GIỚI LUẬT LÀ YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA
NGƯỜI XUẤT GIA
NGƯỜI XUẤT GIA
1. Lý do chọn đề
tài:
Giới luật là điều cần
thiết nhất cho người xuất gia vì “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp. Giới luật
còn thì Phật pháp còn”, giới luật là những điều ngăn cấm từ kim khẩu của Phật
thuyết chế ra thành giới pháp, giới tướng để các chúng đệ tử Phật thực hành giới
hạnh, nghiêm trì giới đức nhằm ngăn ngừa tất cả tội lỗi và giữ nhân phẩm gìn
thân khẩu ý được thanh tịnh. Nhờ giữ giới mà được định tâm, nhờ định tâm mà phát
sinh trí tuệ giác ngộ. Cho nên người xuất gia cần phải tôn nghiêm giới luật như
là vị đạo sư của mình để ứng dụng xây dựng đạo pháp dân tộc.
Với mục đích và ý
nghĩa nêu trên, người viết xin chọn đề tài “GIỚI LUẬT LÀ YẾU TỐ CƠ BẢN ĐỐI VỚI
NGƯỜI XUẤT GIA” để trình bày luận văn tốt nghiệp, nhằm cố gắng thể hiện sự học
tập của mình và cũng là dịp người viết có cơ hội nghiên cứu giới luật và củng cố
những kiến thức đã học.
2. Phạm vi đề tài
:
Trong tập luận văn
này người viết chỉ trình bày những gì gọi là cơ bản thiết thực đối với người
xuất gia. Vì số trang có giới hạn cũng như thời gian không có nhiều nên người
viết không thể trình bày một cách chi tiết về giới luật, vì vậy chắc chắn sẽ gặp
phải những thiếu sót lỗi lầm, ngưỡng mong Chư vị tôn túc giáo thọ sư từ bi,
hoan hỷ chỉ dạy để tập luận văn được hoàn chỉnh hơn.
3. Cơ sở tài
liệu:
Trong quá trình thực
hiện người viết đã được kham khảo những tài liệu về giới luật do chư vị Tôn túc
Hoà thượng, Thượng tọa, Ni trưởng… phiên dịch và chú giải để làm cơ sở nghiên
cứu cho tập luận văn này. Mục đích là nói lên vai trò của giới luật có liên quan
đến sự tồn tại của Phật pháp và đối với người xuất gia như thế nào? Từ đó mọi
người có cái nhìn sâu sắc hơn để nghiêm trì giới luật. Với mục đích ấy nội dung
tiểu luận này cũng muốn nhắc lại môỉt lần nữa về sự quan trọng của giới luật
trong đời sống xuất gia.
4. Phương pháp nghiên
cứu:
Như chúng ta đã biết,
trên lộ trình tu tập giải thoát thì người xuất gia phải trải qua ba môn Vô lậu
học Giới-Định-Tuệ, vì đây là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc.Trong
đó, Giới vô lậu học đóng vai trò cơ bản nhất đối với người xuất gia, vì Giới
chính là nền tảng cho người xuất gia, là yếu tố quan trọng để sanh định và phát
tuệ. Như thế, người xuất gia trước tiên cần phải nghiêm trì giới
luật.
Vì bất cứ một tổ chức
đoàn thể nào muốn tồn tại và phát triển lâu dài thì cũng đều phải có một nội quy
tuân thủ. Một xã hội muốn thái bình thịnh trị thì phải có luật pháp của xã hội
đó, mà người xưa đã nói: “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, Vậy thì huống chi
một đoàn thể tôn giáo mà có thể nói là không có giới luật. Đạo Phật cũng như
thế, nhờ có giới luật mới thống nhiếp được Tăng đoàn, nhờ vậy mà Phật giáo tồn
tại ngày càng hưng thịnh đến ngày nay. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng trải
qua hơn 2500 năm lịch sử đầy những thăng trầm, có lúc Phật giáo tưởng chừng như
đã biến mất hẳn ngay trên bản địa, nhưng ngược lại Phật giáo vẫn tồn tại và phát
triển khắp năm châu. Hiện nay sự thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với những
tư tưởng tiến hóa của nhân loại đòi hỏi thẩm định lại giá trị của nhiều tư tưởng
triết học xưa nay, và đương nhiên những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu phản
khoa học đều phải tự đào thải trước những văn minh tiến bộ của loài người. Thế
mà, tòa nhà cổ 25 thế kỷ của Phật giáo vẫn tồn tại cùng năm tháng sừng sững như
cây đại thọ giữa núi rừng trùng điệp. Điều này chứng minh rằng Phật giáo đã toát
ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị tinh thần phong phú, tinh
thần ấy chính là sự thể hiện giáo pháp trong mỗi đời sống con người, giáo pháp
ấy phải chăng là những chân lý vượt cả không gian và thời gian, bao gồm ba tạng
kinh, luật, luận. Trong đó Luật tạng được xem là bậc thầy cao cả của đại chúng,
như kinh Bồ tát giới viết:
“Giới như đại minh
đăng
Năng tiên trường dạ
ám
Giới như châu bảo
kính
Chiếu pháp tận vô
vi
Giới như ma - ni
châu
Vũ vật tế bần
cùng
Ly thế tốc thành
Phật
Duy thử pháp vi
tối”.
Nghĩa là : Giới như
ngọn đèn sáng lớn, có khả năng tiêu trừ đêm dài tăm tối. Giới như tấm gương quý
báu soi thấu hết thảy các pháp. Giới như viên ngọc như ý hóa vật để giúp kẻ
nghèo. Muốn được mau giải thoát thành Phật chỉ có giới là hơn hết. Phải chăng
đoạn kinh trên đã nghiễm nhiên xác nhận giới chính là nền tảng căn bản, là những
nấc thang đầu của đạo quả giác ngộ, là nền tảng của thiền định và trí tuệ, là
phao nổi đưa người qua biển khổ sanh tử, là kho tàng vô lượng công đức, và cũng
chính là cửa ngõ duy nhất để vào thành trì Niết bàn.
Kinh Phương Đẳng đức
Phật cũng nói: “Giới là cội gốc hết thảy các điều lành”, vì người giữ giới là
khuôn khổ làm cho thân, khẩu, ý được trong sạch, ngăn chặn tội lỗi phát sinh,
diệt trừ thói quen làm việc ác và do nhờ giữ giới trong sạch thì mới có thể duy
trì các thiện pháp. Bởi thế, người tu học Phật không thể không am tường giới
luật, vì giới luật là mạng mạch của tăng đoàn.
Thật vậy, nếu trong
sinh hoạt cộng đồng Tăng lữ mà không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp,
thì Tăng đoàn sẽ tiêu vong. Cũng như đã nói một quốc gia muốn cường thịnh thì
không thể thiếu pháp luật được. Nếu hạnh phúc cần thiết cho cuộc sống như thế
nào thì giới luật Phật giáo cũng quan trọng như thế ấy. Như đức Thế Tôn đã dạy :
“ Tỳ ni tạng trụ Phật
pháp cửu trụ
Tỳ ni tạng diệt Phật
pháp diệc diệt”.
Qua đó, chúng ta thấy
rằng Giới là nền tảng, là đạo lộ đưa đến môỉt ý hướng phát triển tâm thức, nâng
cao phẩm chất đạo đức nơi mỗi cá nhân để làm chất liệu bồi dưỡng cho trí tuệ. Vì
bản chất của giới luật là phòng hộ, là bờ đê ngăn cản những dòng nước đục từ bên
ngoài các ngõ thân và ngữ tràn vào tâm làm cho tâm tư vẩn đục. Song song đó,
giới là suối nguồn thanh tịnh, là nấc thang đầu tiên để bước đi những bước kế
tiếp. Ví như một căn nhà được xây dựng bằng một nền móng vững chắc, thì căn nhà
ấy sẽ tồn tại lâu dài. Cũng vậy, nếu hiện tại chúng ta sống đúng với giới luật,
thì đó là biểu tượng cho chánh pháp được trường tồn, đồng thời cũng nói lên được
tinh thần chấn hưng Phật giáo một cách rõ rệt.
Lại nữa, giới là
tâm thanh tịnh, cho nên chữ Giới được định nghĩa là thanh lương, làm cho mình
nhẹ nhàng thoải mái, chứ không phải là sự gán ép, bắt buộc khi hành giả muốn có
được tâm thanh tịnh thì cần phải lắng đọng những vọng tưởng chấp trước. Cũng như
ánh sáng tràn đến thì bóng tối tự tan đi, cho nên hàng ngày, hàng giờ, chúng ta
phải cấp tốc hành trì giới pháp của đức Như Lai, đừng để thời gian qua mau rồi
uổng phí, thật chí lý thay khi đọc đến 4 câu kệ:
“ Ngày đã tận cần tu
gấp rút
Giới giữ sao trong
sạch như xưa
Định huệ không thiếu
không thừa
Lợi ích dân chúng
đúng vừa khả năng”.
“Tâm tịnh
tức Phật độ tịnh” chúng ta là những người con của đức Như Lai, được tắm mình
trong dòng pháp của Ngài. Vì thế chúng ta đừng ngại ngùng thừa hưởng dòng pháp
mát dịu đó, tức là chúng ta phải lấy giới luật làm hành trang trên bước đường tu
học, chắc chắn hành giả sẽ có một hình tướng trang nghiêm cộng thêm một tâm hồn
tịnh lạc, và việc hành trì giới luật cũng chính là làm cho mạng mạch Phật pháp
kéo dài, hưng thịnh, thế giới hòa bình và chúng sanh an lạc.
NỘI DUNG
“Hủy hình thủ chí
tiết
Cắt ái từ sở
thân
Xuất gia hoằng thánh
đạo
Thệ độ nhất thiết
nhân”.
Ngay khi xuất gia vào
chùa học đạo đã phải từ xa họ hàng thân thuộc, cha mẹ, anh em, bạn bè để cạo bỏ
mái tóc xanh, khoác lên mình mảnh áo hoại sắc, nuôi dưỡng trong lòng một hoài
bảo lớn “Hoằng thánh đạo” và “Độ nhất thiết nhân”. Hoài bảo ấy chính là tâm Bồ
đề. Tâm Bồ đề, là một nguồn năng lực rất mạnh, chính nó đã thôi thúc chúng ta đi
xuất gia và năng lực ấy tiếp tục phát triển trong suốt thời gian chúng ta sống
đời sống xuất gia. Năng lực này giúp chúng ta có thêm sự tinh tấn, dõng mãnh, đủ
nghị lực để vượt qua mọi khó khăn trở ngại và giúp cho chúng ta có hạnh phúc.
Mảnh đất nuôi dưỡng tâm Bồ đề này xanh tốt nhất là khi bước lên nấc thang Tỳ
kheo - nấc thang hàng đầu của các chúng, là môi trường thích nghi nhất, để từ đó
tâm Bồ đề phát huy hết năng lực đã phôi thai và nuôi dưỡng suốt thời gian làm
điệu với đời sống của một Sa di hay Sa di ni.
Tổ Quy Sơn đã nhắc
nhở vấn đề này rất khẩn thiết trong văn cảnh sách: “Đã là người xuất gia là phải
cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình phải khác tục. Nối thạnh dòng Thánh,
hàng phục quân ma để đền trả bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu không như thế, xen lẫn
trong chúng Tăng, lời nói hạnh kiểm vẫn còn hoang sơ, luống hao của tín thí, chỗ
đi năm trước, tấc bước không rời, lếu láo một đời, lấy chi nương tựa? Huống nữa,
đường đường Tăng tướng, dung mạo dễ xem. Sở dĩ được như thế là do đời trước đã
gieo trồng căn lành, nên đời này mới được quả như thế ấy…” Thế nên, ta thấy rằng
người xuất gia không phải vì cơm áo, cũng chẳng vì hoàn cảnh, một lòng tha thiết
muốn nối thạnh dòng Thánh, độ tận chúng sanh, thì đối với việc bước lên địa vị
Tăng bảo quả là niềm khát khao lớn, phải có một ý niệm như thế, một tâm Bồ đề
vững chãi như vậy mới thật sự xứng đáng đứng vào hàng “ Trưởng tử Như
Lai”.
Trong hoàn cảnh xã
hội tiến bộ ngày nay, một trưởng tử Như Lai muốn làm nên sứ mạng của Như Lai đã
phó thác, thì nhất định phải có vốn kiến thức khá vững vàng về Phật học lẫn thế
học. Bởi lẽ, không ai không công nhận là về phương diện tinh thần, giáo lý đạo
Phật đã nuôi sống nhân loại trên hơn hai ngàn năm nay, và hình ảnh người xuất
gia - những người trưởng tử Như Lai, từ đời này sang đời khác đã không ngừng nói
lên cái thật, cái tốt đẹp của cuộc đời. Từ Hương Hải trên dải đất hẹp của xứ
Đàng Trong, cho đến Bách Trượng với đỉnh cao của núi, dưới biển trên non, nơi
nào có linh khí của đất trời, nơi đó có cuộc sống an nhiên tự tại của các Ngài.
Lý tưởng của người xuất gia là một cuộc dấn thân trọn vẹn cho mục đích giải
thoát cho chính mình và cho tha nhân. Không có gì khác hơn ngoài tâm ấy, nguyện
ấy. Hễ có một ngày để sống thì cũng sống vì chuyện ấy, mà có cả một đời để sống
thì cũng dành hết tất cả nỗ lực, sức bình sanh cho việc xuất gia mà thôi. Không
hơn và không kém, chúng ta cứ suy nghĩ cho thật kỹ đi, rồi chúng ta cùng lên
đường, bây giờ hay mai sau, lúc nào cũng được. Và để ca ngợi về công hạnh của
người xuất gia, đức Điều Ngự Giác Hoàng có lời kệ rằng: “Phù thế gian tối quý
giả, bất như xả tục xuất gia. Nhược đắc vi tăng, tiện thọ nhân thiên cúng dường,
tác Như Lai chi sứ giả, dữ Hiền Thánh chi tôn thân”.
Tạm dịch
là:
“ Thế gian cao quý
hơn người
Sao bằng xả tục, sống
đời xuất gia
Làm Tăng, sứ giả Phật
đà
Trời người cung
dưỡng, Thánh là tôn thân”.
Vì sao người “ Xả tục
xuất gia” lại được xem là bậc “Thế gian tối quý”? Để xứng đáng là sứ giả của Như
Lai, là tôn thân của các bậc Hiền Thánh, không hổ thẹn khi lãnh thọ sự cúng
dường, hàng xuất gia phải có một nếp sống phạm hạnh “Bạt tục siêu quần” như thế
nào? Vấn đề sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta tiếp tục tìm hiểu về phần định nghĩa
xuất gia.
1 . Định nghĩa xuất
gia :
Xuất gia (Nekkhamma)
có nghĩa là khước từ những điều hạnh phúc nhất của thế gian để chọn lấy đời sống
tu sĩ, cũng có nghĩa là tạm thời vượt qua khỏi các pháp che lấp Niết bàn bằng
cách thực nghiệm con đường Giới – Định – Tuệ.
Kinh tạng Nikàya
thường mô tả: Xuất gia là cạo bỏ râu tóc, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
sống trong pháp và luật của đức Thế Tôn. Đời sống xuất gia còn được gọi là đời
sống phạm hạnh – phạm hạnh ở đây chỉ cho sự cố gắng liên tục để hướng đến sự
thanh tịnh tối thượng, sự đoạn tận mọi thứ bất tịnh nhiễm ô, sự chế phục đối với
những nhu cầu khát vọng của cuộc sống thế tục. Theo kinh điển Đại thừa, danh từ
Xuất gia có ba nghĩa :
1. Xuất thế tục gia
: Là ra khỏi ngôi nhà thế tục, từ bỏ mọi sự trói buộc của người thân, sống đời
sống của vị Tỳ kheo bằng cách tu hành và thanh lọc thân tâm.
2. Xuất phiền não
gia : Là ra khỏi căn nhà phiền não, nhiễm ô.
3. Xuất tam giới gia
: Là vị Tỳ kheo phải nỗ lực tu hành để vượt ra khỏi ba cõi, dục giới, sắc giới
và vô sắc giới.
Ở bình diện triết lý,
ba ý nghĩa xuất gia trên được hiểu một cách thiết thực, cụ thể hơn, người xuất
gia phải đoạn trừ mọi sự trói buộc của sợi dây tình cảm gia đình và phải dứt bỏ
mọi sự ước muốn của lòng tham ái và chấp thủ. Một người mong ước xuất gia là vì
vị ấy nhận thức được rằng tất cả mọi vật chất xa hoa đều là hư ảo, vô thường
biến hoại. Chính vì nhận thức được như thế, nên hành giả tự nguyện lìa bỏ tất cả
sự nghiệp, danh vọng của cuộc đời, chấp nhận một cuộc sống tu hành đơn giản,
bình dị về vật chất để đạt được mục đích cao thượng và giải thoát. Do vậy, đời
sống xuất gia phải là đời sống hoàn toàn thanh tịnh. Người ấy phải là một người
luôn mang lại hạnh phúc cho tự thân và tha nhân. Kinh Đại Phương Tiện Báo Ân có
đề cập về sự xuất gia như sau: “Việc xuất gia khó khăn, cắt ân ái, từ dục vọng,
cô thân chích ảnh đi trên đường giác ngộ, hiến cả đời mình cho một mục đích duy
nhất: “Hoằng pháp lợi sanh” – Việc xuất gia cần phải có năng lực, một năng lực
vĩ đại lắm, kiên cố lắm mới làm nổi việc của người xuất gia, cái việc bỏ mình vì
người. Năng lực ấy không ai không có, nhưng không có cái gì mà không có nguyên
nhân , năng lực xuất gia không phải khi không mà có được. Nó là cả một sự điêu
luyện. Với người xuất gia thì không điều gì khó, nhưng vì không có điều gì khó
nên phải có một năng lực rất lớn và chắc. Chúng ta thường hay có thói xấu là ỷ
lại, kém tự tin, rồi khổ sở, chúng ta mới tìm đến đạo pháp. Chúng ta làm như
muốn trốn nắng thì núp vào bóng cây, mà đâu hay biết rằng đạo Phật là phải đem
thân mình che nắng đỡ mưa cho người…”. Qua đó, chúng ta thấy rằng sự xuất gia
rất khó, đòi hỏi phải có một sức mạnh chịu đựng thật vĩ đại và kiên cố vượt khổ
thì mới làm được. Đời sống của bậc xuất gia tự do và cao cả, như trời xa thăm
thẳm, mà chính sự thanh lọc bên trong đời sống gương mẫu làm cho người xuất gia
trở nên trong sạch. Sự đổi thay hay sự thanh tịnh thuần khiết được thấm đượm từ
trong ra ngoài, chứ không phải từ ngoài vào trong. Người xuất gia đi theo con
đường giác ngộ, có tinh thần cầu giải thoát, chí khí của bậc trượng phu siêu
việt, bỏ thế tục đi trên con đường giác ngộ – là con đường tự lợi, lợi tha. Con
đường thoát vòng luân hồi sanh tử cho mình và tiếp tục hoằng dương chánh pháp để
dìu dắt người khác cũng được giải thoát như mình. Chính vì có sự nhận thức như
vậy, chí nguyện như vậy cho nên mới dám hủy bỏ hình thể thế gian để tiến bước
trên con đường cao rộng. Đạo Phật thẳng, người xuất gia phải thẳng, đạo Phật
rộng, người xuất gia phải rộng. Cũng như mặt trời phải cao nhất thì ánh sáng mới
bao phủ hết thảy vạn vật.
Thật vậy, người xuất
gia thấy muôn loài chịu đau khổ nên họ phải vận dụng năng lực của mình để sáng
tạo ra một cảnh trời giải thoát. Giải thoát là mục đích cao đẹp, lợi tha là hành
động hợp lý. Người xuất gia chỉ biết sự cao đẹp và sự hợp lý ấy mà hành động.
Điển hình như trong Luật Thiện Kiến, đức Phật từng khen ngợi rằng:
“Lành thay bậc Đại
trượng phu
Biết rõ cõi thế vô
thường
Bỏ tục hướng đến Niết
bàn,
Công đức thật khó
nghĩ lường”.
Như thế, người xuất
gia phải có đại căn, đại trí và đại nguyện mới thực hiện được ý nghĩa của xuất
thế tục gia, xuất phiền não gia và xuất tam giới gia. Đồng thời phải đạt được
giới thể thanh tịnh và giới đức trang nghiêm mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của
người con Phật.
2 . Mục đích xuất gia
:
Người xuất gia là
những người mẫu mực để làm chỗ dựa tinh thần xứng đáng cho tín đồ, làm gương
sáng cho đời và làm lợi ích cho xã hội trong hiện tại cũng như tương lai. Vì họ
giữ gìn giới luật thanh tịnh, tất nhiên được giới đức trang nghiêm, thành bậc mô
phạm của mọi người. Khi tư duy, nói năng hay làm bất cứ việc gì, chắc chắn đều
đem lại những lợi ích cao thượng và thiết thực cho tất cả. Vì vậy, mục đích của
người xuất gia là “Hoằng pháp lợi sanh” để đi đến vô thượng giác. Mục đích ấy
không phải người xuất gia chỉ làm trong một đời mà đạt được, trái lại phải đời
đời, kiếp kiếp hoằng pháp lợi sanh, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thì
mới có thể đạt đến tri giác vô thượng. Tuy vậy đời đời, kiếp kiếp đều lấy sự
xuất gia của đời này làm cơ bản. Nếu nền móng không chắc chắn thì nhà cửa xiêu
vẹo, cũng vậy, sự xuất gia với mục đích không chân chánh thì sẽ không thành tựu
được điều gì cả. Cho nên, người xuất gia phải nhận thức rõ và quyết chí theo
đuổi mục đích vô thượng của mình. Một người xuất gia với động cơ chân chánh là
người đã nhận thức được sự thật khổ đau của cuộc sống, họ nhận thức được rằng
cuộc sống này là giả tạm vô thường. Mọi vật trên thế gian này đang bị các ngọn
lửa tham, sân, si, sầu bi, khổ não… thiêu đốt và vị ấy mong cầu thoát ra khỏi
ngọn lửa ấy bằng cuộc sống phạm hạnh.
Mục đích của người
xuất gia là mong muốn đạt được hạnh phúc và giải thoát đích thực ngay tại đời
này và nhiều kiếp về sau. Đức Phật là người đã thành đạt mục đích ấy và đã chỉ
dạy lại cho con người phương cách đi đến mục đích cao thượng đó. Nghĩa là, Ngài
đã chỉ dạy cho hàng đệ tử thấy được giá trị đích thực của đời sống xuất gia, ấy
là một đời sống giải thoát.
Vậy hàng
xuất gia muốn đạt được mục đích tối hậu như đức Phật, vị ấy phải sống một đời
sống mẫu mực trọn vẹn của một thánh giả A-la-hán, nó bao gồm bốn sự thanh tịnh
sau:
1. Sự thanh tịnh về
việc giải thoát luật nghi:
Nghĩa là vị ấy có khả
năng đề kháng và chống giữ những dòng nước lũ ô nhiễm từ bên ngoài ngang qua các
hành vi của thân, ngữ và ý tràn ngập vào tâm và làm cho tâm dơ bẩn.
2. Sự thanh tịnh
về phòng hộ căn môn:
Tức là khả năng kiểm
soát các giác quan, sáu cánh cửa mà sự ô nhiễm có thể đi vào tâm.
3. Sự thanh tịnh về
phương tiện sống:
Tức sống theo bốn
truyền thống của chư Phật, gọi là bốn thánh chủng gồm :
a) Ba y và bình
bát.
b) Sống khất
thực.
c) Ngủ nghỉ dưới
gốc cây.
d) Dùng dược phẩm
trị bệnh.
4. Niệm thanh tịnh
và đời sống thanh tịnh:
Là người ấy luôn luôn
chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của mình. Mỗi
bước đi của một Tỳ kheo trong đời sống mẫu mực trên là mỗi bước đi ra khỏi các
tác nhân gây ra sự rối loạn tâm lý, bước vào an lạc hạnh phúc của tâm giải thoát
và tuệ giải thoát. Rõ ràng cuộc sống thanh tịnh nương vào bốn thánh chủng trên
là một cuộc sống đặt trên nền tảng của Giới, Định, Tuệ. Đây là con đường độc
nhất đưa ta đến giải thoát Niết bàn.
Giới, Định,
Tuệ là ba thành tố của con đường trung đạo mà đức Phật đã tự khám phá ra. Hay
nói cách khác, tam học này là ba mặt của một thực thể giải thoát. Vì thế, khi
hành giả sống đúng con đường trung đạo này chính là đang từng bước nắm giữ hạnh
phúc chân thật và tiến vào cánh cửa của Niết bàn. Giới - Định -Tuệ là ba điều
không thể tách rời nhau, mỗi khi ta đề cập đến giáo lý Phật giáo. Ba pháp này
cũng luôn luôn hiện hữu mỗi khi một trong ba pháp ấy được áp dụng tu tập. Do
vậy, khi đề cập đến một tức đã bao hàm cả ba thứ trên rồi.
Khi đã nói tam vô lậu
học là ba mặt của một thực thể giải thoát, thì trong Giới vốn đã có Định, Tuệ.
Trong Định vốn đã có Giới, Tuệ và trong Tuệ vốn đã có Giới, Định. Mức độ thăng
hoa của một trong ba chi phần này luôn luôn có liên quan đến hai phần kia. Có
tuệ thì ta mới biết đâu là chánh giới, có tuệ mới ổn định được tâm. Càng thực
hiện Giới, tức hành giả thực hiện các qui luật tự nhiên và càng hiểu về thực
tại, từ đó hiểu rõ được tâm. Khi ta ổn định được tâm thì tâm hoàn toàn thanh
tịnh vậy.
3. Những nguyên tắc
cần thiết cho người xuất gia :
Vì hiểu rằng đời là
khổ, vô thường, không có một bản ngã bất biến thường hằng nên người tu sĩ Phật
giáo luôn tinh tấn tu tập và hành trì giới pháp để mong giúp mình, giúp người
diệt khổ. Đó là phẩm chất của một Tỳ kheo, do hành trì giới luật được thăng tiến
trong quá trình tu tập. Sự việc này được ghi nhận qua hình ảnh đức Thế Tôn với
những nhận xét của ngoại đạo như sau: “Sa Môn Cồ Đàm đã dứt bỏ việc gây hại cho
đời, đã mất hẳn các khuynh hướng gây hại ấy. Ngài đã gạt bỏ gậy gộc và gươm
giáo, Ngài sống một cách nghiêm hòa tràn đầy khoan lượng lòng từ bi, mong muốn
hạnh phúc cho chúng sanh. Ngài đã dứt bỏ việc lấy của người khác, đã mất hẳn cái
khuynh hướng lấy của mà người khác không cho mình. Ngài nhận những gì trao cho
Ngài và sẵn sàng đem cho những thứ ấy, Ngài sống bằng tấm lòng chân thật thuần
khiết…” [1, 4]. Đó là những phẩm chất cao quý của đức Phật làm gương mẫu cho
Tăng đoàn – Phẩm chất ấy được thể hiện trong đời sống hàng ngày của mỗi Tỳ kheo.
Hình ảnh hiền hòa, thanh bần của chư vị đã trở thành thân thuộc đối với mọi
người. Nên có bài kệ rằng:
“Ở chốn trần ai chớ
nhiễm trần
Chuyên cần trì giới
luyện tâm thân
Lo tu lắng định lòng
mình trước
Đuốc tuệ sau này rọi
thế nhân”.
Thật vậy, cuộc sống
thanh bạch và giới hạnh là nền tảng nâng cao phẩm giá của người xuất gia, bởi
mục đích cao thượng của người xuất gia là giải thoát giác ngộ. Tuy nhiên, là
những người đang tập sự làm Phật, cho nên hàng đệ tử Như Lai tính tình mỗi người
một khác. Có người do nghiệp chướng sâu dày hoặc hoàn cảnh không đồng nhau, vì
vậy khó có thể điều phục được trong cuộc sống. Ngay thời Phật còn tại thế, vẫn
có nhiều Tỳ kheo phạm lỗi lầm, huống gì vào thời mạt pháp ngày nay ắt khó có thể
tránh được sự xáo trộn và phiền toái tranh chấp xảy ra. Vì thế, để tạo điều kiện
sinh hoạt hòa hợp của chư Tăng, đức Thế Tôn đã chế ra sáu nguyên tắc sống hòa
hợp còn gọi là sáu Pháp hòa kính. Sáu pháp này được diễn đạt như sau:
1. Thân hòa đồng trụ
:
Tức thân cùng sống
chung một chùa, một tập thể cần phải hài hòa cởi mở, thuận thảo với nhau như sữa
hòa với nước. Chúng ta phải chấp nhận cuộc sống tập thể nương với nhau để tiến
tu đạo nghiệp và tạo sức mạnh của “Đức chúng”, kết liền nhau thành một khối giới
đức, mang hương giới đến cho tất cả mọi người, hầu lấy đó làm đoàn thể mô phạm,
là điểm dựa tinh thần cho tất cả chúng sanh quy ngưỡng. Có như vậy hàng tu sĩ
Phật giáo chúng ta mới thật sự là người “Hành Như Lai sự” một cách triệt để, đưa
giáo pháp ngày càng trở nên sáng rạng và trường tồn.
2. Khẩu hòa vô
tránh :
Là dùng lời nói nhã
nhặn, thể hiện rõ nét một con người có văn hóa và đạo đức. Người tu sĩ sống
chung trong đoàn thể Tăng già, nếu không áp dụng được “khẩu hòa vô tránh” thì
thành phần ấy đã phá hòa hợp Tăng, vì đó là hành động gián tiếp gây tổn thương
đến uy tín hay thanh tịnh của Tăng đoàn. Thế nên tục ngữ có câu:
Miệng hòa lời nói dịu
dàng
Ôn tồn chân thật lại
càng quý hơn
Khuyên ai chớ nói xa
gần
Đừng lời khiêu khích
gợỉi phần hơn thua
Lời nói không mất
tiền mua
Lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau.
3. Ý hòa đồng duyệt
:
Trên sự sống chung
mọi ý tưởng đều được hài hòa, cởi mở vui vẻ và nhu hòa mang tính từ ái khoan
dung, vị tha hỷ xả. Như thế thì thân và khẩu mới đem niềm vui cho mọi người.
Bằng ngược lại, nếu ý nhỏ mọn tỵ hiềm ganh ghét, cố chấp hay để tham, sân, si,
mạn, nghi, ác kiến hoành hành thì nhịp cầu cảm thông khó bắt được và đây chính
là đầu dây của mọi thứ tranh chấp. Điển hình là sau khi đức Phật nhập diệt, Tăng
đoàn của Ngài chỉ vì bất đồng quan điểm về giới luật mà phân ra thành hai bộ
phái.
4. Giới hòa đồng tu
:
Tức sự giữ gìn giới
luật thanh tịnh, trang nghiêm phạm hạnh giúp đỡ khuyến tấn, khuyên bảo cho nhau.
Khi hành, trụ, tọa, ngọa thân, khẩu, ý đều quy nhiếp trong giới luật, ai cũng cố
gắng hòa hợp thanh tịnh để tạo sức mạnh tinh thần giải thoát. Giới luật là
phương tiện cho đạo nghiệp tu hành, như người cư sĩ có 5 điều phải tránh, hàng
xuất gia có 10 giới hoặc 250 hoặc 348 giới, tất cả đều chỉ ba nghiệp thân – khẩu
– ý của người xuất gia gây tạo. Giới luật hòa nhau nghĩa là đồng y theo giới
luật của Phật chế ra mà tu tập và không thọ giới pháp của ngoại đạo.
5. Kiến hòa đồng
giải :
Tức cùng nhau nâng
cao trình độ hiểu biết để có văn tư rồi mới tu, nhân đó mới có Giới, Định, Tuệ…
Tất cả những hiểu biết về giáo pháp phải được đem ra giải bày, khai mở tâm trí
cho nhau. Không nên “Lậu pháp” và bỏn xẻn giữ riêng cho mình những sự hiểu biết
về giáo pháp mà mình đã khám phá ra. Người ta kiến giải tức là sự nhận thức về
một vấn đề sáng tỏ, phải đem chia sớt, giảng nói để cùng nhau học tập. Nếu có ai
hiểu sai giáo lý thì mình phải thật lòng ôn tồn giải bày cương quyết, để người
từ bỏ tà kiến và quay về Phật đạo.
6. Lợi hòa đồng
quân :
Khi có tài lợi là
chúng ta phải đem phân chia đồng đều, cùng nhau thọ dụng, không được chiếm đoạt
của riêng cho mình. Ta thấy rằng của cải vật chất đối với người tu hành không
phải là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên sử dụng tài lợi một cách bất hòa thì chắc
chắn sẽ gây ra những thắc mắc không tốt đẹp. Do vậy, Tăng đoàn luôn luôn tỉnh
giác, biết rõ mọi vật thực đều là phương tiện, không thể đưa ta đến chân trời
giải thoát. Vì vậy, chúng ta không nên tham đắm lợi lộc và phải lợi hòa đồng
quân mới có thể xoá bỏ được ngã và ngã sở. Có lợi hòa đồng quân thì chúng ta mới
san bằng được mọi hầm hố chia sẻ bất công giai cấp trong xã hội, trong Tăng đoàn
và trong môn tự, nhằm kiến tạo một nếp sống thánh thiện, an vui.
Vậy Lục hòa là sáu
điều luật, xét trên phương diện chân đế nó cô đọng cả một kho tàng luật tạng và
giúp hành giả tiến đến con đường Giới, Định, Tuệ. Xét về phương diện tục đế thì
nó là tinh thần đoàn kết, hòa hợp an vui trong Tăng đoàn. Nếu một quốc gia, một
thế giới hay đối với một môi trường nào cũng vậy, Lục hòa chính là yếu tố nhằm
giúp tồn tại sinh mạng con người. Vì thế, Cổ đức dạy rằng: “Tăng già lấy lục hòa
làm gốc. Giải thoát lấy giới luật làm đầu”. Nguyên tắc “Lục hòa” nầy không chỉ
áp dụng để có kết quả tốt đẹp trong Tăng chúng, mà nó còn được áp dụng cho bất
cứ một tập thể sinh hoạt nào. Nguyên tắc ấy vừa đầy tình thương, đầy nhân cách,
đầy công bằng hợp lý và còn có thể áp dụng cho cả hàng nam, nữ cư sĩ tu tập nữa.
Để duy trì đời sống thanh tịnh, hòa hợp với nhau giữa các hàng Tỳ kheo, ngoài
pháp Lục hòa đã đem lại sự tương ái, tương kính, hòa hợp nhất trí trong Tăng
chúng, đức Thế Tôn còn chế ra bảy Pháp Diệt Tránh để dập tắt các cuộc tranh cãi,
bảy pháp ấy được tóm lại như sau: “Luật về sự hiện diện gọi là hiện tiền tỳ ni,
luật về không si mê gọi là bất si tỳ ni, luật về sự thú nhận gọi là tự ngôn trị,
luật về đa số gọi là đa nhân mách tội, luật về tìm tội tướng gọi là tội xứ sở và
luật về sự trải cỏ ra gọi là như thảo phú địa”. Bảy pháp diệt tránh là bảy cách
chấm dứt sự tranh cãi của chúng Tăng, bắt buộc chư Tăng phải hành trì. Đối với
tự thân, khi tránh sự phát triển với chính mình thì phải trừ diệt đúng theo các
pháp diệt tránh đã định. Thứ nữa là chấm dứt sớm các mầm móng đưa đến suy sụp,
đổ vỡ trong Tăng chúng, cũng chính là phục hồi nguyên thể thanh tịnh hòa hợp của
Tăng đoàn mau chóng được hưng thịnh, duy trì diệu pháp làm lợi lạc, mang lại
hạnh phúc cho chư thiên và loài người.
Cũng vậy,
đức Phật chế giới là để Tăng chúng trong hiện tại sinh hoạt được an ổn và để
ngăn ngừa các hiện tượng xấu xảy ra về sau. Bởi không có sức tàn phá nào ghê gớm
bằng những con siêu vi trùng nằm trong thân thể chúng ta, và cũng không có gì
đáng sợ bằng những con người đội lớp mang danh trong vỏ sò đạo đức. Vì thế, ngạn
ngữ phương tây có câu: “Không phải gai bên đường làm đau chân anh, mà chính là
hạt sạn trong giày anh đang mang đó”.
1. Nguyên nhân đức
Phật chế giới :
Trong bài tựa Giới
kinh có đoạn:
“Nay diễn pháp Tỳ
ni
Cho chánh pháp hằng
còn
Giới như bể không
bờ
Như báu cầu không
chán
Muốn hộ trì chánh
pháp
Chúng hợp nghe tôi
tụng…”
Phàm muốn ra
khỏi biển sông mê, bước lên bờ giác, muốn từ bỏ cuộc sống triền phược tối tăm để
đạt được cảnh giới Niết bàn, thì hành giả phải nghiêm trì tịnh giới. Vì Giới
chính là bước thang đầu của quả giác ngộ, là nền tảng của thiền định trí tuệ và
cũng là kho tàng vô lượng công đức. Vì thế, những ai thường thao thức cho sự
nghiệp giải thoát của chính mình và sự tồn tại vĩnh cửu của đạo Phật thì phải
nghiêm trì Giới luật. Bằng ngược lại chúng ta đã làm lu mờ chánh pháp và bản
thân bị sa đọa trầm luân. Điển hình là giới luật Phật giáo trong những năm đầu
sau khi đức Phật thành lập Tăng đoàn, các vị Tỳ kheo là những bậc thánh Tăng
sinh hoạt thanh tịnh trong chánh pháp. Giới luật lúc bấy giờ chính là sự huấn
dụ, khuyên bảo nhắc nhở của đức Thế Tôn đã được chư vị áp dụng một cách tự nhiên
trong đời sống hàng ngày. Cụ thể vào năm thứ ba sau ngày Phật thành đạo, Ngài đã
đọc bản Ovàda Pàtimokkha lần đầu tiên trước hội chúng 1250 vị Tỳ kheo, vào ngày
trăng tròn khoảng tháng 2 hay tháng 3 năm ấy. [15, 131]
Đó là bài tụng mang ý
nghĩa rất đơn giản mà lại đượm nhuần hình ảnh thanh cao trong vấn đề hộ trì tam
nghiệp:
“Khéo giữ gìn lời
nói
Tự trong sạch ý
chí
Thân không làm điều
ác
Ba nghiệp được thanh
tịnh
Thực hành được như
thế
Là đại đạo tiên
nhân”.
(Bản dịch của HT Trí
Thủ)
Dần về sau, trong
Tăng đoàn xuất hiện nhiều thành phần xuất gia với động cơ không chân chính, do
đó đã xảy ra trường hợp nhiều Tỳ kheo thiếu kỷ luật, sống buông lung vi phạm
tịnh hạnh… khiến cho Tăng chúng bị mang tiếng xấu lây và gây ra nhiều mâu thuẩn.
Để giải quyết những vấn đề rắc rối ấy, Thế Tôn đã chế ra Giới luật nhằm đối trị
lỗi lầm, ngăn chặn những hành vi bất thiện sắp vi phạm, đồng thời lấy lại uy tín
cho Tăng đoàn. Trong kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn, quyển hạ nói: “Tôn giả Văn Thù Sư
Lợi bạch Phật:Bạch đức Thế Tôn, người tà kiến đời sau sẽ phỉ báng rằng nếu đức
Như Lai là bậc Nhất thiết trí, tại sao phải chờ chúng sanh phạm tội rồi mới chế
giới?”.
- Phật dạy:
“Nếu ta chế giới trước khi có vi phạm, thì người đời sẽ phỉ báng ta”. Họ bảo
rằng: “Tôi không gây tội sao lại cưỡng ép ra giới luật?”.
Đó không
phải là Nhất thiết trí, như thế là Như Lai không có tâm từ bi, không lợi lạc,
không bảo bọc chúng sanh. Như người không có con lại nói rằng sẽ sinh con vào
ngày giờ ấy, chuyện ấy không thể tin vì không chân thật. Nếu thật sự thấy đứa
con người ta mới tin. Cũng thế, này Văn Thù Sư Lợi: “Tội chưa làm, trời chưa
thấy thì làm sao chế giới được? Cho nên cần phải thấy rõ tội phạm, rồi sau mới
chế giới. Này Văn Thù Sư Lợi, như y sĩ biết rõ nguyên nhân tật bệnh và biết có
thuốc để trị bệnh ấy”. [7, I, 118]
Lại nữa, có lần Tôn
giả Xá Lợi Phất thắc mắc về Phật pháp cửu trụ hay không vào thời chư Phật quá
khứ, Ngài được đức Thế Tôn đáp: “Vì không dùng giới luật để nhiếp hóa nên bị gió
thổi bay tứ hướng”. Ví như trên chiếc bàn trải nhiều loại hoa, đem đặt ở ngã tư
đường, gió từ bốn phương thổi đến hoa tùy theo gió mà bay tứ tán, tại vì không
có dây buộc nó lại. Nếu dùng giới pháp nhiếp hóa thì Phật pháp sẽ được cửu trụ,
như các đóa hoa rải trên mặt bàn dùng chỉ xâu lại, tuy bị gió thổi nhưng không
phân tán. Sau đó, tôn giả Xá Lợi Phất liền thỉnh đức Thế Tôn kiết giới, Phật nói
Phật tự biết thời, nếu Tỳ kheo vì lợi dưỡng, vì được danh xưng được nhiều người
biết, vì tài nghiệp v.v… lúc đó sanh ra pháp hữu lậu thì Phật sẽ chế giới để
đoạn trừ pháp hữu lậu ấy. Theo truyền thống chư Phật thiết lập Giới luật chỉ khi
nào cần thiết và hội đủ nhân duyên, cho nên khi có một hiện tượng vi phạm đời
sống thanh cao, gây nên những ảnh hưởng không tốt cho Tăng đoàn, lúc bấy giờ Thế
Tôn mới thiết lập giới luật. Như vậy, giới luật Thế Tôn chế ra chỉ là “Tùy phạm
tùy kiết”, nghĩa là nhân có người vi phạm Phật mới chế và những người ấy có thể
thay đổi tùy theo thời gian và quốc độ khác nhau.
Trong luật tạng có
ghi: “Một lần các Phật tử và ngoại đạo chê trách các vị Tỳ kheo đứng mà tiểu
tiện, cho rằng cung cách đó là thô tháo, thiếu lịch nhã ”. Khi sự việc được
trình lên đức Thế Tôn, Ngài dạy: “Vậy thì từ nay các Tỳ kheo ngồi mà tiểu tiện”.
Nhưng khi đến một quốc độ khác, khi thấy chư Tăng ngồi tiểu tiện, ngoại đạo lại
cho rằng: “Các đệ tử của Thế Tôn toàn là nữ giới” và sự việc này được bạch lên
Thế Tôn, Ngài lại dạy: “Nếu thế thì đứng mà tiểu vậy”. Đây là một trường hợp
điển hình nói lên tính linh động và cởi mở của Giới.
Giới luật được Thế
Tôn chế vào năm thứ 13 sau khi Ngài thành đạo và trải qua ba giai
đoạn:
* Giai đoạn
thứ nhất: Tôn giả Tu-đề-na, con trai của Thôn trưởng Ca-lan-đà, vị này nổi tiếng
là vị Tỳ kheo tinh cần chánh hạnh. Do yêu cầu của mẹ là phải để lại một đứa con
để nối dõi tông đường, nên Tôn giả đã hành dâm với vợ cũ. Sau việc ấy, Tôn giả
cảm thấy xấu hổ và bức bách trước những Tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận với chư
Tăng. Chư Tăng bạch Phật, Phật quở trách và chế định: “Tỳ kheo nào phạm bất tịnh
hạnh, hành pháp dâm dục,Tỳ kheo ấy là kẻ Ba-la-di không được sống
chung”.
* Giai đoạn
thứ hai: Một Tỳ kheo chán nản đời sống phạm hạnh, về nhà hành dâm với vợ cũ, vì
trong giới Phật chế không nói đến trường hợp chán nản đời sống phạm hạnh. Do đó,
đức Phật chế thêm: “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ
kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng không phát lộ, hành dâm dục – Tỳ kheo
ấy là kẻ Ba-la-di, không được sống chung”.
* Giai đoạn
thứ ba: Một Tỳ kheo sống trong rừng bị thiên ma nhiễu loạn, nên đã hành dâm với
con vượn cái, nghĩ rằng giới luật Thế Tôn chế không nói trường hợp cùng với súc
sanh. Thêm một lần nữa Thế Tôn lại chế: “ Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp
nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng không phát lồ mà
hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy là kẻ Ba-la-di
không được sống chung”. [13, II, 84-85]
Sau đó, Thế Tôn
nói rõ 10 lý do để giới được thiết lập :
1. Để Tăng chúng
được cực thịnh.
2. Để Tăng chúng
được an ổn.
3. Để kiềm chế các
Tỳ kheo khó kiềm chế.
4. Để các Tỳ kheo
sống được an ổn.
5. Để chế ngự các
lậu hoặc ngay trong hiện tại.
6. Để chặn đứng các
lậu hoặc ngay trong hiện tại.
7. Để đem lại tịnh
tín cho những người không tin.
8. Để làm tịnh tín
tăng trưởng cho những người có lòng tin.
9. Để chánh pháp
được tồn tại.
10. Để giới luật
được chấp nhận nhằm hướng đến giải thoát.
Khi đức
Thế Tôn mới nhập diệt, những vị thánh Tăng do thấu triệt chân lý nên bình tĩnh
đón nhận những lời dạy trên, còn những vị khác thì khóc lóc, vật vã kêu la…
Nhưng cũng có những Tỳ kheo do không hảo tâm xuất gia như Bạt-nan-đà thì cảm
thấy rất sung sướng và nói rằng: “Chúng ta đã giải thoát hoàn toàn vị Đại sa môn
ấy, chúng ta đã bị phiền nhiễu, quấy rầy với những lời làm như thế này không hợp
với các người, nay những gì chúng ta muốn thì chúng ta làm”. [1, I, 677]
Lời này
truyền đến tai tôn giả Ca-Diếp, Ngài cảm thương lo nghĩ: “Nếu quả thật như vậy,
tinh thần và công đức cứu thế của Phật giáo nhân vì đức Thế Tôn nhập diệt mà
cũng theo đó kết thúc sao?”. Nên sau khi làm lễ trà tỳ đức Thế Tôn xong, Trưởng
lão Ca-Diếp liền triệu tập 500 vị A-la-hán tại hang Thất diệp để kiết tập kinh
luật. Trong hội nghị ấy, Ngài Ca-Diếp làm chủ tọa, Tôn giả A-Nan trùng tuyên
kinh tạng, Ngài Ưu-ba-ly tuyên đọc Luật tạng trải qua 80 lần, nên gọi là Bát
thập tụng luật.
Rồi 100 năm sau, khi
trưởng lão Da Xá đến Phệ-xá-ly thấy nhóm Bạt-kỳ chủ xướng mười điều phi pháp, lo
sợ Phật pháp sẽ bị suy tàn, trưởng lão hội họp các vị tôn túc để chấn chỉnh lại
giới luật. Đây là lần thứ hai kiết tập Luật tạng.
Qua những việc trên,
ta thấy rằng đức Thế Tôn ra đời vì mục đích giải thoát chúng sanh ra khỏi sanh
tử trầm luân, nên giới luật của Ngài không có tính cưỡng chế mà hoàn toàn vì lợi
ích an lạc của chúng đệ tử. Chính nhờ những giới pháp đó nên Thế Tôn đã tu hành
đạt thành Thánh quả và đem truyền dạy cho chúng sanh để xem như đó chính là giới
thân huệ mạng của tự thân. Bởi vậy, trước khi nhập Niết bàn, Ngài đã ân cần di
giáo: “Sau khi ta diệt độ, các ngươi phải tôn trọng trân quý Ba-la-đề-mộc-xoa,
như người đi trong đêm tối gặp ánh sáng, như người nghèo được của báu. Phải biết
pháp này là Thầy của các ngươi, dù ta có trụ ở đời cũng không có gì khác”. [10,
328]Con đường mà đức Phật chỉ dạy là tất cả, lời dạy dỗ khuyên răn được xâu kết
lại qua kinh luật. Toàn bộ giáo lý ấy dùng làm duyên để đưa đến sự giải thoát
Niết bàn. Do vậy là người tu hành, trước hết phải giữ giới để thân tâm thanh
tịnh, không bị mọi vọng nhiễu khuấy động, do công phu đó mà trí tuệ phát sinh,
thấu suốt được chân lý của thế gian, diệt trừ được mọi nghiệp khổ. Như trong
kinh Pháp cú, câu 275 có dạy:
"Nếu ai theo đường
này
Đau khổ được đoạn
tận
Ta chỉ dạy con
đường
Với chí gai chướng
diệt
Hãy tự nhiệt tâm
làm
Như Lai chỉ thuyết
dạy
Tự hành trì thiền
định
Thoát trói buộc ác
ma”.
2. Định nghĩa giới
luật :
Sở dĩ đức Phật chế
giới nhiều là vì chúng sanh quá nhiều nghiệp, mỗi giới ứng hợp mỗi nghiệp. Để
hiểu và thực hành đúng giới luật trước hết phải hiểu rõ nghĩa của danh từ Giới
luật.
Chữ Luật thường ghép
cùng với chữ Giới nên gọi là Giới Luật, Giới là một trong ba pháp học Giới –
Định – Tuệ, còn gọi là Tam vô lậu học nghĩa là nương vào trong ba pháp học này
mà hoá giải được phiền não, siêu phàm nhập Thánh, an lạc giải thoát. Thực hành
ba pháp học này không còn bị rơi rớt vào trong ba cõi sáu đường. Quả vị Vô
thượng chánh đẳng chánh giác của đức Phật cũng y vào nơi huệ mạng mà thành, nên
có thể nói trí tuệ phát sanh ra từ nơi thiền định, thiền định có được là do nơi
giữ giới. Người học Phật chân chánh cần phải tu pháp tam vô lậu học đó là then
chốt duy nhất của người thật tu, thật học, muốn được giải thoát, cũng như cái
đỉnh có ba chân, thiếu một không thể đứng vững được. Nhưng trong đó, giới học là
điều căn bản “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”. Vậy Giới là răn cấm,
ngăn ngừa các điều quấy, dứt trừ các điều ác (phòng phi chỉ ác) và làm điều
thiện.
Luật: Dịch từ ngữ
Vinaya, nghĩa là các nguyên tắc, các quy luật.
Có thể nói, Giới là
Luật, nên gọi là Giới Luật, gồm những danh từ khác nhau nhưng đồng thể. Tiếng
Phạn gọi là Tỳ-ni hay Tỳ-nại-da (Vinaya), Trung Hoa dịch là Diệt, vì có ba
nghĩa:
1. Dứt nghiệp quấy
của thân, khẩu ý.
2. Dứt phiền não
tham, sân, si, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng huệ.
3. Được quả tịch
diệt Niết bàn.
Lại cũng dịch là điều
phục, vì điều luyện ba nghiệp thân, khẩu, ý để chế phục các ác hạnh, cũng dịch
là Thiện trị, vì khéo tự trị các ác hạnh của chính mình và điều phục hết thảy
các điều ác cho chúng sanh.
Giới:
Tiếng Phạn là Sìla – Sìla theo nguyên nghĩa của nó là tự nhiên, là thói quen.
Vậy Giới vốn là thực tại với quy luật vận hành, nếu hành động trái với quy luật
tự nhiên thì gặp trở ngại. Qua đó, ta hiểu rằng, Giới là chuẩn mực để đánh giá
hành động đúng hay sai, điều gì nên làm và điều gì không nên làm, để thoát khỏi
mọi trói buộc của khổ đau.
Trung Hoa dịch là
thanh lương, nghĩa là mát mẽ, vì giới có công năng dứt ba nghiệp quấy ác thiêu
đốt. Lại còn nghĩa là “Phòng phi chỉ ác”.
Lại cũng gọi là “Bảo
giải thoát”, tức bảo đảm người xuất gia tu hành giữ gìn giới luật thanh tịnh
quyết sẽ được giải thoát. Tên gọi tuy có khác nhưng cũng cùng một công năng, một
ý nghĩa cao cả rực sáng là “Tự tịnh kỳ ý”, thanh lọc mọi mống khởi, u mê của
vọng thức đảo điên. Vì hạt nhân tối ưu của giới là thanh tịnh, là phạm hạnh toàn
vẹn.
Nói cách khác, giáo
nghĩa của giới luật Phật tuy nhiều và rộng, nhưng không ngoài hai môn: “Chỉ trì”
và “ Tác trì”, ngăn quấy dứt ác như các giới điều trong giới bổn gọi là “Chỉ trì
tác phạm”, như không sát sanh là “trì”, sát sanh là “phạm”. Thực hành các thiện
hạnh phát sanh công đức hoặc để hỗ trợ phương thức chỉ trì được viên mãn gọi là
“Tác trì chỉ phạm”, như tác pháp Yết-ma là “Trì”, không tác pháp Yết-ma là
“Phạm”.
Giới cũng phân ra có
tánh giới và giá giới.
- Tánh giới: Như giới
sát sanh, giới trộm cắp, giới dâm dục, giới nói dối – Vì bốn giới này thuộc về
thể tự tánh phát sanh, không đợi Phật chế, nếu ai giữ gìn tức được lợi ích, nếu
không giữ gìn thì chuốt lấy khổ đau.
- Giá giới: Từ giới
uống rượu sắp lên, các giới điều khác là từ nguyên nhân này mà gây ra phạm giới
nên đức Phật đã ngăn cấm.
Qua những ý nghĩa nêu
trên, Giới luật được xem là phương tiện để ngăn chặn những điều ác phát khởi qua
thân, khẩu. Đồng thời đoạn trừ những phiền não phát khởi trong tâm. Như vậy,
đứng về phương diện tiêu cực thì giới luật chỉ làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh,
nhưng về phương diện tích cực thì giới luật là sự nỗ lực tất cả điều thiện làm
lợi ích cho chúng sanh và ý nghĩa này được tóm tắt qua bài kệ căn bản:
“Không làm các điều ácThực hành các việc lànhGiữ tâm ý trong sạchĐó là lời Phật dạy”.(Pháp cú 183).
Những ác
pháp đã sanh làm cho tiêu diệt, những ác pháp chưa sanh khiến cho không sanh, đó
là ý nghĩa trong câu “Chư ác mạc tác”, những điều thiện đã sanh khiến cho tăng
trưởng, những điều thiện chưa sanh khiến cho sanh khởi. Đây là ý
nghĩa của câu “Chúng thiện phụng hành”, tất cả hành vi ấy đều được quy tụ vào
việc giữ gìn tâm ý cho trong sạch.
Ta thấy
Giới luật của Phật giáo không phải là cứu cánh mà được cùng hành với pháp môn
khác nữa, như là bước đầu của con đường đạt tới giác ngộ. Đức Phật khuyên vì
hạnh phúc của riêng mình và cả người khác mà ta nên chỉ trì: “Nguyên tắc tu
tập”, được gọi là giới điều. Người trì giới phải hiểu rõ ý nghĩa giới pháp ngăn
được lỗi gì, dứt được nghiệp nào, sạch được chướng nào đạt được quả gì thì trì
giới mới lợi ích. Nếu không nhận rõ lòng từ bi của Phật, không khéo linh động
trì giới thì sẽ trở thành người ràng buộc, khắc khe thêm các phiền não. Nếu hiểu
được thâm ý qua các giới tướng thì ta có thể thấy được tâm ta có nhiễm ô hay
thanh tịnh. Càng có nhiều giới như nhiều tấm gương phản chiếu, ta càng thấy rõ
trong tâm ta mọi hành động để đo lường mức tiến bộ thánh thiện.
Điển hình Ngài Trí
Húc có nói: “Ngũ phần pháp thân khởi đầu là Giới, lấy Giới làm y chỉ, ba môn Vô
lậu học cũng lấy giới làm đầu, không một vị Phật nào không đầy đủ giới thể,
không một Bồ Tát nào không tu giới đức, không một kinh điển nào là không ngợi
khen giới pháp, không một thánh hiền nào không nghiêm trì giới luật”.[9,
17].Giới quan trọng dường ấy, nếu người xuất gia không khéo hành trì thì không
xứng đáng là trang Thích tử vậy. Như bài tựa giới kinh nói:
“Ví như người gãy
chân
Không thể bước đi
được
Phá giới cũng như
thế
Không được sanh trời
người,
Muốn được sanh lên
trời
Hoặc sanh trong loài
người
Thường phải giữ chơn
giới
Chớ có nên hủy
phạm”.
Sự phá
giới làm hại mình như dây Ma–la bao quanh cây Sa-la, làm cho cây này khô héo,
người phá giới chỉ là người làm điều mà kẻ thù muốn làm cho mình. Đối với người
xuất gia khi hóa giải nhiếp phục kẻ thù, ta không nên dùng thế lực hay uy quyền
mà phải lấy đức độ của chính mình. Các giới đức, giới hạnh tuy vô hình nhưng khi
thể hiện trên khuôn mặt vừa nghiêm nghị, vừa từ hòa.Với thân tướng trang nghiêm,
oai đức như vậy thì làm sao không nhiếp phục kẻ oán thù cho được.
Kinh Pháp cú nói:
“Mùi hương của các thứ hoa dù là hoa chiên-đàn hay hoa mạt-lỵ đều không thể bay
ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của người chân chánh, tuy ngược gió nhưng
bay khắp muôn phương.Hương chiên-đàn, hương thanh liên đều là những thứ hương vi
diệu, nhưng không sánh bằng hương người đức hạnh xông ngát tận chư thiên”. Như
thế, Giới luật Phật giáo không những là phương tiện để cá nhân tu tập đạt được
lợi ích an lạc, mà tác dụng của nó cũng vô cùng lớn lao đối với tha nhân, xã
hội. Ngoài ra, giới luật Phật giáo được xem như là cây thước để đo tiêu chuẩn về
mặt đức hạnh của con người, về sự tiến bộ tâm linh của hành giả tu tập giáo lý
giải thoát. Mọi lý luận đều không có giá trị đối với người phạm giới và mọi
thành quả tốt đẹp sẽ đến với những ai thanh tịnh được giới. Những giá trị cao
quý của người đức hạnh tỏa ngát hương thơm hơn bất cứ loại hoa nào:
“Hoa chiên-đàn, già-laHoa sen, hoa vũ qúyGiữa những hương hoa ấyGiới hương là vô thượng”.
3 . Phân loại các
giới :
Mục đích
của giới luật Phật là nhằm giúp cho hành giả tịnh hóa thân khẩu ý, đạt được một
cuộc sống cao thượng của thánh giả A-la-hán. Do vậy, việc tu trì giới luật là vô
cùng quan trọng, vì chúng ta hành trì giới nào thì được giải thoát giới đó, tự
thân được hạnh phúc chân chính và bước vào cảnh giới chân tâm thường trú. Giới
có công năng vi diệu như vậy, nên có nhiều hình thức phân loại khác nhau. Theo
các nhà Phật học Bắc truyền, Giới được phân loại như sau:
1 . Nhiếp luật nghi
giới: Hay còn gọi là Biệt giải thoát luật nghi. Nó gồm các giới tại gia, xuất
gia như ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới và cụ túc giới.
2 . Nhiếp thiện pháp
giới: Nghĩa là lấy việc thực hành tất cả những điều thiện làm giới.
3 . Nhiêu ích hữu
tình giới: Nghĩa là lấy việc làm lợi ích cho chúng sanh làm giới.
Về sau, các nhà luận
sư cho thấy mối quan hệ hữu cơ và biện chứng của ba pháp Giới–Định–Tuệ nên đã
phân chia khác:
a) Biệt giải thoát:
Bao gồm ý nghĩa của Nhiếp luật nghi giới.
b) Định cộng giới:
Lấy Định làm giới, nghĩa là do tu tập thiền định mà thân tâm được thanh tịnh,
đoạn trừ các lậu hoặc, giới thể được cụ túc và giải thoát được là do
Định.
c) Đạo cộng giới: Lấy
trí tuệ làm giới, do tu tập vô lậu nghiệp mà được trí tuệ vô lậu, Giới thể được
viên mãn, cụ thể giải thoát có được là do tuệ sanh.
Qua các
phân loại trên, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới thuộc về giới
đại thừa. Biệt giải thoát giới và định cộng giới được gọi là hữu lậu giới, Đạo
cộng giới được gọi là vô lậu giới.
Với những ý nghĩa
trên cho chúng ta một nhận định rằng, ba pháp Giới – Định – Tuệ này đều được đan
lồng vào nhau, mỗi khi một pháp được ứng dụng tu tập thì hai pháp kia cũng được
hưng khởi. Ba pháp này là cốt tủy của con đường giải thoát mà đức Phật đã khám
phá ra. Như thế bất cứ ai muốn đoạn tận khổ đau, chấm dứt sanh tử thì việc hành
trì một cách chân chánh là cửa ngõ đưa đến hạnh phúc, an lạc và giải thoát
vậy.
CHƯƠNG
3:
1. Giới luật là nền
tảng của sự giác ngộ giải thoát:
Giác ngộ và giải
thoát là sự thông suốt hai mặt sự và lý của các pháp. Nhờ tâm trí sáng suốt mà
cởi bỏ được sự trói buộc của hoặc nghiệp, thoát ra khỏi tam giới và chứng đắc
Niết bàn. Điển hình trong bài kinh đầu tiên, đức Phật thuyết minh bốn sự thật
(Tứ đế). Trong đó, Đạo đế là phần thực hiện cụ thể cho ai nấy đều thể nghiệm
được sự an lạc và giải thoát nơi tâm. Thông thường, khi làm một việc gì trước
hết phải hiểu biết toàn bộ sự việc, kế đó là quá trình diễn tiến xảy ra như thế
nào, và cuối cùng thì mới bắt tay vào làm việc. Pháp Tứ đế cũng được thiết lập
theo trật tự đó. Điều đầu tiên là chúng ta nhận thức được cuộc sống khổ não của
nhân sinh, kế đến là truy tìm nguyên nhân chính yếu của sự khổ và cảnh an lạc
giải thoát sau khi hết khổ. Cuối cùng là biện pháp, hành động cụ thể sáng tỏ để
tu tập, nhằm đạt được giác ngộ. Con đường tu tập này chính là Bát chánh đạo, nó
là pháp tu căn bản cho những ai muốn thoát khỏi u tối, luân hồi khổ lụy. Đồng
thời cũng chính là giáo lý mở rộng của ba pháp tu hết sức căn bản là Giới – Định
– Tuệ, cho dù hành giả tu theo tông phái nào đi nữa, thì vẫn không ngoài pháp
môn Tam vô lậu học này.
Giới hay giới luật
được xây dựng trên quan niệm của một tình thương rộng rãi trong cuộc sống, một
tình thương có trí tuệ phân biệt chánh tà. Chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng
là ba năng lực tinh thần giúp con người có đạo hạnh thanh cao và trí tuệ sáng
suốt, hầu xây dựng một cuộc sống an lạc và thanh tịnh, hài hòa trong mối quan hệ
giữa quyền lợi cá nhân và cộng đồng tập thể.
Định là quá trình
thanh tịnh hoá tâm, tìm ra lý Nhân quả, xác quyết loại trừ và nhổ tận gốc những
phiền não, lậu hoặc (Chánh tinh tấn), ngăn chặn những điều xấu ác và phát triển
điều thiện (Chánh niệm). Cột chặt những vọng tưởng tâm lý, đưa quá trình quan
sát từ tri giác đến thể nhập, hiểu biết được thực tướng của sự vật (Chánh định).
Ở đây có điểm đặc biệt đáng lưu ý là thiền định hay thiền quán không nhắm vào
những điều hư vô, huyền ảo, trái lại đối tượng của thiền là những hiện thực như
vật lý, sinh lý, tâm lý, ý niệm…tồn tại một cách khách quan trong cuộc sống hiện
tại.
Tuệ là tri kiến cao
minh, nó tổng hợp sự hiểu biết về các mặt quy luật tồn tại biến đổi của mọi sự
vật và hiện tượng theo quy luật nhân quả hoặc theo lý duyên sinh. Đặc điểm của
tuệ giác bao gồm nội dung của những tri kiến trừu tượng “thấu triệt bằng nhãn
quan tinh thần”, nó bao gồm cả hai nhánh chánh tư duy và chánh tri kiến. Ta phải
có chánh tư duy để viễn ly các thứ chấp thủ như dục thủ, giới cấm thủ, kiến thủ,
ngã luận thủ để thanh tịnh hoá tâm lý và khai sáng trí tuệ. Đồng thời, trong
kinh Đại bát Niết bàn, đức Phật dạy: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa
đến quả vị lớn ,hạnh phúc lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn
toàn các món lậu hoặc tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”. [ 1, I, 555]
Như thế, Giới là gốc
để bước lên đường giải thoát mau chóng và đồng thời đưa ta tiến đến sự giác ngộ
của đạo Vô thượng bồ đề. Đứng ở phương diện tu tập mà nói, nếu xa lìa thiền định
và tuệ thì giới hạnh chỉ là hình thức, nhưng xét về mặt khác, nếu hành giả không
thực hành giới hạnh thì định và tuệ không thể nào hoàn thành được. Đồng thời nhờ
có thực hành Giới hạnh mà Định và Tuệ mới trở nên thuần chơn. Vì vậy, trước khi
nhập Niết bàn, đức Phật đã di huấn lại cho hàng đệ tử rằng: “Này các Tỳ kheo,
sau khi ta diệt độ, các Thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới. Như người mù
được mắt sáng, nghèo nàn được của báu, phải biết tịnh giới này là đức thầy cao
cả của các ông. Nếu ta còn ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy. Thế nên,
các Tỳ kheo ai giữ gìn tịnh giới thì người đó có thiện pháp, không có tịnh giới
thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó, mà biết tịnh giới là an ổn, là
nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức”. [10, 328]
Vậy, qua những điều
vừa nêu trên, ta thấy rằng việc tu trì giới luật là vô cùng quan trọng, vì ai tu
tập giới luật trọn vẹn thì sẽ đạt kết quả tốt. Bởi lẽ, hầu hết các giới đều khởi
đầu bằng định từ “không” đối với phạm trù của ác, nhằm thánh thiện hóa con người
thẳng đến mục đích giải thoát tâm linh: “Rằng xa thật xa là khoảng cách giữa chỗ
mặt trời mọc và mặt trời lặn, nhưng thật sự còn xa hơn là sự sai khác giữa một
người làm điều lành và một người làm điều ác”.
2. Ứng dụng giới luật
thiết thực có lợi ích trong đời sống người xuất gia:
Trước hết, Giới luật
được xem như là nơi quy thú tất cả thiện pháp, là phương tiện để ngăn chặn và
đoạn trừ các điều ác bộc phát qua thân, khẩu, ý. Điển hình như kinh Hoa Nghiêm
nói: “Giới là mẹ sinh ra các công đức”. Thật vậy, Giới luật chính là sinh mạng,
là sự sống còn của những người con dòng họ Thích – những hành giả thừa Như Lai
xứ, hành Như Lai sự.
Hơn nữa, nếu hành giả
biết ứng dụng Giới luật, y chỉ vào Giới luật và sống đúng với nó, có nghĩa là tự
mình tìm được cuộc sống thanh tịnh giải thoát. Song về phương diện tích cực thì
Giới luật có lợi ích không chỉ riêng cho cá nhân nào, mà nó còn tác động rộng
rãi đến cộng đồng xã hội.
1. Đơn cử như giới
bất sát: Vì thương yêu chúng sanh, không phân biệt loại nào, chúng sanh nào cũng
tham sống sợ chết, cũng cảm thấy đau khổ khi bị xâm phạm thân thể, cảm nhận đựơc
niềm đau của chúng sanh như nỗi đau của mình, vì thế mình giữ giới không giết
hại. Tâm cảm thông và thương yêu ấy đưa đến giữ giới một cách tự nhiên không
gượng ép.
2. Giới không trộm
cắp: Vì cảm thông được sự mất mác về tài sản đem đến đau đớn, tiếc nuối, than
khóc. Mình không muốn bị mất mác cho nên mình giữ giới không trộm cắp. Nói theo
cách của Khổng Tử: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”.
3. Giới không tà dâm:
Vì cảm thông nỗi đau đớn khổ sở của người bị phản bội, phụ tình, sự mất mác hạnh
phúc của kẻ khác. Do sự thương yêu và hiểu biết mà ta giữ giới không tà dâm,
đình chỉ được ước muốn bất thiện.
4. Giới không nói
dối: Vì cảm thông được tình cảnh của người bị dối gạt, bị trách mắng, bị hãm hại
và bị đau khổ do lời nói dối, lời nói bất thiện mà mình từ bỏ nói năng dối
trá.
5. Giới không uống
rượu: Vì cảm thông được nỗi đau khổ của thân thể mình và sự tàn phá, mê muội do
rượu đem đến, vì vậy ta nguyện từ bỏ rượu chè say sưa, các chất gây
nghiện.
Mặt khác, đức Phật vì
không muốn mang tiếng đồn gần xa của người thế tục, sợ họ nhìn vào nếp sống
buông lung “tự tung tự tác” của Tăng đoàn mà mất đi chánh tín hoặc chê bai hiềm
tị. Cho nên sự có mặt của Giới luật là yếu tố cần thiết để thành tựu sự thanh
tịnh, đồng thời làm mô phạm cho người và giúp cho hành giả bước đi trên con
đường thoát ly sanh tử. Nên hiểu rằng Giới luật không phải là điều kiện gượng ép
hay bó buộc gì cả mà nó hoàn toàn mang tính tự giác, tự phát nguyện thọ trì, cho
nên bất kỳ vị Tỳ kheo nào giữ gìn tịnh giới đều thành tựu được mười điều như
sau:
1. Nhiếp thủ ư tăng:
Người xuất gia học đạo, khi đăng đàn thọ cụ túc giới sẽ được công nhận vào địa
vị chúng trung tôn, chính thức gia nhập Tăng đoàn trở thành một trong ba ngôi
báu (Tam bảo) sống thanh tịnh hòa hợp như nước hòa với sữa. Người thọ trì giới
pháp sẽ được sự bảo hộ chặt chẽ của Tăng thân. Như vậy giới pháp của Phật tạo
cho người xuất gia thọ giới được đứng trong môi trường an ổn. Một Tỳ kheo giữ
250 giới hoặc Tỳ kheo ni giữ 348 giới là để bảo trì sự tồn tại lớn mạnh của Tăng
đoàn, nên gọi là “Nhiếp thủ ư Tăng”.
2. Linh Tăng hoan hỷ:
Người giữ giới thanh tịnh thì hương giới thơm hẳn hơn các loài hoa bay ngược
chiều gió, và hương của người trì giới bay vào trong Tăng chúng làm ai cũng thấy
dễ chịu. Ngược lại, người hủy phạm Thánh giới, tuy chúng Tăng không khinh miệt
nhưng không thể làm cho Tăng đoàn hoan hỷ được. Hoan hỷ cho tinh thần giới luật
thanh tịnh là có sự tiến bộ trong vấn đề tu trì cho tự thân và cho thanh danh
ấy, chứ không phải là một sự hoan hỷ vì thấy nhau làm những điều sai trái. Bởi
thế, nên khi thọ giới, hàng tu sĩ chúng ta phải giữ gìn giới luật như người đi
trong đêm tối tha thiết cần đuốc, nếu ai giữ được chừng nào thì được công đức
lớn lao chừng ấy. Cho nên gọi “Linh Tăng hoan hỷ”.
3. Linh Tăng an lạc:
Người xuất gia học đạo cất bước đến chân trời cao rộng phải lìa xa thân thuộc họ
hàng, lấy trời mây sóng nước làm nhà, chọn người lý tưởng làm ruột thịt, hễ khi
thấy vị Tỳ kheo bị ba món độc hành hạ quấy nhiễu thì tăng thân cũng đau lòng.
Nếu vi phạm thì cũng như những người lính bị chặt đứt đầu, đoạn luôn cả tính
mạng (phạm Ba-la-di). Nên Tăng đoàn phải sống theo giới pháp thanh tịnh, lấy
Giới luật làm kỷ cương, thống nhiếp được an ổn. Vì vậy Thánh giới không những có
sự lợi ích làm cho Tăng an ổn lợi lạc, mà còn coi đó là “Linh Tăng an
lạc”.
4. Linh vị tín giả
tín: Một Tỳ kheo như pháp, sống đời sống phạm hạnh có tuệ giới như đức Phật là
hình ảnh đoan nghiêm chánh hạnh, có thể thay thế Ngài tuyên dương chánh pháp và
trở thành một hình tượng mẫu mực để cho những chúng sanh đang bị lạc lầm trong
đêm tối nương vào ngọn đuốc ấy để dẫn họ tới con đường sáng và trở về nhà. Vậy
con thuyền phải vững chắc, người lái thuyền phải khỏe mạnh và rõ đường đi mới
trở về bến giác được, như thế gọi là “Linh vị tín giả tín”.
5. Dĩ tín giả linh
tăng trưởng: Giới luật là hàng rào ngăn chặn những phiền não như thân,khẩu, ý
nếu ba nghiệp này thanh tịnh thì sẽ sống với trạng thái định, có thể nói định là
hình thức nước trong, vì các thứ bụi phiền não được lắng xuống, nếu nước đã
trong thì ánh sáng hiện ra rõ nét. Nhờ vậy mới phát tuệ, nhờ giới mà có định,
nhờ định mà có tuệ. Chính vì thế những người đã gieo hạt giống chánh tín vào
ruộng phước chúng tăng, thì càng tin rằng sẽ có đầy đủ chất màu mỡ để hạt giống
nẩy mầm phát triển và tin rằng hàng Tăng bảo là hình ảnh sống động, có thể thay
thế đức Phật lèo lái con thuyền trí tuệ thoát khỏi dòng sanh tử về bến giác an
vui. Vì vậy chúng Tăng nghiêm trì giới luật đạt đến giải thoát chừng nào, thì
người học hạnh xuất gia càng tin tưởng phấn đấu viễn ly dục lạc chừng ấy, cho
nên gọi là “Dĩ tín giả linh tăng trưởng”.
6. Nan điều phục giả
linh điều phục: Dưới sự kềm thúc của giới luật thì một người dù phạm tội tới
đâu, cố tình che dấu không chịu nhận sự sám hối thì cũng có thể điều phục, xử
trị xác thực rõ ràng đến đó. Nếu không điều phục được, Tăng sẽ “Yết-ma” đuổi đi,
song tinh thần căn bản ở Tăng đoàn, sự quyết nghị của Tăng đoàn là đại diện cho
mười phương Tăng, nên không có vị nào dám dung thân. Vì thế Tăng đoàn chỉ chấp
nhận những người sống đúng giới luật, tuyệt đối không chấp nhận người ngoan cố,
nên gọi là “Nan điều phục giả linh điều phục”.
7. Linh tàm quý giả
đắc an lạc: Người giữ giới luật nghiêm ngặt thì khi họ lỡ phạm vào một điều nhỏ
nhặt, họ cũng rất lo sợ. Ví như một người ôm phao qua sông sâu chợt có người đến
xin phao, trong một phút vội vàng họ đã cho người kia và sau đó suy nghĩ lại
thì thấy hối tiếc vô cùng, vì sợ rằng không có phao thì khó hy vọng qua được bờ
bên kia. Đây cũng là tinh thần những người biết tàm quý nếu lỡ để ba nghiệp manh
nha khuấy động, và họ kịp thời ra sức dùng Giới luật câu thúc lại do đó không
còn sợ hãi, dứt hết phiền não, phấn chấn tinh thần và năng lực tịnh giới đã an
tâm cho họ. Do đó, Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp, nên gọi là “Linh tàm quý giả
đắc an lạc”.
8. Đoạn lậu hoặc hiện
tại: Sở dĩ chúng ta còn dày đặc phiền não là bởi do sáu căn gặp phải sáu trần
làm cho phiền não nhiễm ô như thế gọi là lậu hoặc, những thứ ấy khiến cho chúng
sanh bị mê mờ mãi trong tam giới không lối thoát ra được. Vì vậy, giới luật cảnh
báo rằng tính chất của cái đẹp ấy như hầm lửa dữ, cũng như cỏ khô cần phải tránh
xa lửa càng nhiều càng tốt. Do vậy, bản thân thanh tịnh được bảo tồn nghiêm
chánh và giới luật luôn luôn tích cực ngăn chặn không cho lậu hoặc bộc phát, để
rồi phải tạo thành nghiệp dữ nối dài thêm con đường sanh tử, nên gọi là “Đoạn
lậu hoặc hiện tại”.
9. Đoạn vị lai hữu
lậu: Nếu như hạt giống phiền não đã nẩy mầm trong tâm, năng lực giải thoát của
giới luật chỉ trong thời gian ngắn sẽ bị thứ cỏ dại khởi mọc lan tràn và người
làm vườn muốn cho cây thêm trái ngọt không bị cỏ dại lấn hại cạnh tranh thì cần
phải đào xới gốc rễ của nó trong mảnh đất tâm không, không còn dấu tích cỏ dại
phiền não. Từ nhận thức ấy, hành giả đã đoạn trừ được lậu hoặc bằng năng lực của
tịnh giới, nghiệp cũ dứt đi, nghiệp mới không tạo nữa, đó gọi là “Đoạn vị lai
hữu lậu”.
10. Linh chánh pháp
cửu trụ: Đức Phật đã trao lại vận mệnh Phật pháp cho hàng Tăng bảo và kèm theo
lời di chúc: Phải tôn trọng và giữ gìn giới luật, vì chỉ có giới luật mới có đủ
năng lực bảo trì giáo hội Tăng đoàn trong cả ba cõi, lúc đó Phật giáo không còn
sợ quân ma đánh cướp. Vì thế, lợi ích của việc giữ tịnh giới là tối quan trọng
thiết thực cho hành giả nhằm đền trả bốn ân, cứu giúp ba cõi. Thế nên gọi là
“Linh chánh pháp cửu trụ”.
Từ những
nhận thức trên ta thấy rằng Giới luật có công năng tu chỉnh đưa chúng ta đến
chánh tri kiến Phật. Và mười điều thiết yếu trên người hảo tâm xuất gia phải
luôn tôn trọng ghi nhớ thực hành, ngõ hầu muôn công đức lành đều từ đó mà được
phát sinh ra. Hơn nữa, kết quả của việc giữ giới trước nhất là đem lại lợi ích
cho mình và cho người, điều hòa được sinh hoạt tập thể, tạo niềm tin trong lòng
mọi người. Dĩ nhiên khi hành giả đem lại lợi ích an lạc cho tự thân người giữ
giới đó là trí tuệ, đem lại lợi ích an lạc cho tha nhân đó gọi là từ bi. Từ bi
và trí tuệ là yếu tố cốt tủy của đạo Phật, yếu tố này thể hiện tinh thần “Tỳ ni
tạng trụ, Phật pháp cửu trụ, tỳ ni tạng diệt, Phật pháp diệc diệt” chứa đựng đầy
đủ ý nghĩa “Giới luật là thọ mạng của tăng già, là mạng mạch của Phật
pháp”.
Đồng thời
ta lại thấy rõ rằng duy chỉ có giới luật mới là chiếc cầu quý báu bền vững giúp
cho chúng sanh nương theo đó mà vượt từ bờ mê sang bến giác, các loại đèn thế
gian chỉ sáng tỏ một khoảng không gian hạn lượng, còn đèn giới luật mới chính là
ánh quang minh vô lậu, có khả năng soi sáng các tâm não loạn của chúng sanh làm
cho được định tĩnh và xóa tan đêm tối si mê. Vì vậy, việc nghiêm trì giới luật
là để đạt đến chơn hạnh phúc hoàn toàn của nhân sinh, tức là cảnh giới của Phật
đà. Và một điều cuối cùng dành cho những ai ứng dụng giới luật trong đời sống
người xuất gia một cách thiết thực thì sẽ đạt được năm điều lợi ích
sau:
1. Người có
giới đức được thừa hưởng gia tài lớn nhờ tinh thần sống không phóng
dật.
2. Tiếng tốt
đồn xa.
3. Không sợ
hãi, rụt rè khi đến giữa hội chúng.
4. Khi chết
tâm không bị tán loạn.
5. Mạng chung
được sanh vào thiện thú thiên giới.
3. Giới luật có sự
liên quan đến vấn đề thịnh suy của phật pháp:
Trong bài tựa Nghi
thức tụng Tỳ kheo ni giới bổn có ghi rằng:
“Thế gian, vua lớn
nhất
Các dòng, bể là
to
Các sao, trăng là
sáng
Các Thánh, Phật là
tột
Trong tất cả các
Luật
Giới kinh là chơn
hết” [2, 12-13].
Chính vì
Ba-la-đề-mộc- xoa quan trọng và thù thắng như vậy nên đạo Phật hưng thịnh hay
suy vi đều không ngoài phạm vi của giới luật. Ngày nay, trên bước đường hành
đạo, người tu hành gặp những khó khăn hay những điều bất như ý thường hay thở
than “đời mạt pháp mà!”. Với một thái độ hết sức tiêu cực, đôi khi chán nản nữa.
Mạt pháp có nghĩa là chánh pháp đã bị suy vong, suy vong từ hình thức đến nội
dung, từ nhận thức đến hành vi. Ý thức tới chánh pháp đã đến thời cùng mạt, ai
mà chẳng buồn nản. Thế nhưng, mạt pháp từ đâu mà đến? Từ xã hội bên ngoài hay từ
sự phát triển của văn minh nhân loại? Quá khứ trên 2500 năm của Phật giáo ở các
nơi đã chứng tỏ Phật giáo có một mạng sống miên viễn. Động lực chính yếu để Phật
giáo hiện hữu là do nhu cầu sống của con người. Vì thế, dù xã hội có thay đổi
thế nào đi chăng nữa thì Phật Pháp vẫn có mặt bởi vì con người vẫn còn nhu cầu
được sống. Như thế, xã hội và văn minh của nhân loại không thể làm cho chánh
pháp đi vào thời cùng mạt được.
Mạt pháp - can đảm mà
nói do nó đi từ bên trong, cụ thể là từ hành động, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ của
người tu hành. Ngược lại chánh pháp cũng thế, giáo pháp siêu việt và thực tiễn
của đức Phật được sáng tỏ, có giá trị thiết thực trong cuộc sống hiện tại, được
phổ cập rộng rãi trong xã hội loài người, tất cả đều tùy thuộc vào tư cách, nói
chung từ hình thức đến tâm linh của người tu hành cả. Tư cách ấy được biểu hiện
bằng sự nghiêm trì giới luật, đó là vấn đề trọng yếu quyết định vận mệnh của
Phật pháp trong mọi thời đại và mọi nơi chốn. Giới hạnh của người tu liên quan
đến sự thịnh suy của Phật pháp một cách mật thiết. Chính vì thế nên khi đức Phật
sắp vào Niết bàn, Ngài vẫn còn ân cần tha thiết nhắc nhở các đệ tử trong kinh
Di giáo, rằng: “Này các Tỳ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn
kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải
biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì cũng không khác
gì tịnh giới ấy”.[10,328] Âm hưởng của lời dạy ấy đã vượt không gian và thời
gian, tồn tại đến ngày nay và trong chúng ta, không ai không biết đến
câu:
Tỳ ni tạng trụ, Phật
pháp cửu trụ
Tỳ ni tạng diệt, Phật
pháp diệc diệt.
Nghĩa là:
“Giới luật còn hành,
Phật pháp cũng còn
Giới luật không còn
hành, Phật pháp cũng mất”
Bởi thế, đức Thế Tôn
chế ra các giới luật. Nó không phải bắt buộc các đệ tử phục tùng mệnh lệnh của
Ngài, mà để ngăn ngừa các nghiệp từ ý nghĩ đến hành động, hầu thánh hóa đời sống
chúng đệ tử. Cho nên, một thầy Tỳ kheo giới hạnh thanh tịnh là bản sao chụp lại
của đời sống thánh giả A-la-hán một cách rõ ràng và hiện thực. Đó là mảnh đất
tốt để tăng trưởng thiện pháp, là nền tảng để tiến bộ tâm linh, để phát triển
những nhận thức chân chánh, thấy được lẽ thật của cuộc đời. Một khi hành giả có
giới luật trang nghiêm tức đã làm một nơi an ổn cho thế gian nương nhờ, và cũng
là một thành viên tích cực khiến cho Phật pháp hưng thịnh. Tuy nhiên, nếu giới
luật không được nghiêm trì thì chúng đệ tử của Phật sẽ là một cộng đồng ô hợp,
có khi còn tai hại cho xã hội nữa. Nếu người xuất gia mà không giữ gìn giới luật
thì không thể nào phân biệt được đâu là người xuất gia, đâu là kẻ thế tục. Như
vậy, chỉ có giới luật mới tạo nên đức hạnh của người tu, đồng thời cũng góp phần
xây dựng cho chúng ta thành những chiến sĩ trên mặt trận đạo đức, tạo nền tảng
cho Phật pháp hưng thịnh.
Lại nữa, vấn đề tiếp
dẫn hậu lai, báo Phật ân đức cũng liên quan đến sự hưng thịnh của Phật pháp.Khi
đã chấp nhận một người xuất gia là chấp nhận thêm một thành viên gia nhập vào
cộng đồng đệ tử đức Phật, đồng thời cũng là chấp nhận một viên gạch đã góp phần
xây dựng nên ngôi nhà Phật pháp. Vì thế, việc xuất gia của một người không chỉ
là vấn đề cá nhân mà là vấn đề liên đới cần phải đặc biệt chú trọng, bởi sự tiến
bộ hay sa đoạ của họ đều ảnh hưởng đến sự thịnh suy của Phật giáo. Việc chấp
nhận một người xuất gia phải được đặt hoàn toàn trên nền tảng giới luật và mục
đích chung của Phật giáo nhằm đảm bảo uy tín và sự thanh tịnh của Tăng đoàn.
Người xuất gia phải là một người có tín tâm, xuất gia vì một mục đích cao cả là
hướng đến giác ngộ, giải thoát. Đồng thời, trước khi gia nhập chính thức vào
Tăng đoàn, người ấy phải được xét duyệt qua mười ba giá nạn và mười lăm khinh
mạn mà giới luật đã qui định.
Một người xuất gia
cống hiến trọn đời mình cho lý tưởng, gởi trọn đời mình cho vị thầy. Nếu thầy
không đủ đức độ để hướng dẫn mà thâu nhận đệ tử thì trái với giới luật, sẽ dẫn
đến sự suy đồi của Phật pháp, tội ấy còn nặng hơn tên đồ tể vì họ đã nhận chìm
người đệ tử vào trong ác đạo. Như thế muốn độ người xuất gia, vị thầy phải hội
đủ hai yếu tố vật chất và tinh thần. Đó là cung cấp cho đệ tử một đời sống vật
chất theo chế độ “tam thường bất túc” (tức ba nhu cầu hằng ngày như ăn, mặc, ngủ
không được quá sung túc) và hướng dẫn đệ tử giữ gìn giới luật, học tập kinh
điển, tu tập thiền định. Trong Luật dạy rõ, một Tỳ kheo muốn thâu nhận một đệ tử
xứng đáng là một thành viên của Tăng đoàn nhằm tạo nên sự hưng thịnh của đạo
pháp, thì phải hội đủ các tiêu chuẩn sau:
1. Tuổi đạo phải đủ
mười hạ.
2. Phải biết rõ ràng
các trường hợp trì và phạm, khinh và trọng về giới luật.
3. Kiến thức phải
rộng rãi.
4. Có khả năng giải
quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử.
5. Có khả năng đoạn
trừ tà kiến cho đệ tử.
6. Được Tăng chấp
nhận và tác pháp yết-ma súc chúng. [13, II, 89]
Tóm lại, Giới luật là
mạng sống của thân cây Phật pháp, là sinh mạng của người xuất gia, nếu thiếu nó
thì Phật pháp sẽ tàn lụi, kế đó là người xuất gia không thành người tu giải
thoát, nên trong Luật thiện kiến có ghi lại lời Phật bảo Tôn giả A-Nan: “Sau khi
ta diệt độ, có 5 yếu tố khiến cho chánh pháp được cửu trụ là:
1) Giới luật
còn ở đời thì Phật pháp cửu trụ, vì giới luật là bậc thầy cao cả của đại
chúng.
2) Còn có
luật sư ở đời thì Phật pháp cửu trụ, vì có người thông đạt hai bộ luật và chủ
trì được tạng luật.
3) Ở đời có
ít nhất năm vị trì luật thì mới có thể khiến cho Phật pháp cửu trụ. Vì tăng bảo
còn thì Tam bảo không dứt mất, hễ có năm vị trì luật ở xứ sở nào thì xứ sở đó
hưng thịnh 500 năm.
4) Nếu ở đô
thị có được mười vị Tỳ kheo trì luật, ở biên địa có năm vị Tỳ kheo thanh tịnh
thì có thể làm cho Phật pháp cửu trụ, vì làm được việc giải tội đúng pháp cho
những vị phạm giới”.
Tuy giới luật chỉ là
hình thức, nhưng nếu thiếu giới luật thì không thể tiếp nối được Tăng bảo. Do
đó, ở biên địa dù chỉ có năm vị trì luật, ở trung ương chỉ có mười vị trì luật
cũng có thể làm cho chánh pháp cửu trụ. Như thế nếu thượng tòa là bậc thù thắng,
được cả nước tôn sùng mà không trì giới, không am hiểu luật nghi để khuyên nhắc
và làm mô phạm cho đại chúng, tất nhiên chánh pháp sẽ bị hoại diệt.
Qua những phần trình
bày trên, ta thấy rõ một điều rằng giới luật chính là nền tảng cho sự hưng thịnh
của Phật pháp nó góp phần đem lại hạnh phúc lâu dài cho mình trong hiện tại và
tương lai, không những thế nó còn giữ vai trò quan trọng trong việc làm, trong
cái nhìn khách quan thuộc về thế tục. Nó thuộc về tư thái oai nghi tác phong của
người tu sĩ Phật giáo, điển hình rõ nét nhất là đại vương Pasenadi đã nhiều lần
phải thốt lên lời thán phục: “…Bạch đức Thế Tôn, vua chúa thường tranh chấp với
vua chúa, Sát-đế-lợi thường cãi vã với Sát-đế-lợi, bạn bè thường hơn thua với
bạn bè… Còn ở đây con thấy các vị Tỳ kheo sống rất hòa thuận, thân hữu không cãi
vã nhau, hòa hợp như nước với sữa, nhìn nhau bằng cặp mắt ái kính. Bạch đức Thế
Tôn ! Ngoài ra con không thấy một phạm hạnh nào khác viên mãn, hòa hợp như thế”.
( Trung Bộ kinh II)
Con đường giải thoát
duy nhất của người xuất gia không gì khác hơn là Giới-Định-Tuệ. Trong đó Giới
luật là bước đi đầu tiên căn bản, là thềm thang hướng đến Niết bàn an lạc, là
kim chỉ nam trong đời sống của người xuất gia. Chính vì thế mà Giới luật được
xem là nơi nương tựa an ổn nhất cho người xuất gia. Giới luật chính là vị đạo sư
cao cả của chúng ta. Điều này đã được đức Phật dạy trong kinh Di giáo như sau:
“Nhữ đẳng Tỳ kheo, ư ngã diệât hậu đương tôn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa
như ám ngộ minh, bần nhân đắc bảo. Đương tri thị tắc nhữ đẳng đại sư, nhược ngã
trụ thế vô dị thử dã”, có nghĩa là: Này các Tỳ kheo sau khi ta diệât độ các ông
phải lấy giới luật làm thầy cũng như người đi trong đêm tối gặp đèn sáng, người
nghèo được của báu. Phải biết giới luật là thầy của các ông, dù Ta có trụ ở đời
cũng chẳng khác gì pháp này vậy.[10, 328]. Như vậy, người xuất gia thì điều cần
thiết nhất là phải nghiêm trì tịnh giới. Nỗ lực tinh tấn không ngừng trau dồi
giới đức, vì Giới là cội gốc Bồ đề, là nền tảng Niết bàn, là ngọc anh lạc để
trang nghiêm pháp thân, là phao nổi để đưa người qua biển khổ sanh tử và cuối
cùng là kho tàng công đức. Cũng như bất cứ bao giờ và ở đâu, nếu giới còn được
tôn trọng và hành trì nghiêm túc thì chánh pháp mới được trường tồn mãi mãi. Một
khi đã nhận thức rõ điều này thì hàng xuất gia phải có nhiệm vụ bảo tồn chánh
pháp tự mình tinh nghiêm giới luật, lấy giới làm mạch sống tu hành. Mỗi chúng ta
là một nhân tố tạo lập ngôi Tam bảo, quyết định sự tồn tại của đạo pháp. Bởi nhờ
có giới luật mà hàng tu sĩ chúng ta được cơ duyên vun bồi phước đức, tâm thức
hành nghi, un đúc đạo đức thâm sâu, tâm hành thuần thục, cung cách oai nghi tỏ
rạng khiến cho mọi người khởi tâm kính mộ và từ đó đem lại sự hưng thịnh cho
Phật pháp, lợi lạc nhơn quần xã hội. Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng
“Giới luật là yếu tố cơ bản đối với người xuất gia”. Như cổ đức đã từng tán
dương:
“ Ôi ! Biển Phật pháp
rất là mát mẽ
Giới Thi-la là cái
thềm bờ
Thánh phàm tắm gội
không nhơ
Cõi lòng thanh tịnh
là bờ giác kia”
Đồng thời, muốn cho
chánh pháp tồn tại lâu dài và truyền bá được rộng rãi thì các sứ giả Như lai
phải biết tùy theo căn cơ thời đại và hoàn cảnh mà áp dụng giới luật một cách
uyển chuyển, linh động miễn sao không hại đến mục đích giải thoát, nhất làụ
trong tình trạng đạo đức nhân phẩm đang bị xem thường như hiện nay. Chính là lúc
tất cả mọi người đang cần đến những phương thuốc tinh thần (giới luật) để cứu
chữa căn bệnh suy thoái đạo đức. Do vậy vấn đề cho người thực hiện nếp sống của
đạo là cần phải thể nhập bằng cách nào, trong khi xã hội đang trên đà phát triển
dân trí ngày càng cao, càng rộng. Hơn nữa, nếu xã hội thặng dư những điều kiện
này thì sẽ đưa đến thái độ khó chấp nhận của con người đối với thực trạng, định
luật của kiếp người. Nếu chúng ta không có một phương hướng đào luyện kiến thức
và không có sự cố gắng phát triển sinh lực của đạo một cách chân chánh, thì làm
sao có thể đạt đến mục đích của người xuất gia.
Như vậy, hành trì
giới luật trong thời đại ngày nay cần phải uyển chuyển theo xã hội nhưng điều
cốt yếu là phải lấy giới luật làm nền tảng căn bản cho tự thân. Như Ngũ Phần
luật quyển 22 Phật dạy: “Tuy điều giới Ta chế nhưng phương khác chẳng cho là
thanh tịnh đều chẳng nên dùng. Tuy chẳng phải điều Ta chế nhưng phương khác cần
phải làm thì chẳng được chẳng làm”. [4, 50].HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).12/5/2012.
No comments:
Post a Comment