-
ASHTA GARU DHARMA -
-
TÁM ĐIỀU LUẬT KHẮT KHE DÀNH CHO CHƯ NI
-
Tiến sĩ Amasiri Weeraratne
Lời người
dịch: Bát Kính Pháp đã
từng là đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu Phật học Đông Tây quan tâm. Không
phải một mình Sư Cô Thích Chiếu Huệ ở Đài Loan đề nghị bỏ Bát Kính Pháp mà từ
trước và cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, đánh giá và soi sáng vấn
đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó ngầm ý kêu gọi nên xoá bỏ Bát Kính
Pháp. Trong số những bài khảo cứu về chủ đề này, chúng tôi xin dịch bài Ashta
Garu Dharma – The Eight Strict Rules for Buddhist Nuns của tiến sĩ Amarasiri
Weeraratne đăng trong tạp chí Yasodhara (Newsletter on International
Buddhist Women’s Activities) Vol. 14, No. 4 (no. 56), July - Septemper, 1998 do
Cô Chatsumarn Kabilsingh, người Thái biên tập. Các cước chú trong bài này đều do
chúng tôi thêm vào để giúp cho độc giả có thêm nguồn tư liệu chính xác.
Tiến sĩ
Amasiri Weeraratne là nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng ở Tích Lan từ nhiều thập
niên trước đây. Ông đã đóng góp khả năng của mình cho nền Phật học trên nhiều
lĩnh vực. Trong bài này, ông khẳng quyết rằng Bát Kính Pháp hoàn toàn do chư
Tăng bịa đặt ra, rồi gán cho đức Phật. Điều đó cần phải loại bỏ, vì như vậy là
làm hoen ố đức tính từ bi và trí tuệ của một bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, ông quá
gay gắt và thiếu căn cứ cho rằng chư Tăng kiết tập Kinh điển lần thứ nhất là
những vị khinh ghét phụ nữ và muốn toàn quyền lãnh đạo Tăng đoàn, thậm chí muốn
nô dịch hoá phụ nữ. Ông rất đúng khi cho rằng Bát Kính Pháp do các nhà biên tập
sau này đặt ra, nhưng không thuyết phục độc giả khi cho rằng chính các nhà biên
tập Kinh điển lần thứ nhất bịa đặt ra và gán cho đức Phật. Theo như lịch sử
kiết tập Kinh điển lần thứ nhất ghi lại, trong kỳ kiết tập này các vị được mời
dự hội nghị đều chứng Thánh quả A-la-hán, không còn các tâm niệm nhiễm ô như
khinh ghét phụ nữ hoặc muốn lãnh đạo giáo đoàn, v.v… Do đó, chúng ta có thể kết
luận Bát Kính Pháp không phải do chính đức Phật ban hành cho Di mẫu Ma-ha
Ba-xà-ba-đề, nhưng cũng không thể kết tội là do các vị Thánh Tăng thời kỳ kiết
tập Kinh điển lần thứ nhất đề ra. Lịch sử kiết tập Kinh điển thành văn trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau và do nhiều nhà biên tập sau này. Chúng ta vẫn
chưa có cơ sở nào để quy kết chính các vị Thánh Tăng trong thời sơ kỳ Phật giáo
đưa ra Bát Kính Pháp. Để xác định được thời gian nào Bát Kính Pháp được áp dụng
cho Ni đoàn và được ghi lại thành điều luật, sự việc này cần phải có những công
trình nghiên cứu chuyên sâu hơn.
Lại nữa, kỳ
kiết tập Kinh điển lần thứ nhất toàn là các vị Thánh Tăng A-la-hán, không có sự
tham dự của Tỳ-kheo-ni, điều đó có thể có nhiều lý do, đặc biệt là do hoàn cảnh
xã hội, chứ chưa hẳn là do các Thánh Tăng có thành kiến đối với Tỳ-kheo-ni. Nếu
chúng ta tin tưởng các vị đại đệ tử của đức Phật là những bậc A-la-hán thì không
thể nào nói rằng, qua kỳ kiết tập này chúng ta thấy được bản chất khinh ghét phụ
nữ của những vị có nhiệm vụ kiết tập Kinh điển thời bấy giờ như quan điểm của
ông.
Mặc dầu bài
viết chưa giải quyết hết mọi vấn đề mà chúng ta mong muốn, nhưng dù sao ông cũng
mạnh dạn kiến nghị một phương án thực tiễn có thể thực hiện việc khôi phục Ni
đoàn ở các nước theo truyền thống Thượng Toạ Bộ, đặc biệt là ở Tích Lan. Theo
người dịch, chính nhờ tiếng nói tích cực của các Phật tử hảo tâm này mà Phật
giáo Tích Lan ngày nay đã mở rộng cánh cửa tâm linh cho nữ giới đúng với tinh
thần của đức Phật hơn.
********
Câu chuyện đức
Phật thành lập Ni đoàn được ghi lại trong Luật Tạng ở tập Cullavagga
(Tiểu Phẩm) quá khó hiểu, có nhiều điểm mâu thuẫn và không nhất quán. Bát
Kính Pháp đi ngược lại với mục tiêu của đức Phật được trình bày trong Kinh
Luật. Nhiều học giả Đông Tây đã nêu ra và phê bình những mâu thuẫn này. Các học
giả cho rằng, câu chuyện thành lập Ni đoàn và việc chế định Bát Kính Pháp được
nói là do đức Phật tuyên thuyết, thật sự là do chính các vị Tăng lãnh đạo Tăng
đoàn chế ra sau khi đức Phật nhập niết-bàn. T. W. Rhys Davids, bà I. B. Horner,
Thượng Toạ Dharmananda Kosambi, tác giả của tác phẩm Bhagavan Buddha
(Lịch Sử Đức Phật); Đại Đức bác học Narawila Dharmaratana và Đại Đức
U. Wangeesa - tác giả của tác phẩm Bhikshuni Sasanaya (Sự Tồn Tại của
Tỳ-kheo-ni ) là những học giả nổi tiếng đều đứng về quan điểm
này.
Trước khi chế
định những điều khoản cho giáo đoàn, đức Phật đã quan sát kỹ lưỡng rồi Ngài mới
chế định, chứ không phải Ngài tự đặt ra một cách tùy tiện. Do đó, nếu đức Phật
đã cân nhắc và sắp đặt trước một cách cẩn thận rồi thì Ngài đã không rút lại
quyết định khi tôn giả Ànanda đại diện cho Di mẫu và 500 thể nữ cầu xin dùm cho
họ được xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Câu chuyện trên kể rằng đức Phật từ chối ba lần
đối với Di mẫu Gotami và ba lần từ chối đối với tôn giả Ànanda. Tất cả là sáu
lần từ chối chỉ vì việc cho nữ giới gia nhập Tăng đoàn, và cuối cùng Ngài đã
chấp nhận lời cầu xin thông qua lời biện hộ của tôn giả Ànanda. Tình tiết này
làm cho chúng ta phải nghi ngờ, nó không thể nào xảy ra được. Ni đoàn của
Kỳ-na-giáo đã được Nigantha Nàtaputta (Mahàvìra) thành lập trước rồi. Do đó, đối
với các tôn giáo ở Ấn Độ, đức Phật không phải là nhà cải cách và tạo ra một mô
hình mới lạ gì. Thật là vu khống cho một bậc toàn giác và đầy lòng nhân ái, khi
chúng ta cho rằng đức Phật không muốn thành lập Ni đoàn và tôn giả Ànanda phải
cầu xin một cách khó khăn rồi đức Phật mới chấp
nhận.
Chúng ta hãy
bàn thảo vài chi tiết của vấn đề này. Đức Phật bị cho là Người thành lập Ni đoàn
một cách miễn cưỡng. Với sự kiện này, Ngài bị người ta gán cho Ngài câu nói sau:
đáng lẽ chánh pháp (saddharma) của Ngài được tồn tại 1000 năm, bây giờ
chư Ni được phép gia nhập Tăng đoàn thì chánh pháp của Ngài sẽ bị giảm một nửa,
nghĩa là chỉ còn 500 năm. Lời tiên đoán này cho thấy một điều hết sức vô lý. Ở
Tích Lan, Ni đoàn được tồn tại 1200 năm ở Anuràdhapura trước khi giặc ngoại xâm
Nam Ấn chiếm đóng thủ đô này. Ở Trung Hoa, Triều Tiên và Đài Loan, Ni đoàn vẫn
tồn tại và hoạt động liên tục mà vẫn tuân giữ giới luật. Vì vậy rất khó thuyết
phục chúng ta tin rằng chính đức Phật lại tiên đoán thật buồn cười như vậy. Điều
này quả thật là do các vị Tăng biên tập đã thêm thắt giai thoại này trong
Cullavagga rồi gán cho đức Phật nói. Sau này các nhà sớ giải phát hiện ra
lời tiên đoán trên là không thật, các vị đó đã vạch ra nhiều điều khập khiễng,
và nói rằng chánh pháp (saddharma) nghĩa là chứng đạt được con đường và quả vị
dẫn đến niết-bàn (nirvàna). Những lý luận như vậy là cách biện giải chẳng
có sức thuyết phục để khoả lấp một chuyện bịa đặt gán cho đức Phật. Đức Phật
không có nói một điều như thế này mà có nghĩa như thế kia. Những điều này là mưu
mẹo của giới Tăng lữ trong Phật giáo đặt ra. Bây giờ chúng ta hãy khảo sát Bát
Kính Pháp (Ashta Garu Dharma).
Điều luật thứ nhất
Điều luật này
quy định một vị Tỳ-kheo-ni dù trăm tuổi đạo vẫn phải cuối đầu lễ bái một vị Tăng
dù mới thọ giới một ngày. Đây là một điều luật căm ghét phụ nữ không thể tưởng.
Đối với điều luật này, ngay cả một con người bình thường có tư cách, biết cư xử
công bằng và bình đẳng cũng không ban hành một điều luật như vậy. Thật ra,
Cullavagga ghi lại rằng, một thời gian sau đó Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề
bạch đức Phật nên rút lại điều luật bất hợp lý này. Đức Phật được nói là Ngài đã
từ chối lời thỉnh cầu của Di mẫu, vì Ngài cho rằng ngay cả những vị đạo sư của
ngoại đạo (Tirtaka) thời đó cũng không cho phép nữ giới được quyền tự do
như vậy. Về phương diện tôn ti trật tự trong giáo đoàn Phật giáo, tuổi đạo
(Upasampada) được xem là quan trọng nhất. Ngay cả lúc đi đường các vị
Tăng nhỏ tuổi đạo phải đi sau các vị lớn tuổi đạo. Các vị Tăng nhỏ tuổi đạo phải
đảnh lễ các vị Tăng lớn tuổi đạo. Sự bất khả xâm phạm đến các vị lớn tuổi đạo là
một đặc trưng của Luật trong Tăng đoàn đã bị điều luật bất hợp lý này vi phạm.
Câu chuyện đức Phật chế định Bát Kính Pháp đã ngầm huỷ hoại tính thẩm quyền của
Cullavagga. Điều luật này đã phủ nhận lời dạy của đức Phật về ý nghĩa của
khái niệm “bình đẳng” (samanatmata)[1] trong Tứ Nhiếp
Pháp (Satara Sangraha Vastu), đó là, bố thí (dana); ái ngữ
(priyavachana); lợi hành (artachariya); và bình đẳng
(samanatmata). Theo điều luật này thì không có một vị Tỳ-kheo-ni trưởng
thượng nào, mặc dù vị ấy là một vị A-la-hán với phẩm hạnh cao viễn đi nữa cũng
không thể nào được một vị Tăng cung kính, bởi vì vị ấy có thân tướng nữ lưu. Đức
Phật không có tính căm ghét phụ nữ như vậy. Đó là sự bịa đặt của những người
theo chủ nghĩa bá quyền trong Tăng đoàn, họ muốn chư Ni phải hoàn toàn lệ thuộc
và bị nô lệ, và để tán thành sự thống trị của nam giới trong Tăng
đoàn.
Đức Phật tỏ
lòng tôn kính đối với Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề vào nhân dịp bà đến viếng thăm
Ngài lần cuối trước khi bà nhập diệt. Vào dịp đó đức Phật đã cung kính tiễn đưa
Di mẫu đến cổng Tịnh xá. Nếu đức Phật chế định điều luật thứ nhất trong Bát Kính
Pháp cấm Tỳ-kheo tôn kính lễ bái chư Ni, sao chính Ngài lại vi phạm điều luật
này và đề ra một tiền lệ xấu xa như vậy? Điều luật này không thể do đức Phật
chế định. Đó là công việc của những người có tính căm ghét phụ nữ đã đặt ra
trong kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ nhất. Chúng ta nên nhớ rằng không có vị
Tỳ-kheo-ni hoặc vị A-la-hán ni nào tinh thông Pháp và Luật được chính đức Phật
tôn trọng lại được chấp nhận tham gia kiết tập Kinh điển lần thứ nhất. Chư Tăng
trong kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ nhất đã cho chúng ta thấy bản chất thật của
họ thể hiện qua việc khiển trách tôn giả Ànanda về việc đại diện cho chư Ni cầu
xin đức Phật cho họ xuất gia và đã cho phép họ xem thi hài của đức Phật [2] trước để họ có thể
trở về Ni viện sớm.
Điều luật thứ
hai
Điều luật này
chế định rằng chư Ni không được ở xa một trú xứ mà không có chư Tăng, trú xứ của
chư Ni phải gần trú xứ chư Tăng để chư Ni có thể được chư Tăng hướng dẫn hoặc cố
vấn đời sống tâm linh. Điều luật này cũng được chế định trong giới thuộc tụ
Ba-dật-đề [3] của Giới
Bổn Tỳ-kheo-ni. Nội dung của điều luật này cũng gần gũi với điều luật
thứ ba là chư Ni phải thưa hỏi chư Tăng để xác định ngày Bố-tát cầu xin giáo
thọ. Theo điều luật thứ tư, sau mùa an cư chư Ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni
làm lễ Tự tứ. Điều luật thứ năm quy định chư Ni nếu phạm giới phải đến trước nhị
bộ Tăng Ni cầu xin sám hối để giải tội.
Bốn điều luật
này đề cập về an cư, tự tứ, quyết định tội và xử trị. Khi thành lập Ni đoàn, các
giới cho Tỳ-kheo-ni chưa được đức Phật chế định cho chư Tăng và chư Ni. Theo
như Kinh điển ghi lại, giới luật được chế định sau 20 năm đức Phật thành đạo.
Cách cử tội và cách xử trị những tội được thi hành sau khi đức Phật chế định
giới luật.
Do đó, nếu căn
cứ vào Luật tạng thì cách cử tội và cách xử trị một tội chưa xảy ra là một điều
không hợp lý. Rõ ràng thật là vô lý trong khi các thủ tục như vừa nói trên được
đề cập khi luật chưa được đức Phật chế định. Thượng Toạ U. Wangeesa, tác giả
cuốn Bhikshuni Sasanaya nêu lên những điểm không tương ứng này, Thượng
Toạ đã khẳng định câu chuyện đức Phật chế định Bát Kính Pháp trong
Cullavagga không thể nào chấp nhận là có thật được. Những thủ tục như tự
tứ, sám hối nửa tháng được quy định trong Bát Kính Pháp chứng tỏ rằng Bát Kính
Pháp không phải do đức Phật chế định mà do chư Tăng ở Kỳ kiết tập Kinh điển lần
thứ nhất đề ra, rồi biện hộ là do đức Phật quy định. Mục đích của họ là để cố
bám lấy quyền lãnh đạo trong Tăng đoàn, và cốt buộc chư Ni dưới quyền của
họ.
Điều luật thứ
sáu
Điều luật thứ
sáu nói rằng một Thức-xoa-ma-na (Sikkhamana) phải tuân giữ 6 giới trong hai năm,
sau đó cô có thể được thọ giới Tỳ-kheo-ni. Nhưng điều luật này không được 500
thể nữ cùng xuất gia với Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề tuân thủ. Thế mà Di mẫu Ma-ha
Ba-xà-ba-đề và đoàn tuỳ tùng của bà được nói là họ đã tuân giữ Bát Kính pháp
suốt đời ! Nhưng trên thực tế, chúng ta thấy các vị đó đâu có tuân giữ điều luật
này. Trong tiểu sử của chư Ni, chư Tỳ-kheo-ni đệ tử trực tiếp của đức Phật và
các đệ tử của họ được ghi trong Sớ giải của Therìgàthà (Trưởng Lão Ni
Kệ) và một số tác phẩm tương tự không hề đề cập đến việc tuân giữ điều luật
này. Không có một vị Tỳ-kheo-ni nào được đề cập là đã tuân thủ điều luật của
Thức-xoa-ma-na. Lần đầu tiên chúng ta nghe việc tuân giữ Thức-xoa-ma-na trong
hai năm qua cuộc đời của Sangamitta. Thức-xoa-ma-na phải tuân giữ 6 giới trong
hai năm. Như vậy tại sao có giới quy định là “Không được cho thọ giới một người
nữ có thai hay một người nữ có con nhỏ”? Nếu chư Ni bắt buộc phải tuân giữ 6
giới trong hai năm thì điều luật thứ sáu trong Bát Kính Pháp trở thành dư thừa
và không cần thiết. Ở đây chúng ta cũng thấy giữa Bát Kính Pháp và các giới
trong Luật Tạng không nhất quán và không ăn khớp với nhau. Vì vậy chúng ta có
thể suy luận điều luật thứ sáu trong Bát Kính Pháp được chế định sau khi đức
Phật nhập diệt.
Điều luật thứ
bảy
Điều luật thứ
bảy quy định dù bất cứ trong trường hợp nào chư Ni cũng không được chửi rủa hay
sỉ vả chư Tăng. Điều luật này đã được chế định trong giới của tụ Ba-dật-đề cho
Tỳ-kheo-ni rồi. Trong Sớ giải có ghi lại là giới này được chế định vì có một số
Ni đã rủa xả tôn giả Ưu-ba-li (Upàli), vì sự bất bình họ đã phản đối tôn giả.
Ngay cả tôn giả Đại Ca-diếp (Mahà Kassapa) cũng bị chư Ni rủa chửi. Một điểm
thật lạ có liên hệ đến bản chất căm ghét phụ nữ, đó là vấn đề cho phép những
người nam có bản chất bá quyền buộc tội tôn giả Ànanda trong kỳ kiết tập Kinh
điển lần thứ nhất. Họ đã buộc tội tôn giả Ànanda về việc cầu xin đức Phật cho
phụ nữ gia nhập Tăng đoàn và đã mở ra cánh cửa giác ngộ cho phụ nữ trong Phật
giáo.
Các điều luật
thứ hai, thứ ba và thứ bảy đều là những điều luật được sao chép lại từ các giới
trong Giới Bổn Tỳ-kheo-ni. Dường như khi kiết tập Luật ở kỳ kiết tập Kinh
điển lần thứ nhất, các vị Trưởng Lão biên tập và có thẩm quyền về Kinh tạng
đã quên rằng chư Ni đã chấp nhận tuân giữ Bát Kính Pháp rồi. Những sự không nhất
quán này chứng minh rằng đức Phật không phải là người chế định Bát Kính Pháp mà
là do những vị Tăng có bản chất chủ nghĩa bá quyền chế ra. Nếu Bát Kính Pháp tồn
tại trong thời đức Phật, hoặc chư Ni vào thời của Ngài tuân thủ, thì một điều
rất lạ là tại sao chư Ni coi thường giới luật như thể Bát Kính Pháp chưa từng
hiện hữu. Nếu Bát Kính Pháp do đức Phật chế định thì đâu cần phải tái hiện chúng
trong Giới Bổn Tỳ-kheo-ni. Theo điều luật thứ bảy, một vị Ni bị
cấm không được khiển trách một vị Tăng dù cho vị Tăng này có đối xử rất bất công
đối với vị Ni này. Dù việc bất công này to lớn đến đâu đi nữa, cô cũng không có
quyền than phiền hay tố cáo. Nếu quả vậy, thật không tưởng tượng được, đức Phật
là một người quá bất công và làm một việc trái với công lý như vậy. Làm sao Ngài
có thể gọi là bậc giải thoát cho phụ nữ mà không đánh lừa chúng ta? Ngay cả một
con người có tâm bình đẳng bình thường cũng không có ban hành những điều luật
tồi tệ như vậy. Đây là một điều luật bất nhân và nhẫn tâm. Điều luật này hạ thấp
chư Ni để nô lệ vĩnh viễn dưới những người đàn ông có bản chất chủ nghĩa bá
quyền trong Tăng đoàn. Làm sao chúng ta lại gán cho đức Phật một đặc tính hoang
dã như vậy? Ngài là vị đạo sư nhân từ, không đối xử phân biệt giữa người với
người vì vấn đề giai cấp, dòng tộc, hay giới tính. Bát Kính Pháp đã làm cho đức
Phật và giáo pháp của Ngài bị hoen ố.
Điều luật thứ
tám
Điều luật thứ
hai và thứ ba được rút ra từ điều luật thứ tám dưới một hình thức khác. Điều
luật này quy định chư Ni không được phép khuyên bảo chư Tăng, và họ luôn luôn
nhận sự khuyên bảo từ chư Tăng. Ở đây, chúng ta thấy cùng một ý tưởng nhưng được
lập lại trong ba cách khác nhau. Ba điều luật này có thể dễ dàng sát nhập lại
thành một. Chúng ta thấy chư Tăng có trách nhiệm với giáo pháp sau khi đức Phật
nhập diệt, họ muốn kiềm chế chư Ni nên ban hành những điều luật chống lại chư
Ni, hạn chế sự tự do của chư Ni, không cho phép chư Ni có được sự tự do như chư
Tăng. Chúng ta thấy Bát Kính Pháp đáng được xoá bỏ vì nhiều lý do. Đại Đức bác
học Dhammananda Kosambi, tác giả cuốn Bhavaga Buddha (đã được dịch sang
tiếng Anh và tiếng Tích Lan), phát biểu trong cuốn sách trên rằng Bát Kính Pháp
chỉ có giá trị về phương diện lịch sử. Do đó, Bát Kính Pháp khó có thể chấp nhận
là do đức Phật chế định. Chúng ta thấy nội dung của một điều luật mà lại chia
chẻ thành nhiều luật khác nhau. Một số điều luật trong Bát Kính Pháp lại được
lặp lại trong Giới Bổn. Khi sáng lập Ni đoàn, Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã
không thừa nhận Bát Kính Pháp. Đức Phật không tuân theo điều luật đã chế định,
tôn kính tiễn đưa Di mẫu ra đến tận cổng tu viện. Do đó, tính thẩm quyền của câu
chuyện Bát Kính Pháp do đức Phật chế định đã bị nghi ngờ và cần phải xem xét
lại. Cách tuân thủ các hình phạt khi phạm giới trong Luật Tạng là quá trình
xảy ra sau này trong Tăng đoàn, nhưng chúng ta thấy những cách xét xử này lại có
mặt trong trong các điều luật của Bát Kính Pháp. Những điều này làm cho chúng ta
phải nghi ngờ về Bát Kính Pháp là do các vị Tăng sau này đặt ra. Giới luật được
chế định sau khi đức Phật thành đạo hai mươi năm. Ni đoàn được thành lập vào năm
thứ năm sau khi đức Phật thành đạo. Do đó, các điều luật được liệt kê trên làm
cho chúng ta nghi ngờ về tính xác thực của Bát Kính Pháp. Những người nam có bản
chất bá quyền trong Tăng đoàn đặt ra để duy trì sự thống trị cả hai Tăng đoàn
của đức Phật.
Các học giả
nghiên cứu về lịch sử của Tăng đoàn Phật giáo đã vạch ra Phật giáo đã trải qua
ba giai đoạn phát triển như dưới đây:
1. Giai đoạn
đời sống du phương.
2. Giai đoạn
thành lập tu viện.
3. Giai đoạn
phân phái.
Giai đoạn đầu
tiên là giai đoạn của đức Phật và sau đó 100 năm, nghĩa là cho đến khoảng thời
gian kiết tập Kinh điển lần thứ hai xảy ra. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn khi
chư Tăng bỏ đời sống du phương, ổn định đời sống tu viện. Trong giai đoạn này
rất nhiều điều luật được chế định để kiểm soát và điều chỉnh đời sống tu viện.
Các điều luật này có lẽ là do các nhà biên tập có thẩm quyền thêm vào mà lại gán
cho là do đức Phật chế định. Giai đoạn ba là giai đoạn phân phái trong Tăng
đoàn. Sự phân hoá Tăng đoàn xảy ra đầu tiên vào kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ
hai do vấn đề Thập Sự Phi Pháp của nhóm Tỳ-kheo Bạt-kỳ (Vajji). Kết quả là Tăng
đoàn bị chia thành hai bộ phái: Thượng Toạ Bộ (Theriya) và Đại Chúng Bộ
(Mahàsangha). Sau đó cả hai bộ phái chính này phân hoá thành nhiều bộ phái nhỏ
nữa. Những bộ phái thuộc Đại thừa Phật giáo (Mahàyàna) xuất phát từ bộ phái
chính là Đại Chúng Bộ. Thượng Toạ Bộ cũng bị phân chia thành nhiều bộ phái nhỏ,
gọi chung là Tiểu Thừa Phật Giáo (Hìnayàna). Hiện nay chỉ có Thượng Toạ Bộ vẫn
còn giữ nguyên vẹn trong các nước Tiểu Thừa Phật Giáo, trong khi đó một số bộ
phái thuộc Đại Thừa Phật Giáo phát triển trong các nước theo truyền thống Bắc
Phương Phật Giáo.
Do đó, phải
thừa nhận rằng các giới luật được chế ra trong giai đoạn đời sống tu viện do đức
Phật chế ra là một điều không đáng tin cậy. Bát Kính Pháp là tám điều luật hầu
như không liên hệ đến thời đức Phật, tám điều luật này chỉ là những điều luật
đặt ra để xác định và hướng dẫn cho đời sống tu viện. Chư Tăng lấy lợi thế của
các điều luật trong Bát Kính Pháp này nô lệ hoá chư Ni. Hiện nay chư Tăng dựa
vào điều luật thứ sáu trong Bát Kính Pháp và những giải thích sai lầm để ngăn
cản việc phục hồi Ni đoàn ở các nước theo truyền thống Theravàda. Điều luật này
quy định một vị Ni muốn thọ Tỳ-kheo-ni giới phải có sự chứng minh của nhị bộ
Tăng Ni. Vì hiện nay hội chúng Tỳ-kheo-ni trong truyền thống Theravàda không còn
tồn tại, không có truyền thọ giới phẩm Tỳ-kheo-ni trong truyền thống này, trừ
khi mời được chư Ni từ các nước Đại Thừa Phật giáo đến để truyền giới. Chỉ có
phụ nữ xuất gia thọ sa-di-ni giới thì được và không có điều luật nào cấm cản.
Các bậc chức sắc trong Theravàda trở nên mù loà đối với vấn đề này, và nói rằng
chư Tăng không thể truyền giới Sa-di cho phụ nữ. Thật ra, họ có thể và có đủ
quyền làm những việc như vậy. Khi nhị bộ Tăng Ni hoạt động ở Ấn Độ và Tích Lan,
Tăng đoàn sắp xếp truyền giới cụ túc cho các sa-di-ni. Đó chỉ là một sự sắp xếp
tuỳ nghi. Không có một điều luật nào quy định như vậy. Nhưng khi hội chúng
Tỳ-kheo-ni của Theravàda không còn tồn tại thì chư Tăng không có quyền mà cũng
không có từ chối việc truyền giới sa-di-ni cho phụ nữ. Nói rằng Ni đoàn theo
truyền thống Theravàda không thể phục hồi được vì sự vắng mặt của chư Tỳ-kheo-ni
trong truyền thống này, là một lý lẽ không đúng và không đứng vững được. Trong
những giai đoạn đức Phật chế định giới luật, chư Tăng có thể thâu nhận nữ giới
cho gia nhập Ni đoàn trở thành sa-di-ni. Tôi nhắc lại, không có điều luật nào
ngăn cấm điều này. Chư Tăng vẫn truyền giới Tỳ-kheo-ni cho các vị sa-di-ni mà
không có sự chứng minh của Ni đoàn. Sự cho phép của đức Phật về vấn đề này được
ghi lại trong Cullavagga ở phần Vagga-Bhikkhunì Khanda (kiền-độ
Tỳ-kheo-ni): “Anujanami Bhikkhave bhikkhuna bhikkhunìya upasampadetum”
nghĩa là “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép, hãy truyền giới Tỳ-kheo-ni cho chư
Ni” [4], câu nói này vẫn
còn có giá trị. Điều luật này chưa bao giờ bị sửa đổi hay huỷ bỏ. Do đó, Ni đoàn
Tỳ-kheo-ni ở Tích Lan có thể được phục hồi bằng hai phương án như
sau:
1. Việc phục
hồi Ni đoàn Tỳ-kheo-ni có thể được thực hiện bằng sự chứng minh của chư Tỳ-kheo
thuộc truyền thống Theravàda và các Ni Sư ở Trung Hoa, Đài Loan hay Triều
Tiên.
2. Giả
như cho rằng mấy vị Sư Ni của Phật giáo Đại Thừa là tà đạo, việc truyền giới
cho chư Ni bị phản đối, thì nên chọn phương án khác, tức là các cao Tăng của
Thượng Toạ Bộ nên truyền giới cho Sa-di-ni trước, sau đó truyền cụ túc giới cho
các Ni được chọn.
[1] Khái niệm này được
dịch sang tiếng Anh là equality, equanimous hoặc even of
mind có nghĩa là bình đẳng hoặc xả, hoặc là trạng thái bình thản của tâm.
Trong Phật giáo Đại Thừa, Tứ Nhiếp Pháp phần lớn được ghi: bố thí, ái ngữ, lợi
hành và đồng sự, chứ không phải là “bình đẳng” hoặc
xả.
[2] Trong nhiều tài liệu
nói do vì tôn giả Ànanda cho Ni giới xem âm mã tàng của đức Phật nên bị khiển
trách, chứ không phải đơn giản chỉ thi hài của đức
Phật.
[3] Dựa theo bản tiếng
Anh Bhikkhunì-Vibhanga của Thượng Toạ Bộ, giới này là giới thứ 56
trong tụ Ba-dật-đề.
[4] Lời dạy này được tìm thấy trong
Cullavagga X, trang 357, bản dịch của bà I. B.
Horner. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.6/5/2012.
No comments:
Post a Comment