhập vào cảnh giới niết bàn tự tại. Bạch Thế Tôn! Đó là mấy lời từ biệt của con, xin Thế Tôn cho con được đảnh lễ!

Tôn giả đảnh lễ đức Phật. Không khí trong giảng đường lúc bấy giờ thật nghiêm trang, trầm mặc... Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:

– Thầy Xá Lợi Phất! Tất cả những gì Như Lai đã giảng nói, thầy đều đã lĩnh hội. Bây giờ Như Lai thọ kí cho thầy: Trong đời vị lai, thầy sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, giáng thế giáo hóa chúng sinh để hoàn thành đạo quả vô thượng.

Đức Phật nói xong liền bảo đại chúng tiễn tôn giả Xá Lợi Phất lên đường. Chư tăng đều cầm hương hoa tiễn đưa tôn giả. Họ đi thành hàng, thật yên lặng, thật trang nghiêm, nhưng cũng thật buồn! Hầu như không ai cầm được nước mắt...


13. NHỮNG LỜI SAU CÙNG

VỚI ĐẠI CHÚNG


Đại chúng yên lặng đi theo tôn giả Xá Lợi Phất được một khoảng đường thì tôn giả dừng bước. Đại chúng cũng dừng bước theo. Tôn giả xoay mặt lại đối trước đại chúng, cung kính nói:

– Tôi xin cảm tạ tất cả đại chúng. Quí vị tiễn tôi đến đây như vậy là đủ rồi. Bây giờ xin phép quí vị chỉ cho một mình chú Quân Đầu theo tôi, còn tất cả quí vị xin trở lại tu viện để tiếp tục tu học. Thưa đại chúng! Việc tu học là thiết yếu hơn hết, tôi hi vọng quí vị luôn luôn nỗ lực, tinh tấn để chóng thoát khỏi những ràng buộc của ưu bi khổ não và nhập vào thế giới của tự tại, giải thoát. Đức Thế Tôn xuất hiện ở thế gian cũng giống như bông ưu bát la nở hoa, hàng mấy ngàn năm mới có một lần. Được sinh làm người đã là việc khó, mà được có lòng tin chân chính, chắc thật, tinh khiết, thuần thành nơi Tam Bảo lại càng khó hơn. Nay chúng ta đã được sống đời xuất gia phạm hạnh, được đức Thế Tôn tự thân dạy dỗ, đó là việc hiếm có trong cả trăm ngàn muôn ức kiếp. Tất cả mọi sự đều là vô thường. Xin quí vị một lòng tu tập, tinh cần mãi mãi để vượt thoát khổ đau và đạt được niết bàn tịch tịnh. Đó mới là nơi an trú vĩnh viễn của chúng ta. Tôi cũng rất trông mong quí vị, hãy vì đức Thế Tôn mà tuyên dương rộng rãi giáo pháp của Người. Tất cả hãy vì phúc lợi của nhân sinh chứ đừng vì danh lợi của riêng cá nhân mình. Xin bái biệt!

Nghe mấy lời của tôn giả, đại chúng vô cùng xúc động. Họ đều biết rằng, lần ra đi này của tôn giả sẽ là lần ra đi vĩnh viễn. Tôn giả sẽ không bao giờ trở lại nữa. Cho nên những lời của tôn giả hôm nay cũng chính là những lời nhắn nhủ sau cùng của tôn giả để lại cho họ. Không ai là không cung kính. Không ai là không ngậm ngùi thương tiếc! Bởi vậy, dù tôn giả đã nhắc lại lời cáo biệt và xin đại chúng quay gót, nhưng ai cũng quyến luyến, cứ yên lặng đứng tại chỗ, không nỡ rời tôn giả. Không biết làm sao hơn, tôn giả đành quay lưng bước đi... Và đại chúng vẫn đứng yên lặng nhìn theo... Họ nghĩ đến sự việc “từ nay sẽ không ai còn được nhìn thấy bậc trí tuệ đệ nhất ấy nữa!”, bất giác mọi người đều rơi lệ! Dù đại chúng đều là những vị đã giác ngộ, nhưng tình người, tình đạo và tình bạn vẫn luôn luôn là những thứ tình cảm chân thật trong lòng mọi người.


14. CỐ HƯƠNG


Sau khi bái biệt đức Phật và tăng đoàn, trên đường về cố hương, trong lòng tôn giả Xá Lợi Phất đã khởi sinh nhiều suy nghĩ; nhưng không vì vậy mà bị loạn động, trái lại, tâm ý tôn giả bấy giờ như trở nên sáng rỡ hơn bao giờ hết. Tôn giả thấy mình như đang đứng trên đỉnh ngọn Tuyết-sơn, và toàn thể vũ trụ lúc ấy đều nổi hiện rõ rệt trong tâm trí; bất giác tôn giả cảm khái vô hạn...

Khi về gần đến làng cũ thì mặt trời cũng vừa lặn, chỉ còn một vệt ráng đỏ ở chân trời, tôn giả bèn ngồi xuống một bên đường để nghỉ ngơi. Bỗng nhiên, người cháu của tôn giả là Ưu Bà Li Bà Đa chạy tới đảnh lễ, nhân đó tôn giả hỏi:

– Bà nội có ở nhà không cháu?

– Thưa tôn giả, bà nội cháu có ở nhà.

– Cháu hãy về thưa với bà là bác vừa trở về!

– Dạ!

– Cháu thưa với bà hãy cho người quét dọn sạch sẽ căn phòng khi xưa bà đã sinh ra bác. Bác ngồi nghỉ ở đây một lúc rồi sẽ về.

– Dạ!

Người cháu đâu có biết tôn giả về nhà để làm gì, cho nên chỉ một mực vâng dạ và chạy mau về nhà để thưa lại cho bà nội biết.

Đã lâu lắm rồi Xá Lợi Phất chưa từng về thăm nhà. Nay đột nhiên được tin con về thì cụ bà vui mừng không kể xiết. Tuy bây giờ Xá Lợi Phất tuổi đã 80, nhưng đối với cụ bà thì tôn giả vẫn là đứa con thơ của mình như tự thuở nào... Quét dọn sạch sẽ căn phòng ngày xưa đã sinh ra Xá Lợi Phất ư? Thật lạ lùng! Nhưng niềm vui sắp được gặp con ngay trong chốc lát nữa đây đã choáng hết tâm hồn cụ, đâu cần phải thắc mắc điều gì!

Căn phòng vừa được quét dọn sạch sẽ xong thì tôn giả cũng vừa về tới. Cụ bà cùng cả nhà đều vui mừng đến chảy nước mắt. Cụ nói:

– Cuối cùng rồi đại đức cũng đã về!

Tôn giả cũng tỏ nỗi vui mừng được gặp lại mẹ và mọi người trong nhà. Nhưng liền đó thì tôn giả thưa ngay với cụ bà về ý định của mình để cho cụ bà và mọi người trong nhà rõ. Cụ bà nghe thế thì kinh hoàng tột độ! Tôn giả vội trấn tỉnh:

– Xin mẹ hãy bình tĩnh! Sự nhập niết bàn của con là điều nên hoan hỉ, vì nó khác với cái chết của người thường. Lúc này tâm con hoàn toàn yên ổn và sáng suốt. Đời này con đã may mắn được gặp Phật và được hóa độ, được cứu ra khỏi cái biển mê sinh tử, được giải thoát khỏi những khổ đau của phiền não, hoàn toàn không còn một sự sợ hãi nào. Hôm nay con về đây là để nhập niết bàn. Xin mẹ hãy hoan hỉ lên, trong đời ai lại không có lúc chết, nhưng nếu chết không mê muội để thường trú trong cảnh giới niết bàn tịch tịnh như con hôm nay thì đó là hạnh phúc lớn lao.

Cụ bà tuy rất buồn nhưng cũng hiểu được những điều tôn giả vừa nói. Cụ thấy rõ được sự đẹp đẽ cùng sự tự do giải thoát của con mình trong lúc chuẩn bị lìa đời, bất giác trong tâm cụ cũng khởi lên niềm hoan hỉ vô biên. Cụ ước mong sao đến lúc cụ lâm chung cũng được như vậy...

Bấy giờ tôn giả tụng lại những bài pháp ngữ của đức Phật cho cụ bà và mọi người nghe. Cụ bà rất hiểu tâm ý của tôn giả, liền nói:

– Đại đức nói rất đúng, vượt thoát sinh tử, tâm không mê muội đi vào cảnh giới niết bàn là hạnh phúc vô thượng. Mẹ rất hoan hỉ. Thôi đại đức hãy đi nghỉ một chốc.

Cụ bà tuy nói thế nhưng mắt vẫn rơi lệ, liền trở về phòng riêng...


15. NIẾT BÀN


Sau khi cụ bà và mọi người đã ra ngoài hết, tôn giả bảo chú thị giả Quân Đầu:

– Con hãy sang phòng bên cạnh nghỉ đi, một mình thầy ở đây được rồi.

Đến nửa đêm hôm ấy thì tin tức tôn giả Xá Lợi Phất về quê để nhập niết bàn đã được truyền đi khắp làng. Phần đông dân làng đều đã qui y Tam Bảo, nghe thế đều lập tức kéo nhau đến tụ tập trước nhà tôn giả; thậm chí, vua A Xà Thế lúc đó đang có mặt trong kinh thành Vương-xá, nghe tin cũng tức tốc dẫn triều thần cùng đến. Tất cả mọi người đều mong được chiêm ngưỡng tôn giả lần chót cũng như được nghe những lời giảng dạy sau cùng của tôn giả. Chú thị giả Quân Đầu thấy thế, sợ mọi người làm kinh động đến tôn giả, liền ra sắp xếp chỗ ngồi cho họ, xin họ ngồi yên lặng để chờ tôn giả tiếp kiến.

Đêm đã khuya lắm rồi, mọi người vẫn ngồi im lặng chờ đợi! Người ta trông thấy một cây đèn dầu trong căn tịnh thất của tôn giả, ngoài ra thì hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động nào...

Cho đến khi trời rạng sáng, tôn giả gọi Quân Đầu, hỏi:

– Có ai đến ở ngoài phải không?

– Dạ phải! Dân làng nghe nói thầy về đây để nhập niết bàn nên đến cầu kiến rất đông; cả đức vua cũng đến nữa.

– Vậy à? Con ra mời quí vị ấy vào cả trong này.

Quân Đầu liền ra ngoài mời vua A Xà Thế và mọi người vào nhà. Những người từ trước chỉ nghe tên mà chưa từng thấy mặt tôn giả, bây giờ được dịp này, họ mừng rỡ vô cùng. Tuy vậy, họ vẫn không vội vàng hấp tấp, tuần tự đi vào nhà trong im lặng, không hề gây tiếng động. Khi căn phòng đã đầy người, những người không vào được thì đứng lại ở ngoài cửa trong im lặng. Khi đại chúng đã yên vị, tôn giả lên tiếng:

– Quí vị đã đến thật đúng lúc. Tôi cũng đang muốn gặp quí vị để thăm nhau lần cuối cùng. Hơn bốn mươi năm qua tôi may mắn được xuất gia theo Phật, hoặc những khi tu học ở bên cạnh Người, hoặc những lúc vâng mệnh đi các nơi hành hóa, chưa bao giờ tôi khởi lên một niệm không vui đối với vị ân sư ấy; trái lại, niềm cảm kích của tôi đối với Người cứ càng ngày càng dâng cao. Đối với giáo pháp sâu rộng như biển cả của Người, vẫn còn nhiều điều tôi chưa lãnh hội trọn vẹn được; hôm nay nghĩ đến mà tôi thấy hổ thẹn trong lòng. Điều tôi muốn nói với quí vị hôm nay, là xin quí vị ghi nhớ rằng, chúng ta sinh ra đời gặp được Phật trụ thế là việc khó khăn vô cùng, muôn ngàn kiếp không dễ gì có được. Cho nên quí vị phải vâng theo lời dạy của Người mà tinh tấn tu học. Của báu trong biển Phật pháp tuy rất nhiều, nhưng nếu quí vị không hết lòng tìm cầu thì không thể nào có được. Tôi không còn gì để nắm giữ nữa. Hôm nay tôi muốn nhập vào cảnh giới niết bàn tịch tịnh, vĩnh viễn thường trú trong cái vũ trụ bất sinh bất diệt. Xin cáo biệt quí vị!

Tôn giả nói xong, nằm nghiêng bên phải, an trú trong đại định, rồi nhập niết bàn! Mới trước đó, nghe tôn giả nói, nhìn sắc diện an tịnh của tôn giả, có ai biết đó là người sắp lìa trần! Bởi vậy vua A Xà Thế và đại chúng đều cung kính, bội phục và thương cảm vô cùng...


16. TINH THẦN

VĨNH VIỄN TẠI NHÂN GIAN


Sau khi tôn giả Xá Lợi Phất nhập diệt được bảy ngày, Quân Đầu bèn đưa nhục thân của tôn giả lên hỏa đàn để làm lễ trà tì; rồi lại thỉnh xá lợi của tôn giả đem về chỗ Phật đang ngự. (Bấy giờ là cuối mùa an cư thứ 45, Phật đang ngự tại vùng ngoại ô thành phố Tì-xá-li, và đó là mùa an cư cuối cùng trong đời đức Phật. – Chú thích của người dịch.) Trước hết Quân Đầu đi tìm tôn giả A Nan và thuật lại sơ qua sự việc. Mặt đầm đìa nước mắt, tôn giả A Nan dẫn Quân Đầu đến hầu Phật để trình lên một cách cặn kẽ về sự viên tịch của tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật im lặng lắng nghe. Quân Đầu tường trình xong, vì quá bi thương, tôn giả A Nan lại khóc lên thành tiếng. Đức Phật phải trấn tỉnh:

– Thầy A Nan! Thầy không nên bi thương quá như vậy! Thầy Xá Lợi Phất viên tịch không phải là điều cao quí sao?

A Nan cung kính thưa:

– Bạch Thế Tôn! Sư huynh Xá Lợi Phất của chúng con là người có trí tuệ cao tột, chuyên trì giới luật, oai nghi nghiêm mật, có biện tài thuyết pháp, suốt đời nhiệt tình với công tác hoằng hóa độ sinh, điều đó không phải chỉ có chúng con biết, mà tất cả nhân gian đều xưng tán. Nay đột nhiên sư huynh chúng con không còn tại thế nữa, vì nghĩ đến tiền đồ của chánh pháp, của giáo đoàn ngàn năm về sau, cho nên con rất đau buồn. Không những chỉ một mình con đau buồn mà tất cả mọi người, ai cũng không cầm lòng được!

Đức Phật lại an ủi:

– Thầy Xá Lợi Phất tuy không còn tại thế nữa nhưng giáo pháp vẫn còn đó. Vô thường vốn là thật tướng của thế gian, cũng như sự sinh diệt vốn là đạo lí tự nhiên của vũ trụ. Không còn bao lâu nữa chính Như Lai cũng sẽ nhập niết bàn! Quí thầy lúc đó cũng đừng nên thất vọng, vì giáo pháp của Như Lai vẫn còn nguyên vẹn chứ không mất theo Như Lai. Dù hàng ngàn, hàng vạn năm về sau, nếu bất cứ ai giữ được lòng tin chắc thật nơi Như Lai thì Như Lai vẫn luôn luôn có mặt trong tâm trí họ và hộ trì họ. Quí thầy nên nương dựa vào chánh pháp mà không nên nương dựa vào ai khác.

Dạy xong mấy lời, đức Phật tiếp lấy xá lợi của tôn giả Xá Lợi Phất do Quân Đầu dâng lên, đưa ra trước đại chúng, Ngài dạy tiếp:

– Quí vị tì kheo! Linh cốt này đây, mới mấy ngày trước thì chính là vị Đại Trí Xá Lợi Phất, có trí tuệ rộng lớn vô biên, trừ Như Lai ra thì không ai có thể sánh bằng. Thầy ấy đã chứng ngộ được pháp tánh, sống đời thiểu dục, tri túc, thường tu tập thiền định, luôn luôn dũng mãnh, tinh tấn, nhiệt tình vì giáo pháp và vì nhân sinh, công năng hàng phục ngoại đạo và tuyên dương chánh pháp thật cao dầy. Thầy Xá Lợi Phất đã hoàn toàn dứt trừ mọi khổ não, chứng được đạo quả giải thoát. Này quí thầy! Hãy chiêm ngưỡng đi! Đây là xá lợi vị trưởng tử của Như Lai!

Đức Phật nói lời ấy xong thì tất cả đại chúng, không ai bảo ai, đều cúi đầu thành kính đảnh lễ trước xá lợi của tôn giả Xá Lợi Phất.

Tôn giả Xá Lợi Phất tuy đã viên tịch, nhưng tinh thần của ngài vẫn vĩnh viễn tồn tại ở thế gian...












Tôn giả MỤC KIỀN LIÊN

(Maudgalyayana - Moggallana)


(vị thượng thủ có thần thông

quảng đại nhất)

_________________________________________




1. NGƯỜI HẦU CẬN BUỔI ĐẦU

CỦA ĐỨC PHẬT


Ngày nay, mỗi khi bước vào chánh điện của các chùa, viện, chúng ta thường thấy trên bàn thờ trung ương, tượng đức Phật Thích Ca (Sakya) ngự trên tòa sen ngay chính giữa, còn đứng hầu hai bên đức Phật thì bên phải là tượng tôn giả A Nan (Ananda) và bên trái là tượng tôn giả Đại Ca Diếp (Maha-kasyapa - Mahakassapa); nhưng trong những năm đầu hoằng hóa của đức Phật thì không phải như vậy.

Xá Lợi Phất (Sariputra - Sariputta) và Mục Kiền Liên đã xuất gia theo Phật ngay trong thời gian hai năm đầu tiên sau ngày Phật thành đạo. Từ ngày qui y theo Phật, Xá Lợi Phất luôn luôn đứng hầu bên phải đức Phật, và Mục Kiền Liên thì hầu bên trái. Ngoại trừ những lúc phải đi du phương bố giáo, còn thì không lúc nào họ rời đức Phật.

Xá Lợi Phất xuất gia được nửa tháng, đã dứt trừ mọi phiền não; nhưng Mục Kiền Liên thì chỉ bảy ngày sau khi xuất gia là dứt hết mọi lậu hoặc, hiển lộ thần thông, chứng quả A la hán.

Tôn giả Mục Kiền Liên, người cao lớn, mặt vuông, tai to, nét mặt luôn luôn lộ vẻ cương nghị, lạc quan, tính tình dũng cảm, lúc nào cũng vì chính nghĩa mà can thiệp những chuyện bất bình.

Trong giáo đoàn của đức Phật, số người chứng được thần thông có rất nhiều, nhưng chỉ có Mục Kiền Liên được suy tôn là vị có thần thông rộng lớn nhất.


2. NGUYỆN CHỨNG THẦN THÔNG


Vì sao tôn giả Mục Kiền Liên có được thần thông như vậy? Điều đó có liên quan tới câu chuyện của một tiền kiếp của tôn giả như sau:

Trong một kiếp thời quá khứ, Mục Kiền Liên làm nghề chài lưới, thường bắt tôm cá ở biển làm kế sinh nhai. Một hôm, bỗng nhiên tâm niệm lành phát khởi, ông tự biết rằng, sinh nhai bằng cách đó thật không chánh đáng, người sống ở đời này phải biết tạo công đức cho đời sau. Ông bèn quyết định thay đổi nghề nghiệp. Sau đó không bao lâu, ông để ý thấy có một đức Phật Bích Chi thường lui tới trong thành phố. Phong độ an nhiên, oai đức tự tại của Phật đã làm cho ông sinh tâm cung kính. Một hôm, ông thỉnh Ngài về nhà để cúng dường cơm trưa. Nguyên đức Phật Bích Chi này không hề dùng pháp thoại mà chỉ sử dụng thần thông để hóa độ, cho nên sau khi thọ trai xong, Ngài bèn nhảy lên hư không, hoặc trái hoặc phải, hoặc trước hoặc sau, hoặc trên hoặc dưới tùy theo ý muốn. Ông thấy thế rất lấy làm thích thú, bèn phát nguyện kiếp sau thế nào cũng cầu tu chứng được thần thông.

Có ý chí thì sẽ thành công. Tôn giả Mục Kiền Liên, do sự phát nguyện ấy mà trong đời này được qui y với đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), đã chứng thần thông mà lại còn được coi là bậc thần thông số một trong hàng cao đệ của Phật.


3. BẮC CẦU ĐƯA PHẬT QUA SÔNG


Nói về thần thông của Mục Kiền Liên thì tai ghe âm thanh, dù âm thanh ở gần hay ở thật xa cũng đều nghe rõ ràng; mắt nhìn vật thì dù vật có bị che khuất cũng nhìn thấy thấu suốt; đường đi dù xa vạn dặm nhưng chỉ trong một khoảnh khắc là đi tới nơi... Tôn giả thường dùng thần thông ấy để giúp đức Phật trong việc hành hóa.

Có một lần dân chúng trong toàn thành Xá-vệ (Sravasti - Savatthi) họp nhau bày tiệc cúng dường cho toàn thể quí vị đạo sĩ của 96 giáo phái khác nhau. Họ cũng mời cả vua Ba Tư Nặc (Prasenajit - Pasenadi), thái tử và các vị đại thần trong triều cùng tham dự. Tiệc được dọn trên một quảng trường rộng lớn bên kia bờ sông A-kì. Hôm đó, Mục Kiền Liên là người thượng khách đến đầu tiên. Một lát sau, đồ chúng của các giáo phái khác cũng lần lượt tụ tập; nhưng vào lúc ấy bỗng nước sông dâng cao, làm cho họ không thể lội qua sông được. Họ bảo nhau: “Nước sông hôm nay bỗng nhiên dâng cao, chúng ta không làm sao sang sông thọ thực được. Thôi thì hãy cố đợi chốc nữa sa môn Cồ Đàm (Gautama - Gotama) đến xem có cách nào không...” Đúng vào lúc ấy, Mục Kiền Liên vừa trông thấy đức Phật dẫn chúng tăng đang đi tới từ đàng xa. Tôn giả bèn dùng thần lực hóa ra một cây cầu bắc qua sông để đức Phật và chúng tăng có thể đi qua. Vừa thấy có cây cầu bỗng dưng xuất hiện, chúng tu sĩ ngoại đạo kia vô cùng hớn hở, lại bảo nhau: “Ông sa môn ấy chắc là tới trễ rồi! Trời đã làm cầu giúp chúng ta qua sông trước. Chúng ta phải là thượng khách của bữa tiệc này. Chúng ta phải được ngồi ở chỗ tốt nhất...” Vừa nói, họ vừa tranh nhau qua cầu, nhưng khi đến giữa cầu thì bỗng nghe “rầm” một tiếng, cây cầu đã gẫy. Mọi người rớt cả xuống nước, tiếng la kêu cứu thất thanh, chấn động cả một vùng. Khi ấy đức Phật và chúng tăng cũng vừa đến bờ sông, chiếc cầu lại hiện ra như trước. Phật và chúng tăng cùng bước lên cầu. Thấy tình trạng những người dưới sông có thể bị nguy hiểm, đức Phật thương cảm, bèn vận dụng thần lực cứu hết mọi người lên cầu và cùng họ sang sông. Khi đã tới bờ, ai nấy nhìn lại thì chiếc cầu đã biến mất. Khi Phật và chúng tăng đã an tọa thọ thực thì các chúng tu sĩ ngoại đạo vẫn còn đang hong phơi y phục dưới ánh nắng mặt trời buổi trưa. Nhân đó mà họ đã tự tỉnh ngộ, biết rằng mình chỉ như cái ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, không thể nào so sánh với ánh sáng tỏ rạng như mặt trời của Phật và tăng chúng.


4. CÙNG PHẬT TƯƠNG KIẾN

TRONG THIỀN ĐỊNH


Một lần nọ đức Phật trú tại tu viện Kì-viên (Jetavana) ở thành Xá-vệ, còn Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thì trú tại tu viện Trúc-lâm (Venuvana) ở thành Vương-xá (Rajagrha - Rajagaha). Hai vị cùng thiền tọa trong một tịnh thất.

Đêm ấy là một đêm vô cùng yên tĩnh. Bên ngoài thiền thất, ánh trăng giăng tỏa mông lung; bên trong thì chỉ một ngọn đèn dầu leo lét. Không hề có một tiếng động.

Đầu hôm đã qua đi. Giữa đêm cũng qua đi. Đến cuối đêm, bỗng Xá Lợi Phất lên tiếng phá tan cái không khí yên tĩnh đó. Tôn giả hỏi:

– Này sư huynh Mục Kiền Liên! Xin thứ lỗi cho tôi được đường đột hỏi câu này nhé: Có phải suốt đêm nay sư huynh an trú trong chánh định không?

– Tại sao sư huynh lại hỏi tôi như vậy? Mục Kiền Liên nho nhỏ hỏi lại.

– Tại vì tôi không nghe thấy hơi thở của sư huynh. Sư huynh cũng đã không hề trở mình hay có bất cứ một cử động nhẹ nào. Trong phòng hầu như đã không có sư huynh trong suốt thời gian từ đầu hôm đến giờ.

– Thì ra vậy! Đêm nay vì sực nghĩ đến vấn đề chuyên cần tinh tấn trong sự tu học nên tôi đã tức tốc đến xin đức Thế Tôn chỉ dạy. Suốt đêm tôi đã ở bên Người để hầu chuyện.

– Sư huynh nói thật khó hiểu. Hiện giờ đức Thế Tôn ở tại Kì-viên nơi phương Bắc, còn chúng ta thì đang ở Trúc-lâm nơi phương Nam, hai nơi cách nhau quá xa, làm sao sư huynh có thể vừa ở đây vừa ở nơi Người để hầu chuyện! Hay là sư huynh đã dùng thần túc thông để đến với Người, hoặc giả là Người đã dùng thần túc thông đến nơi đây?

– Không đâu! Đức Thế Tôn và tôi đều không dùng thần túc thông để đi đâu cả.

– Vậy thì sư huynh đến hầu chuyện đức Thế Tôn bằng cách gì?

– Sư huynh Xá Lợi Phất ạ! Điều này chẳng có gì là lạ lùng cả. Đức Thế Tôn có thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Những thứ thần thông này sư huynh và tôi cũng đã chứng được chút ít rồi đó. Bây giờ chỉ cần gia công vận dụng là chúng ta có thể được cùng hầu chuyện với Người bất cứ ở đâu và lúc nào.

Xá Lợi Phất không phải là không biết điều đó, nhưng chỉ vì tôn giả thường hay lấy thái độ khiêm cung để đối xử với mọi người mà thôi. Khi nghe Mục Kiền Liên nói thế, tôn giả hết sức hoan hỉ, bèn khen ngợi:

– Sư huynh có thần thông rộng lớn, công đức cao dầy. Tôi được cùng sư huynh tu học, cùng thờ một thầy, thật là vinh hạnh vô cùng. Sư huynh sánh như ngọn núi cao, nguy nga đồ sộ; còn tôi như hòn đá nhỏ được đặt bên cạnh sư huynh; được cùng ngồi một chỗ với sư huynh, thật là cái nhân duyên khó gặp. Trên thế gian này, nếu có người nào được quen biết và tới lui gần gũi, được cung kính cúng dường sư huynh, thì người ấy nhất định sẽ có phước lành rất lớn!

Nghe Xá Lợi Phất nói vậy, Mục Kiền Liên cũng khiêm cung đáp lại:

– Tôi cũng vậy. Ngày nay tôi được cùng ngồi một chỗ với vị trưởng lão phước trí vẹn toàn Xá Lợi Phất, cũng ví như hòn đá nhỏ mà được đặt bên cạnh ngọn núi cao, tôi cảm thấy được yên ổn, phấn khởi và vinh hạnh vô cùng!

Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất là hai người vừa là bạn học vừa là bạn đạo đã lâu năm. Họ tôn kính nhau, khen ngợi nhau từ đầu đến cuối; tình bạn và tình đạo khắng khít trên đời hiếm có.


5. AI THẦN THÔNG BẬC NHẤT


Người bạn lâu năm của Mục Kiền Liên là Xá Lợi Phất, không những là người có đại trí tuệ mà còn là người có đại thần thông. Khi làm giám đốc công trường xây cất tu viện Kì-viên ở thành Xá-vệ, tôn giả đã từng vận dụng 18 phép thần thông để tranh tài và đã thắng các nhà thủ lãnh ngoại đạo. Vì vậy, đối với dân chúng thành Xá-vệ, tôn giả được biết tới như một người vừa có trí tuệ lớn và vừa có thần thông lớn.

Một lần nọ, đúng vào ngày Rằm, đức Phật thuyết giới cho chư tăng bên hồ A-nậu-đạt. Thấy thiếu Xá Lợi Phất, Phật bảo Mục Kiền Liên:

– Thầy hãy đến thành Xá-vệ mời thầy Xá Lợi Phất về đây.

Mục Kiền Liên vâng mạng ra đi. Đến nơi, tôn giả nói với Xá Lợi Phất:

– Đức Thế Tôn mời sư huynh đến hồ A-nậu-đạt, chỗ Người sắp thuyết giới.

Xá-Lợi-Phất đáp:

– Xin cám ơn sư huynh đã đem mệnh lệnh của đức Thế Tôn truyền đạt lại cho tôi. Một chốc nữa chúng ta cùng đi. Bây giờ chúng ta cùng chơi trò này một tí nhé!

– Chơi trò gì vậy?

– Này, sư huynh! Sư huynh là một vị trưởng lão có thần thông lớn. Vậy đây là một cái dải áo, xin sư huynh hãy kết nó thành một cây diêm phù đề!

Xá Lợi Phất nói xong liền ném cái dải áo xuống đất. Mục Kiền Liên lượm lên nhưng không thể nào lay động nó được. Mục Kiền Liên phải vận dụng đến thần thông, và khi lấy được cái dải áo thì đã làm cho mặt đất rung động. Xá Lợi Phất bèn giật cái dải áo đem cột vào núi Tu-di, Mục Kiền Liên cũng nhanh nhẹn dở hỏng núi Tu-di lên. Xá Lợi Phất lại đem dải áo cột vào pháp tòa của đức Phật, và lần này, dù Mục Kiền Liên đã đem hết thần lực ra cũng không thể nào lay chuyển được cái pháp tòa ấy. Xá Lợi Phất cười, nói với Mục Kiền Liên:

– Sư huynh! Những điều chúng ta học được và tu chứng được, nếu đem so sánh với đức Thế Tôn vạn đức vạn năng thì thật cách xa một trời một vực. Thần lực của chúng ta có thể lay chuyển núi Tu-di, làm rung động trời đất, nhưng với cái pháp tòa của Người thì không thể làm cho nhúc nhích được. Hôm nay vì tôi nghi ngờ với chính thần lực của tôi cho nên tôi đã mời sư huynh thử nghiệm để xem có đúng như vậy không. Thôi bây giờ chúng ta hãy mau mau đi bái kiến Người. Xin sư huynh đi trước, tôi sẽ theo sau liền.

Nghe mấy lời của Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên rất lấy làm kính phục. Sau khi gật đầu với Xá Lợi Phất, tôn giả liền vận dụng thần túc thông trở về hồ A-nậu-đạt. Nhưng khi tôn giả về đến nơi thì đã thấy Xá Lợi Phất ngồi trong thế hoa sen bên cạnh đức Phật tự lúc nào rồi! Tôn giả đảnh lễ đức Phật và bày tỏ nỗi thắc mắc, thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Có lẽ con đã mất thần túc thông rồi hay sao? Từ tu viện Kì-viên về đây, con đã đi trước sư huynh con, sao bây giờ sư huynh con lại đến trước con? Thế Tôn thường bảo rằng con là người có thần thông bậc nhất, nhưng tôn hiệu ấy bây giờ nên dùng cho sư huynh con thì đúng hơn.

Đức Phật từ hòa an ủi:

– Thầy Mục Kiền Liên! Thầy là người có thần thông lớn, trừ Như Lai ra, không ai có thể so sánh được. Thầy cũng không hề mất thần túc thông. Thầy nên biết rằng, thầy Xá Lợi Phất chỉ là người có trí tuệ lớn.

Sau khi thuyết giới ở hồ A-nậu-đạt, đức Phật dẫn chúng tăng trở về thành Xá-vệ. Đại chúng ở thành Xá-vệ, sau khi biết được câu chuyện trên đều xôn xao bàn tán, cho rằng thần thông của Xá Lợi Phất trội hơn Mục Kiền Liên. Nghe lời bình phẩm ấy của mọi người mà Mục Kiền Liên không hề cảm thấy bất mãn. Với tấm lòng khoáng đạt, khiêm cung, tôn giả biết rằng Xá Lợi Phất đã vượt trội hơn mình. Nghe đại chúng khen ngợi Xá Lợi Phất, tôn giả cũng cảm thấy rất vinh hạnh như chính mình được khen ngợi. Nhưng riêng Xá Lợi Phất thì lại cảm thấy không yên lòng. Tôn giả cho rằng sự việc vừa rồi đã làm cho Mục Kiền Liên mất thể diện. Tôn giả liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sư huynh Mục Kiền Liên con là người có thần lực lớn, có công hạnh lớn. Vừa rồi con đã đến hồ A-nậu-đạt sớm hơn là tại vì con quá vội muốn nghe Thế Tôn thuyết giới, còn sư huynh con thì tuy có vận dụng thần lực nhưng lại không muốn vội vàng. Hiện giờ đại chúng đều xôn xao bàn tán, bảo rằng thần lực của con vượt trội hơn sư huynh con; điều đó con không dám nhận. Xin Thế Tôn dùng cách nào để xóa bỏ lời phẩm bình không công bằng của đại chúng đi.

Đức Phật mỉm cười gật đầu. Ngài biết hai người này đều vô cùng khiêm cung, yêu bạn. Một hôm, sau thời giảng kinh, Phật bảo Mục Kiền Liên:

– Này thầy Mục Kiền Liên! Thầy là người có thần thông lớn, trong đại chúng không ai có thể so sánh được. Thầy cũng không hề mất thần túc thông. Bây giờ ở trước đại chúng, thầy hãy diễn bày oai lực thần thông để gây lòng tin cho những kẻ sơ học.

Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, bước ra khỏi chỗ ngồi, một chân thì đạp trên trái đất này, một chân thì đạp trên cõi trời Phạm-thiên, làm cho cõi đất chấn động sáu lần. Tôn giả lại từ trên không trung dùng Phạm âm để nói kệ, khiến cho chư vị tì kheo có mặt trong giảng đường dứt trừ hết lậu hoặc, trí tuệ bừng sáng. Từ đó, mọi người đều tôn xưng tôn giả là người có thần thông bậc nhất.


6. DỜI NÚI HÓA ĐỘ CÁC VỊ PHẠM CHÍ


Thời đức Phật còn tại thế, tại Ấn-độ, số tu sĩ ngoại đạo chứng được thần thông cũng không phải là ít, nhưng rất tiếc là họ không giác ngộ được chân lí rốt ráo, không tu các đức hạnh từ bi, trí tuệ, cho nên họ đã không thoát được vòng sinh tử mà vẫn bị trầm luân trong sáu nẻo luân hồi. Đối với quí vị ngoại đạo có thần thông này, để lấy độc trị độc, đức Phật thường bảo Mục Kiền Liên dùng thần thông để hóa độ cho họ. Một hôm Ngài bảo:

– Này Mục Kiền Liên! Tại một vương quốc lớn kia ở vùng biên giới, từ vua quan cho đến dân chúng đều tôn phụng các vị phạm chí mà không hề biết gì đến Phật pháp. Rất nhiều các vị phạm chí ở đó đã chứng được thần thông, có thể dời núi, ngăn sông, phân thân, biến hóa. Thầy nên đến đó, tùy tiện mà dùng oai đức hoặc thần lực để điều phục họ, khiến họ tin phục Phật pháp, bỏ con đường tà để trở về nẻo chánh.

Tôn giả vâng mạng, bay lên hư không mà đi. Đến nơi, tôn giả thấy rất nhiều vị phạm chí đang ngồi vòng quanh một quả núi lớn. Xem tình hình thì có vẻ như họ đang vận dụng thần lực để di chuyển quả núi ấy. Tôn giả bèn treo cao quả núi ấy lên hư không và làm cho nó không thể nào di động được nữa. Chúng ngoại đạo rất lấy làm kinh dị, một vị bảo: “Quả núi này đã nhích lên được rồi, sao ai lại làm cho nó bị bất động như thế này! Hay là trong chúng ta có người nào bất tịnh chăng?” Bỗng họ nhìn lên không trung thì thấy có người đang đứng giữa hư không, ngay trên đỉnh núi. Họ bèn lớn tiếng cự nự:

– Ông là ai, sao dám tới đây buông lung? Quả núi này làm cản trở lưu thông, quốc vương sai chúng tôi dời nó đi chỗ khác. Đó là chúng tôi vì dân chúng mà trừ đi việc bất lợi, sao ông lại đè chặt không cho nó di chuyển?

Mục Kiền Liên cười đáp:

– Rõ ràng là tôi đang đứng giữa hư không đây, sao quí vị lại bảo tôi đè chặt quả núi của quí vị?

Các vị phạm chí lại gia tăng phát động thần lực, đã ba lần cố đẩy quả núi đi, nhưng núi cao vẫn y nhiên bất động. Trong lúc họ đang lo lắng, không biết làm cách nào thì tôn giả gọi họ, bảo:

– Này! Xin quí vị hãy chú ý, xem quả núi này đi mất nhé!

Tôn giả vừa nói xong thì cả quả núi cao đồ sộ kia bỗng biến đi đâu mất, trước mặt họ chỉ còn là bình địa. Họ thấy thế thì lại càng kinh dị, chỉ biết cúi đầu nói lớn:

– Thưa đại đức! Đại đức từ đâu đến? Nếu không phải là bậc có trí tuệ cao cả, đạo hạnh sâu dầy thì làm sao làm được việc vừa rồi! Vậy xin đại đức hãy thu nhận chúng tôi làm đồ đệ và xin chỉ bày cho chỗ tăm tối của chúng tôi.

Bấy giờ tôn giả mới từ trên không trung hạ xuống, nói với họ một cách từ hòa:

– Tôi đã rõ thấu tấm lòng chân thành của quí vị. Quí vị đã muốn từ bỏ chỗ tối tăm để tìm về nơi sáng sủa, thì tôi xin giới thiệu bậc tôn sư của tôi, đó là đức Phật. Ngài là vị Trời trên hết các vị Trời, là vị Thánh trên hết các vị Thánh, đầy đủ trí tuệ cao diệu, vạn đức vạn năng. Xin quí vị theo tôi cùng đến với Người để xin qui y, nhất định Người sẽ từ bi thu nhận.

Các vị phạm chí lại hỏi:

– Đạo hạnh của đức Phật còn vượt quá cả đại đức nữa sao?

Tôn giả nghiêm trang đáp:

– Đức Phật như núi Tu-di, còn chúng tôi thì chỉ như hạt cải; hạt cải thì đâu có thể nào so sánh với núi Tu-di! Đức Phật như biển cả, còn chúng tôi thì chỉ như một dòng sông con; một dòng sông con thì đâu có thể nào so sánh với biển cả! Gặp Phật xuất thế là việc rất khó, cho nên qui y với Người thì quí vị sẽ được hóa độ.

Các vị phạm chí nghe nói hết sức vui mừng, đều nguyện theo Mục Kiền Liên đi về chỗ Phật ngự, xin qui y thọ giáo.


7. HÀNG PHỤC ÁC MA


Mục Kiền Liên tuy thường dùng thần thông để hàng phục ác ma, ngoại đạo, nhưng rồi chính tôn giả cũng thường hay bị họ tìm đến quấy nhiễu.

Một ngày kia tôn giả vâng mạng đức Phật, một mình đi đến nước Bạt-già để giáo hóa. Trong lúc tôn giả đang thiền hành trên con đường vắng thì một con ác quỉ trông thấy. Nó bèn dùng thần thông chui vào bụng tôn giả. Bỗng dưng tôn giả cảm thấy bụng đau dữ dội. Trong bụng dường như có một cục gì to bằng cái chén, lại có tiếng động lớn như tiếng sấm. Tôn giả lập tức quay về tịnh thất. Sau một lúc tĩnh tọa và quán sát, tôn giả biết ngay đó là ác ma muốn quấy phá mình. Tôn giả bảo:

– Này ác ma! Hãy mau ra đây! Tốt hơn hết là ngươi không nên xâm phạm đến đức Phật cũng như các đệ tử của Người, vì chắc chắn là ngươi không thể nào nhiễu hại được họ; chỉ trừ phi người nào nghiệp lực chưa dứt hẳn, còn không thì ngươi vĩnh viễn không làm gì được đâu.

Ác quỉ nghĩ thầm: “Quái lạ thật! Ta dù có thế nào đức Phật cũng không biết được, Mục Kiền Liên dù có thần thông đến đâu đi nữa, làm sao lại biết được ta?”

Tôn giả lại bảo:

– Này ác quỉ! Ngươi đừng lấy làm lạ! Ngươi vừa nghĩ rằng, dù có là đức Phật đi nữa cũng không thể biết ngươi là gì, huống hồ là ta, dù có thần thông, làm sao lại biết được ngươi, có phải không? Ngươi lầm rồi!

Ác quỉ nghe thế thì lấy làm kinh hãi vô cùng, liền hóa làm nước bọt mà chui ra ngoài. Từ đó nó không bao giờ còn dám trở lại trêu ghẹo tôn giả nữa.


8. SẮC ĐẸP MĨ NHÂN

KHÔNG ĐỊCH NỔI VỚI THẦN THÔNG


Mục Kiền Liên không những không bị ma lực làm hại, mà cho đến sắc đẹp của mĩ nữ cũng không thể làm hoen ố đạo hạnh của tôn giả. Một ngày kia, trên đường khất thực trở về, khi đi qua một khu rừng, tôn giả trông thấy một thiếu phụ tuổi chừng trung niên, ngồi bên đường như đang chờ đợi. Khi tôn giả đi vừa đến trước mặt thì nàng liền đứng lên chận lại, mắt liếc đưa tình, miệng nở nụ cười duyên dáng, thỏ thẻ nói:

– Tôn giả ơi! Ngài đi đâu mà quên em vậy? Có rảnh rỗi thì nói chuyện với em một chốc nha!

Tôn giả đứng hẳn lại, mắt chăm chú nhìn thiếu phụ. Dù tuổi nàng đã trên ba mươi, nhưng nét đẹp kiều diễm và quyến rũ của nàng vẫn đầy sức hấp dẫn đối với những chàng trai trẻ si tình. Không những tôn giả nhìn kĩ vào nét mặt và vóc dáng nàng mà còn nhìn thấu trong tâm ý của nàng. Với thái độ an nhiên tự tại, tôn giả dùng lời lẽ thật oai nghiêm nói với thiếu phụ:

– Thật đáng thương cho bà! Thân xác bà đã không trong sạch mà tâm hồn bà thì lại càng mờ tối. Bà tưởng có thể đem tâm niệm bất chánh của bà để lung lạc được ta ư?

Người đàn bà khựng lại, thất sắc:

– Tôn giả! Tôn giả! Ngài... Ngài nói gì vậy? Em không hiểu!

– Bà đừng mong che dấu được tư tưởng mờ ám của bà. Bà đợi ở đây với dụng ý gì, ta đã thấy rõ tất cả. Bà đang bị mê lạc trong một thứ sắc đẹp dối trá và chính nó lại đang giúp bà nhiều cơ hội để tạo tội lỗi; cũng như con voi già bị lún trong bãi sình lầy, càng cố ngoi lên càng bị chìm sâu xuống.

Thiếu phụ như sực tỉnh cơn mê:

– Thưa tôn giả! Ngài đã thấy được tâm ý của con thì con cũng biết là không thể dối gạt được ngài nữa rồi! Từ lâu con đã nghe người ta nói rằng ngài là vị đệ tử thần thông bậc nhất của đức Phật, nhưng con không tin là thần thông lại có thể đánh bại được sắc đẹp của mĩ nhân. Bây giờ con mới biết con là một người đàn bà có nhiều tội lỗi sâu nặng. Con muốn hồi tâm hướng thiện chứ không như bao nhiêu người ngoan cố khác. Nhưng con lại nghĩ rằng, có lẽ con là một người không còn xứng đáng để được cứu vớt. Con có một quá khứ thật ghê sợ, trong tương lai thế nào cũng bị quả báo trói buộc.

Tình cảm của người đàn bà cuối cùng rồi cũng trở nên yếu đuối. Nàng vừa nói vừa khóc rấm rứt, nước mắt chảy ràn rụa. Tôn giả phải an ủi:

– Bà đừng buồn nữa, và cũng đừng thất vọng. Dù trong dĩ vãng bà đã tạo tội lỗi sâu nặng thế nào đi nữa, chỉ cần bà biết ăn năn sám hối thì bà vẫn là người có thể cứu vớt được. Áo quần dơ bẩn có thể dùng nước giặt sạch; khi tâm ý dơ bẩn thì chúng ta dùng giáo pháp của đức Phật để gột rửa. Nước từ trăm dòng sông dù có ô trược, một khi đã chảy vào biển cả thì tức khắc trở nên trong sạch. Giáo pháp của đấng Đại Giác Thế Tôn cũng vậy, có thể rửa sạch tất cả sự ô uế của tâm ý con người, làm tiêu trừ mọi lầm lỗi của quá khứ.

Lời dạy của tôn giả đã làm cho thiếu phụ tươi hẳn nét mặt. Nàng cảm thấy tâm ý được bình tĩnh thêm, ánh mắt sáng ngời và dâng lên niềm hi vọng tràn trề. Nàng kính cẩn:

– Kính thưa tôn giả! Giáo pháp của đức Phật thật từ bi, vĩ đại vậy sao! Nhưng cái quá khứ của con thì xấu xa quá lắm! Đời con gặp toàn chuyện bất hạnh, con mà nói ra chắc ngài phải bịt tai, che mắt!

– Không sao đâu! Bà cứ kể hết cho tôi nghe. À, tên bà là gì nhỉ?

– Thưa tôn giả! Con tên là Liên Hoa Sắc (Utpalavarna - Uppalavanna), vốn là con của một vị trưởng giả ở thành Đức-xoa-thi-la. Năm mười sáu tuổi con lập gia đình. Chẳng bao lâu thì cha con qua đời, và mẹ con thì lại tư thông với chồng con. Khi con biết được thì ruột gan đau như đứt khúc. Lúc đó con vừa sinh được một cháu gái, trong cơn tức giận con bèn đem ném nó trong bụi, rồi bỏ nhà ra đi. Sau đó con lấy một người chồng khác. Người chồng này thường hay đi làm ăn xa. Một hôm y từ thành Đức-xoa-thi-la trở về, đã dối gạt con lấy mấy ngàn lượng vàng để mua một cô gái làm vợ bé. Y gởi cô vợ bé này ở nhà bạn bè, giữ hết sức bí mật, sợ con biết; nhưng về sau thì con cũng biết được chuyện ấy. Khi biết chuyện, con khóc la ầm ĩ, đòi y phải để cho con được thấy mặt cô ta để xem cô ấy là người thế nào và làm sao mà chiếm được tình yêu của chồng con. Khi đã thấy và biết rõ cô ta rồi, thì, tôn giả ơi, lòng con đau đớn đến chết ngất! Tôn giả biết không? Nàng ấy không phải ai xa lạ, mà chính là đứa con gái của con với người chồng trước!

Nói đến đây, Liên Hoa Sắc xúc động quá, khóc nấc lên. Mục Kiền Liên lại an ủi:

– Bà Liên Hoa Sắc! Bà đừng quá đau buồn như vậy! Khi một người trông thấy rõ quá khứ, hiện tại, vị lai thì cũng thấy rõ được những mối dây nhân quả chằng chịt quấn nhau. Nói một cách xác thực thì cuộc đời chỉ là một vũng sâu của tội lỗi. Câu chuyện về sau của bà như thế nào, bà cứ bình tĩnh kể tiếp đi!

– Thưa tôn giả! Con làm sao chịu đựng nổi những trận đòn dồn dập này! Nghĩ đến lúc trước đã bị mẹ cướp mất một người chồng, rồi bây giờ con gái của con lại cùng với con giành nhau một người chồng, thì con còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ! Cho nên con lại bỏ nhà ra đi. Con chán ghét cái thế gian này. Chán ghét cả loài người. Con bèn biến mình thành một dâm nữ để lấy thế gian này, nhân loại này làm trò vui; và như tôn giả thấy đó, con đang sống một cuộc sống đầy tội lỗi, bẩn thỉu như thế này đây. Thưa tôn giả, bất cứ tội lỗi xấu xa nào con cũng làm được, miễn là có tiền và gây khổ lụy cho người khác. Con không cần nói nhưng tôn giả cũng đã biết được tại sao hôm nay con cố chờ đợi ở đây; cũng may là gặp phải một bậc có thần thông, có giới hạnh toàn vẹn như tôn giả; nhưng con phải làm thế nào để sám hối với tôn giả bây giờ?

Nghe xong câu chuyện của cuộc đời Liên Hoa Sắc, Mục Kiền Liên không hề có ý tưởng khinh rẻ nàng, trái lại, trong giờ phút ấy, tôn giả đã nhìn thấy nơi nàng cái tâm rất chân, rất thiện, rất mĩ. Để cho nàng yên tâm, tôn giả đến gần nàng hơn, dùng lời lẽ hết sức từ hòa để khuyến khích:

– Bà Liên Hoa Sắc! Quả thật bà đã có một thân thế quá đau thương, tủi nhục, nhưng nếu bà quyết tâm tu học theo giáo pháp của đức Phật thì cái đoạn nhân duyên ấy cũng có lúc phải chấm dứt, bà sẽ được hoàn toàn giải thoát, an lạc, tự tại. Xin bà hãy theo tôi về yết kiến đức Phật.

Liên Hoa Sắc cảm thấy mừng vui vô hạn. Sở dĩ nàng được cứu vớt, được thay đổi từ một cuộc sống đầy tai họa trở thành một cuộc sống đầy phúc lạc là nhờ ở tôn giả Mục Kiền Liên, một người vừa có thần thông lại vừa biết dùng phương tiện khéo léo để hóa độ.


9. PHÁP ÂM CỦA PHẬT NGHE ĐƯỢC

BAO XA?


Trong giáo đoàn của đức Phật thì Mục Kiền Liên là người có nếp sống sinh động nhất. Việc gì không ai làm được thì tôn giả làm; nơi nào không ai đi tới được thì tôn giả đi tới.

Một ngày nọ ở thành Vương-xá, khi đức Phật đang nói pháp trong giảng đường tu viện Trúc-lâm thì Mục Kiền Liên ngồi trong thiền thất của mình. Tuy thiền thất cách khá xa giảng đường, nhưng tôn giả vẫn nghe rõ mồn một pháp âm của Phật. Sự việc ấy đã làm cho tôn giả hết sức lạ lùng. Nhân đó, tôn giả đã nẩy sinh ra ý tưởng là hãy thí nghiệm xem pháp âm của Phật có thể nghe được đến bao xa. Tôn giả liền vận dụng thần túc thông, đi ra khỏi thế giới Ta-bà đến vài mươi ức Phật độ, tới quốc độ của đức Phật Thế Tự Tại Vương (Lokesvararaja) đang nói pháp.

Mục Kiền Liên vẫn thường hay du hành đến các Phật độ khác, và giống như một người lữ hành đầy kinh nghiệm, mỗi khi đi đến đâu tôn giả cũng xem nơi đó như chính là quê hương của mình. Bây giờ tôn giả đang ở tại quốc độ xa xôi này, vừa gặp lúc đức Phật Thế Tự Tại Vương đang nói pháp, nên hết sức vui mừng, bèn nhẹ nhàng đến trước pháp tòa, tìm một nơi ngồi xuống để nghe pháp.

Có một sự việc mà nói ra thì không thể nào lấy sự suy nghĩ hay bàn luận mà có thể hiểu được. Mục Kiền Liên đang ngồi đây nghe Phật Thế Tự Tại Vương nói pháp, nhưng ngoài tiếng nói của đức Phật này, tôn giả vẫn còn nghe rất rõ tiếng nói pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tận thế giới Ta-bà! Ngay lúc ấy, Phật Thế Tự Tại Vương ngưng nói pháp. Một vị Bồ tát tiến đến trước pháp tòa đảnh lễ đức Phật, rồi chỉ về phía Mục Kiền Liên thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn đang nói pháp thì chẳng biết con vật kia từ đâu chạy vào đây, trông thật quái lạ. Để chúng con đuổi nó đi!

Phật Thế Tự Tại Vương liền ngăn lại bảo:

– Ông đừng nói như vậy! Vị đó là Mục Kiền Liên, đệ tử thần thông bậc nhất của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta-bà.

Chúng Bồ tát lại nói:

– Bạch Thế Tôn! Sao thân hình ông ta lại quá bé nhỏ như thế?

Sở dĩ chúng Bồ tát hỏi như vậy là vì thân thể của người ở thế giới đó so với người ở thế giới Ta-bà thì cao lớn hơn đến mấy trăm lần. Đức Phật Thế Tự Tại Vương giải thích:

– Các ông không nên coi thường vị tôn giả này. Ông ấy có thần thông lớn, oai đức lớn, thường hay du hành đến các quốc độ, hành hóa một cách tự tại. Còn thân thể lớn nhỏ khác nhau là do nghiệp lực của chúng sinh ở các thế giới không giống nhau mà cảm ra.

Nói xong đức Phật quay sang bảo Mục Kiền Liên:

– Này Mục Kiền Liên! Ông từ thế giới khác đến đây, hãy hiển lộng các thứ thần hóa cho chúng Bồ tát đệ tử của ta xem để giải trừ mối nghi hoặc của họ đối với ông!

Mục Kiền Liên liền nương oai thần của Phật, hiển lộng thần thông biến hóa, rồi trở về chỗ cũ ngồi xuống. Chúng Bồ tát thấy vậy bèn tỏ lòng cung kính. Đức Phật lại hỏi tiếp:

– Này Mục Kiền Liên! Có phải ông đến quốc độ của ta là để thử xem pháp âm của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghe được bao xa không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Dụng tâm của con chính thực như vậy. Mục Kiền Liên cung kính trả lời.

– Này Mục Kiền Liên! Ông không nên có ý tưởng đó, vì đối với oai lực của chư Phật trong mười phương, hàng nhị thừa không thể nào thấu rõ trọn vẹn được. Pháp âm của chư Phật đầy khắp hư không. Đối với căn duyên của chúng sinh thì các cảnh giới có xa có gần, cho nên không thể lấy cái tâm phân biệt gần xa ấy mà thí nghiệm pháp âm của chư Phật.

Nghe xong lời dạy của đức Phật Thế Tự Tại Vương, tôn giả tự lấy làm hổ thẹn. Từ đó, trong tăng đoàn của đức Phật, tôn giả dù vẫn là người sinh động nhất, nhưng không còn dám dùng thần thông của mình để làm việc vô ích nữa.


10. CHÚNG QUỈ HỎI VỀ

NHÂN DUYÊN NGHIỆP BÁO


Không những thường hay du hành đến các Phật độ, Mục Kiền Liên còn thường hay đến các cảnh giới Địa- ngục để quán sát chúng sinh ở đó chịu quả báo lành dữ như thế nào.

Trên đường hành hóa, một ngày nọ đến bờ sông Hằng thì trời vừa tối, Mục Kiền Liên bèn dừng bước, ngồi nhập định bên bờ sông để chờ trời sáng.

Gió đêm thổi nhẹ, bầu trời trong vắt đầy sao. Bỗng đâu, chúng quỉ đói tụ tập tới bờ sông thật đông để lấy nước uống, nhưng lại bị một con quỉ thật hung ác có nhiệm vụ canh giữ nước sông ở đó, cầm gậy sắt xua đuổi, khiến cho chúng không dám xuống sông lấy nước. Lúc đó, trong lúc thiền định, Mục Kiền Liên đã quán sát và thấy rõ tội nghiệp của chúng đều không giống nhau, bèn gọi chúng lại ngồi chung quanh, nhân đó mà chúng được dịp hỏi tôn giả về nhân quả nghiệp báo của chính mình.

Con quỉ đầu tiên hỏi:

– Thưa tôn giả! Kiếp xưa con làm người, nhưng bây giờ phải đọa lạc vào chốn Ngạ-quỉ, thường bị đói khát. Nghe nói nước sông Hằng trong mát, nhưng khi con múc nước uống thì thấy nước nóng vô cùng, chỉ cần uống vào một ngụm thôi, là lục phủ ngũ tạng đều bị bỏng, đã thế lại còn bị con quỉ hung ác kia xua đuổi. Vậy xin tôn giả cho biết lúc xưa con đã tạo nghiệp gì mà phải chịu quả báo như hôm nay?

Sau một giây lát dùng thần lực quán sát, tôn giả trả lời:

– Đời trước ngươi làm nghề bói toán. Trong lúc nói về sự kiết hung của người, ngươi thường tùy ý khen chê, nói dối nhiều hơn nói thật, tự cho mình biết rõ mọi việc nhưng sự thật chỉ là lừa đảo, chỉ vì kiếm lợi cho mình mà đang tâm mê hoặc chúng sinh; bởi vậy ngươi mới phải chịu quả báo đau khổ như ngày hôm nay.

Con quỉ thứ nhì hỏi:

– Thưa tôn giả! Con thường bị một con chó thật lớn, thật mạnh ăn thịt. Khi thịt con hết rồi thì một cơn gió thổi qua xương, tức thì thịt có ra trở lại để cho con chó ấy ăn nữa. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà con phải chịu quả báo như vậy?

– Tại vì kiếp trước ngươi thường hay giết hại các loài heo, dê, gà, vịt để lấy thịt cúng thần tế trời, cho nên ngày nay phải chịu quả báo như vậy.

Con quỉ thứ ba hỏi:

– Thưa tôn giả! Bụng con thì to như cái vại mà tay chân và cổ họng thì nhỏ như cây kim, thấy đồ ăn thức uống gì cũng thèm mà không thể nào ăn được. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà con phải chịu quả báo như vậy?

– Đời trước ngươi làm quan đến chức tể tướng, nhưng vì tự ỷ mình giàu có quyền cao mà khinh khi hiếp đáp người, cưỡng chiếm tài sản do mồ hôi nước mắt người làm ra, mặc ý tư tình hưởng lạc, cho nên ngày nay phải chịu quả báo như vậy.

Con quỉ thứ tư hỏi:

– Thưa tôn giả! Đầu con thì to như cái đấu, miệng lưỡi của con thì to lớn chiếm đầy cả nửa thân trên, trong khi đó thì máu cứ từ ở nửa thân dưới phun lên, các huyết quản lúc nào cũng như muốn bể ra, mạng sống mỏng manh như chỉ mành. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà con phải chịu quả báo như vậy?

– Kiếp xưa ngươi chỉ thích bàn luận chuyện thị phi, hay nói tới cái xấu cái tốt của người, những điều ngươi nói ra không bao giờ đem lại lợi lạc cho người mà chỉ làm cho người đau khổ, cho nên ngày nay ngươi phải chịu quả báo như vậy.

Còn rất nhiều câu hỏi như thế nữa, và mỗi mỗi đều được tôn giả trả lời thỏa đáng.


11. NGUYÊN DO NGÀY HỘI VU LAN


Một ngày nọ Mục Kiền Liên bỗng nhớ đến thân mẫu đã qua đời. Trong lúc thiền định, tôn giả đã quán chiếu thấy mẹ mình đang phải chịu quả báo đau khổ trong chốn Ngạ-quỉ. Thân hình bà khô héo tiều tụy, chỉ còn da dính xương, cổ thì nhỏ như cây kim may, trông tình trạng thì có vẻ đang đói khát lắm. Tôn giả thương cảm vô cùng, bèn lấy bình bát đựng đầy cơm đem dâng cho mẹ. Thấy cơm bà mừng lắm, lấy cơm bỏ vào miệng ăn, nhưng đau khổ thay, cơm chưa tới miệng thì đã biến thành lửa đỏ, không thể nào ăn được! Thấy mẹ như thế, tôn giả thương quá, buồn quá, đau đớn quá!

Tôn giả biết là tội nghiệp của mẹ rất nặng, nhưng sức mình không làm gì được để cứu mẹ, bèn đi bái kiến đức Phật, kể rõ câu chuyện vừa rồi và xin Phật dạy cho phương pháp cứu mẹ. Đức Phật dạy:

– Này Mục Kiền Liên! Vì gốc tội của mẹ thầy quá sâu dầy, cho nên dù thần lực của thầy có rộng lớn, và dù cho lòng hiếu thảo của thầy có làm cảm động đến trời đất, nhưng chỉ có sức của một mình thầy thì không thể nào cứu nổi bà thoát khỏi cảnh giới đau khổ. Muốn cứu được bà, thầy phải nhờ đến thần lực của toàn thể tăng chúng mới được. Chỉ có sức chú nguyện của toàn thể tăng chúng mới tạo nên thần lực lớn, làm cho nghiệp chướng của mẹ thầy tiêu trừ và bà sẽ thoát khỏi các quả báo đau khổ.

Vậy, mỗi năm cứ đến ngày Rằm tháng Bảy là ngày “tự tứ” của chư tăng khi mãn khóa an cư, những người làm con nên xin chư tăng tổ chức cho lễ chú nguyện để hộ niệm cho các bậc cha mẹ đã qua đời cũng như hiện còn sống. Những người con hiếu thảo, đến ngày ấy phải sắm sửa trai phạn, hương hoa trà quả để cúng dường chư tăng; bởi vì, chư tăng trong mười phương, hoặc đang thiền định nơi hang núi hay bên bờ sông, hoặc đang kinh hành ở dưới gốc cây, hoặc đang tu tập và chứng bốn quả vị Thanh-văn, hoặc đã chứng được sáu phép thần thông và đang giáo hóa đó đây một cách tự tại, hoặc là các vị Bồ tát đang phương tiện hành hóa bằng thân tướng tì kheo, những bậc thánh chúng như vậy rất nhiều, giới hạnh của họ thật thanh tịnh, phước đức của họ như biển lớn, cho nên sức chú nguyện của họ hợp lại sẽ hùng mạnh vô cùng, làm cho cha mẹ và những người thân thuộc đã quá vãng trong nhiều đời trước được tiêu tan nghiệp chướng, thoát li các quả báo đau khổ trong các chốn tối tăm, và đồng thời cũng làm cho cha mẹ và những người thân thuộc đang còn sống được nhiều phước lạc. Đó là phương pháp mầu nhiệm và hữu hiệu để thực hiện lòng hiếu thảo.

Được Phật chỉ dạy cặn kẽ, Mục Kiền Liên vui mừng lạy tạ. Đến ngày tự tứ, tôn giả y lời Phật dạy, cung thỉnh đại chúng chú nguyện cho mẫu thân; quả nhiên, nhờ thế mà bà giải thoát được cảnh khổ đau nơi chốn Ngạ-quỉ. Để đền ơn đức Phật, tôn giả nhân đó đã đem lời Phật dạy mà hướng dẫn cho Phật tử thực hiện ngày hội Vu Lan hằng năm để đáp đền công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Và cũng bởi nguyên do này, ngoài tôn hiệu “thần thông bậc nhất”, tôn giả Mục Kiền Liên còn được tôn xưng là bậc “đại hiếu”.


12. BÀI KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT


Với thần thông rộng lớn, Mục Kiền Liên có thể thấy biết mọi sự việc xảy ra trong cả ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Tôn giả cũng lại là người thường hay thay thế Phật nói pháp.

Một hôm, vì có sự khẩn cầu của đại chúng, đức Phật đã bảo tôn giả nói về những sự việc đời quá khứ của dòng họ Thích Ca. Tôn giả đã vận dụng túc mạng thông quán sát lịch sử của dòng họ này từ nhiều kiếp xa xưa, rồi tuần tự thuật lại tỉ mỉ. Đại chúng nghe xong đều nhận thấy rằng, đức Phật đã đản sanh vào dòng họ Thích Ca, rồi thành tựu đạo quả giác ngộ, không phải là không có nhân duyên.

Rồi một hôm khác, nhân đại chúng tập họp để cùng nhau trình bày những kiến giải của mình trong việc tu học, tôn giả đã đọc cho đại chúng nghe bài kệ của bảy đức Phật như sau:

Mọi việc xấu nên tránh

Mọi việc tốt nên làm

Giữ tâm ý thanh tịnh

Đó là lời Phật dạy

Huấn thị của chư Phật ra sao? Cứ nghe bài kệ đơn giản do tôn giả Mục Kiền Liên vừa nói ra, dù là kẻ sơ học cũng thấy rõ được mục đích của Phật giáo. Bởi vậy, tôn giả cùng với bài kệ đều được đại chúng ghi khắc trong lòng.


13. THẦN THÔNG

KHÔNG CHỐNG LẠI ĐƯỢC NGHIỆP LỰC


Thần thông của Mục Kiền Liên, quả thật trong tất cả các đệ tử của đức Phật, không ai có thể so sánh được. Bất cứ việc gì, dù khó khăn đến đâu, hễ tôn giả vận dụng đến thần thông thì không có việc gì là không thành. Mặc dù vậy, việc sử dụng thần thông chỉ hữu hiệu đối với việc cứu độ chúng sinh hay giúp thêm phương tiện cho việc tuyên dương Phật pháp, chứ không thể sử dụng nó để làm những việc trái ngược lại với các luật tắc nhân quả. Thần thông không giúp thắng được nghiệp báo, cũng không thể giúp giải thoát được phiền não, sinh tử; đó là sự thật.

Một ngày kia, quê hương Ca-tì-la-vệ của đức Phật bị vua Lưu Li (Virudhaka - Vidudabha) của nước Kiều-tát-la dẫn đại quân xâm lược. Nghe được tin ấy, lúc đầu đức Phật cũng nghĩ đến việc phải bảo vệ tổ quốc. Ngài bèn ngồi ngay trên đường tiến quân của vua Lưu Li cốt ý cản trở việc tiến quân này. Đã ba lần như vậy, cứ trông thấy đức Phật thì nhà vua cho lui quân, nhưng cái tâm xâm lược cũng như cái ý chí muốn trả một mối cựu thù gì đó của nhà vua thì không chấm dứt được. Đức Phật quán chiếu và biết rõ là cái mối nhân quả nghiệp báo ràng buộc giữa hai bộ tộc từ lâu đã đến lúc phải được kết thúc, nếu không thì không thể nào giải trừ được. Bởi vậy, dù vẫn rất yêu mến quê hương, dù đã ba lần xả thân cản trở đạo quân xâm lăng, nhưng cuối cùng thì Ngài cũng đành phải để cho vua Lưu Li tấn công thành Ca-tì-la-vệ.

Nhưng Mục Kiền Liên thì không chịu vậy. Khi biết tin thành Ca-tì-la-vệ đã bị đại quân của vua Lưu Li bao vây, tôn giả bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thành Ca-tì-la-vệ đang bị tấn công, con nghĩ là mình phải ra sức cứu giúp nhân dân trong thành.

Phật nhìn Mục Kiền Liên, giọng từ ái bảo:

– Này thầy Mục Kiền Liên! Bộ tộc Thích Ca đã đến lúc phải chịu quả báo của những tội nghiệp đã gây từ bao đời trước. Đó là cộng nghiệp của họ chiêu cảm nên, thầy không thể nào chịu thế cho họ được. Họ đã không biết sám hối tội lỗi, không chịu sửa đổi những sai lầm cũ và ngăn ngừa những nghiệp xấu mới, mà vẫn cứ một mực kiêu ngạo, ngang tàng. Dĩ nhiên, ngôi nhà đã bị mối mọt đục nát thì phải bị sập đổ!

Nghe lời dạy của đức Phật, Mục Kiền Liên biết đó là sự thật, nhưng tôn giả vẫn nghĩ là có thể sử dụng thần thông của mình để cứu nhân dân trong thành được.

Vua Lưu Li dùng hàng trăm ngàn quân để bao vây thành, một giọt nước cũng khó lọt qua, huống nữa là người; cho nên Mục Kiền Liên phải dùng thần thông bay vào bên trong thành Ca-tì-la-vệ.

Vào thành rồi, tôn giả bèn chọn lấy năm trăm nhân vật ưu tú của bộ tộc Thích Ca, bỏ họ vào trong bình bát, đậy nắp lại và bay ra khỏi thành. Đến một nơi thật an toàn, tôn giả mở nắp bình bát ra, tưởng là đã cứu thoát được năm trăm người này, nhưng khi nhìn vào bình bát thì hỡi ôi! Tôn giả hoảng kinh thất sắc, tất cả năm trăm người trong bình bát đều đã biến thành máu! Lúc bấy giờ tôn giả mới sực tỉnh ngộ, lời Phật dạy quả không sai, dù thần thông có quảng đại đến thế nào đi nữa, cũng không thể thắng được nghiệp lực cùng những luật tắc nhân quả.


14. TUẪN GIÁO


Mục Kiền Liên thường sử dụng thần thông để trợ lực đức Phật trong việc hoằng dương chánh pháp, công đức thật lớn lao. Mặc dù vậy, từ lâu đức Phật vẫn thường lưu ý đại chúng rằng, thần thông không phải là pháp môn rốt ráo. Sự thật rất rõ ràng, như tôn giả Mục Kiền Liên đó, là bậc thần thông quảng đại như vậy đó, và đã từng dùng thần thông làm phương tiện hành đạo hữu hiệu như vậy đó, nhưng rốt cuộc, thần thông ấy đã không giúp tôn giả thắng được nghiệp báo của chính mình. Đức Phật muốn dùng sự thật điển hình này để răn dạy người sau.

Tuy tuổi tác mỗi ngày một cao, nhưng tinh thần bố giáo của tôn giả Mục Kiền Liên vẫn càng lúc càng sung mãn, bước chân hành hóa cứ như nước chảy mây trôi, không bao giờ ngưng nghỉ. Tôn giả không biết rằng, chính vì cái nhiệt tâm truyền bá Phật pháp ấy mà tôn giả đã bị rất nhiều tu sĩ ngoại đạo hiềm khích, đố kị. Những tu sĩ ngoại đạo ấy rất nhiều lần muốn hại đức Phật, nhưng không làm cách nào được, bèn hướng mục tiêu vào Mục Kiền Liên.

Một ngày kia trên đường hoằng hóa, khi đi ngang qua một ngọn núi thì tôn giả bị một đám tu sĩ ngoại đạo phái Lõa Hình phục kích. Họ đã xô đá từ trên núi xuống. Đá lăn xuống như mưa vào người tôn giả, cho đến khi nhục thân của tôn giả nhừ nát, ngã gục. Tôn giả đã phải chết dưới bàn tay của họ, vậy mà trong ba ngày liên tiếp, họ vẫn không dám trở lại gần nơi đó, vì vẫn còn sợ thần lực của tôn giả.

Mục Kiền Liên đã vì công việc truyền bá hạt giống bồ đề mà bị ngoại đạo hãm hại, đã vì hậu thế mà nêu lên tấm gương hi sinh vì đạo, thì nhục thân của tôn giả quả thực đã trở thành một tuyên ngôn bất hủ để lại cho thế gian! Máu của tôn giả đã không đổ ra một cách vô ích, mà dưới ánh từ quang của đức Phật, bao nhiêu vị tiên hiền thánh triết, cũng vì công cuộc hoằng pháp lợi sinh, đã noi dấu vết tôn giả mà từng dâng hiến thân mạng, dâng hiến tất cả để cho ánh sáng chân lí vẫn bất diệt ở thế gian. Ôi cao cả thay!

Tin tức tôn giả Mục Kiền Liên bị ngoại đạo ám hại chẳng mấy chốc được truyền đến hoàng cung, vua A Xà Thế bị chấn động mạnh. Nhà vua nổi giận tột cùng, liền hạ lệnh tức tốc tìm bắt hung thủ, và hậu quả tàn khốc đã xảy ra – dưới cơn giận mãnh liệt của nhà vua, đã có đến mấy ngàn tu sĩ phái Lõa Hình bị bắt ném vào hầm lửa!

Trong tăng đoàn thì toàn thể đại chúng không ai là không than khóc tiếc thương. Ai cũng bảo là trên đời sao có nhiều việc quá bất công, một vị đại thần thông như Mục Kiền Liên mà đã không tránh được cuộc tập kích của ngoại đạo! Lòng họ cứ ray rứt mà không giải tỏa được. Họ bèn cùng nhau đến bái kiến đức Phật để xin chỉ dạy:

– Bạch Thế Tôn! Sư huynh Mục Kiền Liên của chúng con là vị đệ tử lớn của Thế Tôn. Khi Thế Tôn lên thiên cung nói pháp cho lệnh bà Ma Da (Mahamaya), sư huynh chúng con đã từng đáp ứng lời thỉnh cầu của chúng con mà lên thiên cung vấn an Thế Tôn; sư huynh chúng con cũng đã từng vào chốn Địa-ngục để cứu mẹ thoát khỏi đau khổ. Sư huynh chúng con oanh liệt là thế, thần thông quảng đại là thế, vì sao mà đã không dùng thần thông để chống lại ngoại đạo, thậm chí cũng không trốn tránh sự ám toán của họ?

Vì đã quán triệt được mọi việc xảy ra, đức Phật đã không quá bị khích động như các vị tì kheo, Ngài bảo đại chúng:

– Này quí thầy! Đại đức Mục Kiền Liên là người đệ tử có thần thông số một của Như Lai, không phải là đại đức không thể kháng cự nổi quí vị tu sĩ ngoại đạo, nhưng vì lúc trước, khi vua Lưu Li dẫn đại quân xâm lăng thành Ca-tì-la-vệ, đại đức đã từng dùng thần thông tưởng có thể cứu được nhân dân trong thành, nhưng rồi đã tỉnh ngộ rằng thần thông không thể nào chống trả được nghiệp lực, nhục thể chỉ là vô thường, và nghiệp báo phải có lúc được kết thúc. Trong tiền kiếp, đại đức đã từng làm nghề bắt cá để nuôi thân, chẳng biết đã có bao nhiêu mạng sống bị chết oan bởi bàn tay của đại đức! Nhưng này quí thầy! Quí thầy cũng không nên đau buồn, đại đức Mục Kiền Liên tuy đã nhập diệt, nhưng chân lí thì vẫn không bao giờ bị tiêu diệt.

Một số đông quí vị tì kheo vẫn không dằn được bi thương:

– Nhưng sư huynh chúng con bị hại thảm thiết quá, bạch Thế Tôn! Chúng con không an tâm được!

– Này quí thầy! Quí thầy nên biết, đối với bậc giác ngộ thì việc sinh tử không là vấn đề gì cả. Có sinh thì có tử, cho nên cái chết không làm cho ta kinh hoàng sợ sệt. Điều cần yếu là chúng ta xem có thể học hỏi gì từ cái chết đó. Đối với đại đức Mục Kiền Liên, trong phút lâm chung, thần trí không hôn mê mà đã an nhiên nhập niết bàn, đó là điều rất quí báu; đến như tinh thần hi sinh thân mạng vì công cuộc hoằng dương Phật pháp của đại đức thì quả thật là cao đẹp cực cùng!

Dù Phật dạy như vậy, trong đại chúng vẫn còn một số vị tì kheo lắc đầu than thở, lòng thương cảm chưa nguôi, lại bộc bạch:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng biết tinh thần hi sinh vì đạo là cao cả, nhưng sự hi sinh của sư huynh chúng con vào lúc này thật là quá sớm. Sự nghiệp hoằng pháp còn dài và còn nhiều việc phải làm, chúng con đang cần sự lãnh đạo của sư huynh. Còn nữa, bạch Thế Tôn, về tai nạn này, sao Thế Tôn đã không bảo trước cho sư huynh chúng con biết mà đề phòng?

Những lời bộc bạch của quí vị tì kheo vừa dâng lên đức Phật, đã chứng tỏ lòng kính yêu của họ đối với tôn giả Mục Kiền Liên. Họ đã bị xúc động mãnh liệt đối với tai nạn thảm khốc của tôn giả. Đức Phật cũng rất thương cảm, cho nên lại phải an ủi họ:

– Này quí thầy! Khi đại đức Mục Kiền Liên tuẫn giáo, không phải là đại đức đã không biết trước để đề phòng. Đại đức có thần thông lớn, có thể tự bảo vệ được mình, nhưng đó không phải là biện pháp rốt ráo. Người tu hành không thể cưỡng lại các luật tắc nhân quả; quả báo của nghiệp nhân bắt cá làm kế sinh nhai ở đời trước của đại đức nay đã đến lúc phải được kết liễu. Vả lại, từ buổi đầu xuất gia, đại đức đã phát nguyện sẽ đem sinh mạng mình cống hiến cho việc phụng sự chân lí, nay đại đức đã được mãn nguyện và hoan hỉ nhập niết bàn, tất cả đệ tử của Như Lai cũng nên có cái tinh thần tuẫn giáo như Mục Kiền Liên vậy, thì Phật pháp mới được quảng bá rộng rãi ở thế gian. Này quí thầy! Quí thầy hãy học lấy cái tinh thần cao quí ấy của đại đức Mục Kiền Liên!

Lời khai thị của đức Phật đã làm cho toàn thể đại chúng vô cùng cảm động. Cái chết vì đạo của một Mục Kiền Liên đã làm nẩy sinh vô số các Mục Kiền Liên khác. Tất cả đại chúng đều vì sự trường tồn của chánh pháp mà phát nguyện học theo tinh thần tuẫn đạo cao quí của tôn giả Mục Kiền Liên.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.(