Wednesday 28 August 2013

TỲ-NI NHỰT DỤNG THIẾT YẾU
HƯƠNG NHŨ KÝ
QUYỂN HẠ
Đời Thanh, Cổ Hàn chùa Chiêu Khánh, Trường Vạn thọ giới đàn, thầy truyền Luật Tỳ -kheo hiệu Thư Ngọc tiên Ký
-o0o-







Kinh A-hàm nói: Tiền thân của bà La -sát đây, nguyên là vợ người của mục ngưu, nhân có một việc bất như ý (29), nổi cái tâm sân khuể, phát cái ác nguyện sẽ ăn những nam nữ ở thành Vương -xá.
Nhân ác nguyện đó, sau khi xả thân, sanh trong loài quỷ Dược -xoa mà có một ngàn đứa con, đều là quỷ vương cả, thống lãnh mấy vạn quỷ nữa, năm trăm quỷ con lên ở trên thiên cung, thường chọc rối chư thiên; năm trăm quỷ con ở thế gian, thường phá rối nhân dân cõi nước. Hằng ngày bắt các nam nữ trong thành Vương -xá để ăn!
Bấy giờ người trong thành đều nói rằng, chắc là bị kẻ cướp bắt đem bán đâu! Vị thiện thần hộ thành bảo:
- Con cái của mấy người, phi kẻ đạo tặc bắt cắp đâu, chính là quỷ Hoan hỷ dược xoa bắt ăn thịt đấy. Các người nghe rồi nói: - Nếu nó bắt ăn con cái của chúng tôi, thì là oán tặc rồi, sao lại tên là Hoan hỷ?
Thế nên, danh từ A -ñeå-lợi-mẫu, dịch là Oán tặc (30), tức là quỷ Tử mẫu thiên trong chư thiên đó, thực thế.
Nhân dân ở quanh thành Vương -, đến bạch Phật cầu cứu, Phật bèn hóa phép bắt giấu đứa con út tên là ái nhi (con cưng); quỷ mẫu nào lên thiên đường, nào là rông khắp nhân gian, tìm kiếm mãi mà chẳng gặp! Sau gặp ngài Tăng Trưởng thiên vương, chỉ đến Phật mà tìm.
Phật hỏi: Quỷ mẫu thương ái nhi lắm ư? Bà có cả ngàn đứa con, chỉ mất có một đứa mà còn thương đến thế, huống lại người ta những kẻ chỉ có một, hai đứa, mà bà bắt mất, thế cái khổ của họ thế nào? Thế Tôn ngài thuyết pháp hóa đạo… rồi dỡ bình bát trả ái nhi lại cho quỷ Mẫu, khiến thụ tam quy ngũ giới, đắc quả Tu -ñaø-hoàn, nguyện ở một tịnh thất nơi vườn Kỳ -hoàn; những thiện tín nào không tử tức, đến cầu đảo thì sanh được con cái, và kẻ có bịnh hoạn khấn vái được lành mạnh.
Thế nên, quỷ vương mẫu, đã thụ Phật giới cũng kêu cả ngàn đứa con đồng y chỉ chỗ Phật, nghe pháp được hóa độ, từ đây chẳng não hại thiên thần nhân gian nữa.
Quỷ Mẫu bạch Phật rằng: Nay mẹ con của chúng con, đã thụ giới cấm rồi, không được sát sanh thực nhục nữa, thế thì nên ăn chi?
Phật dạy các thầy Bật -, phàm khi thụ trai, phải trước xuất một phần thí cho các vị, đầy đủ no nê. Nên các chùa bên Tây -kiền, hoặc khẳm chỗ bên cửa, hoặc bên nhà khói, nhà ăn, có thiết lập một cái trác nhỏ, để một cái bồn, có đắp hoặc vẽ hình bà quỷ Mẫu, tay dắt một đứa con ái nhi đứng nơi đầu gối; đại chúng khi ăn cơm, thí cho một phần khiến mẹ con quỷ La -sát, đều thoát ly khổ đói khát. Đấy là cái quy tắc xuất sanh bên nước Tây Thiên Trúc.
Do xem ra thì, mỗi chỗ mỗi cách xuất sanh, là nguyên phi chánh chế, nên chỉ khiến thị giả đưa cơm xuất sanh đi, còn chúng đều niệm kệ chú như đã đăng trên, thì tâm bố thí khắp đủ rồi. Nguyên trọng ở pháp, chứ phi ở cơm nhiều hay ít.
Nếu khi đi đường, hoặc chỗ phân vệ, và tại nhà thí chủ, thì vị Thượng tọa xuất sanh, vị hạ tọa tống thực (cơm xuất sanh) còn các vị khác thì niệm kệ chú, lẽ thì phải vậy.
Nếu chỉ một mình đi phân vệ, thì phải tự xuất tự tống thực xuất sanh, ý nghĩa rất rõ rồi.
Nhẫn trên ba duyên là chúng hung ác bạo tàn như thế, khi chúng thấy uy thần của Phật, Ngài vẫn chẳng động đến thanh, sắc của Ngài mà tự nhiên hàng phục được chúng.
Song, còn e cái tập khí bạo ác chưa hết, nên trước lấy pháp mầu cam lộ để rửa sạch lòng dạ của chúng, sau dùng cơm cháo, khiến đều đầy đủ no khẳm.
Hai bài kệ như đã rõ trên, gốc ở hai điển: Niết-bàn và Thiên truyện, nên chữ câu dù khác, chứ nghĩa vẫn đồng, phàm khi xuất sanh, cần phải hợp đọc luôn.
Tập. Thời đại ngày nay, với sự xuất sanh, hằng thấy chỗ thì dùng ngón tay bắt ấn, để nêu dụ là núi Tu -di, đem cơm xoay vòng mấy lần; hoặc chỗ thì lại đem cơm xoay vòng rồi trăn trở tay ấn, mỗi mỗi cách làm… tra xét trong các kinh luật, thì chẳng thấy xuất ở điển chương nào? Thì ra toàn mất uy nghi cả!
Nếu luận đúng lý ra thì, chỉ tay tả kiết ấn, tay hữu lấy cơm xuất sanh, trong miệng thầm niệm kệ chú, thế là chánh thôi.
Xét trong Nam Hải Ký Quy Truyện (31) chép rằng: Bên Tây Vực Tăng chúng đến chỗ cúng cơm thụ trai, phía trên có lập một cái tọa Thánh tăng, một bên thiết một cái trác nhỏ, để một cái bồn đặng cúng mẹ con quỷ La -sát.
Phàm khi đi ăn, trước cúng Thánh tăng, kế cúng hiện tiền đại chúng, sau thí quỷ tử mẫu ăn; chứ chẳng có mỗi mỗi quy chế xuất sanh mỗi khác nhau.
Nay thuận theo cái nghi xưa của Đông thổ, mặc dầu có mỗi cách xuất sanh nhưng chẳng nên mỗi mỗi cách làm (32).
Thị giả đưa cơm xuất sanh đi.
: Thị giả, là người thân cận thừa sự. Đưa cơm đi là vâng lời thầy dạy, dẫu hoặc thầy tự đưa cơm đi, thì cả chúng đều phải đứng dậy, làm khiến kinh động đến đỗi chẳng yên, nên khiến thị giả thay vì đem cơm đi.
Các vị chúng quỷ thần, ta nay cúng các vị, cơm này khắp mười phương, chung tất cả quỷ thần.
án, mục lực lăng tóa ha (3 lần).
: Thị giả đem cơm đến chỗ để đọc bài kệ chú trên. Nhữ đẳng ngươi thảy (các vị), là chỉ ba loại là đại bàng, khoáng dã và la -sát trên kia thị giả kêu ngay tên mà thí pháp thực.
Luận Bà -sa nói: Quỷ nghĩa là sợ, là luống nhác sợ mãi! Lại, hy vọng tầm cầu còn gọi là quỷ. Lại, hằng theo dõi người ta để trông cầu uống ăn, cho sống tánh mạng. Quỷ có ba loại:
1-Tội nghiệp rất nặng! Vì hằng lâu từ kiếp này qua kiếp nọ, vẫn chẳng đặng nghe đến cái tiếng nói nước hay cháo! Có đâu được ăn!
2-Chỉ rình tìm kẻ nhân gian đem bỏ những đồ như súc rửa, nùng huyết, phẩn uế để ăn.
3-Hằng lâu mãi hoặc đặng một bữa no, là chúng sanh tạo ác, vì bởi lòng bón rít tham lam, nên sanh vào quỷ đạo đây.
Thần, là tài năng. Những vị có đại lực thì, hay dời núi lấp biển; những vị có tiểu lực, là hay biến hóa khi ẩn hình, lúc hiện thân.
Lại, cái không khí nó duỗi trương ra thì gọi là thần; nó thâu rút lại gọi là quỷ. Đó là nghĩa quỷ thần của một vài thầy triết học đạo Nho nói thế.
Đại khái mà thí đó, gọi là chúng; ta nay cúng các vị là chính giờ Tỳ -kheo ăn cơm mà, khi chưa ăn đó, lấy cái pháp thực thanh tịnh để cúng thí cho kia (chúng quỷ thần).
 “Cơm này khắp mười phương, chung tất cả quỷ thần”, là quỷ thần ăn bằng cách xúc thực (tiếp xúc hưởng hơi), nghĩa là quỷ thần đều ở rải rác nơi mười phương, mà kệ chú và cơm đây, có thể khắp mười phương, khiến các vị quỷ thần cùng tiếp xúc đến hơi pháp thực, để tiêu biểu lòng từ bình đẳng của Phật, mà các vị quỷ thần đều đặng pháp vị bình đẳng bảo mãn.
Truyện Cảm ứng chép rằng: Thuở xưa, tổ Nam Sơn Đạo Tuyên luật sư, lúc còn ở đời hóa đạo, khi tuổi già chẳng ăn cơm cháo của nhân gian, đã hơn hai mươi năm, vì thường thụ cơm của thiên nhân cúng dâng. Một bữa nọ, Tổ sư hỏi thiên nhân rằng: “Bần đạo này tu hành có đức hạnh chi mấy mà dám nhọc Tôn thiên tống cúng?” Thiên nhân thưa rằng: “Đức thầy khi còn làm Sa -di, mỗi đến khi đưa cơm xuất sanh, thí cho chúng hữu tình, chúng con đều được nhuần thấm cái vị pháp thực, đồng được siêu thoát khổ thú, mà cảm đặng cái thiên thân này, thế thường cảm ơn pháp nhũ của đức thầy, đã tế độ chúng con, nên nay đến thù đáp muôn một.
Đó là tổ Đạo Tuyên tu giới đức đạo hạnh rất nhiều mà cảm được như thế; do đó xét ra, người học đạo phàm chỗ ra làm tất cả hạnh, đều hồi hướng cả pháp giới, tất cả chúng sanh đồng giác đạo, đấy là Bồ -tát hạnh, công đức đó bất khả tư nghì.
Khi thị giả tống thực rồi trở lại, đứng chực thầy duy -na xướng lời Tăng -bạt rồi, đánh khánh, đại chúng niệm Phật rồi, thị giả mới về chỗ mình.
Tăng bạt.
: Tăng bạt là cái phép xướng bình đẳng cúng dường.
Kinh Phạm -ma-nan, quốc vương nói: Thái tử của Phạm -ma-nan tên là Quân -lân-nho, xuất gia đắc đạo. Thuở đó, nhà vua chưa biết đạo luật, mỗi khi đến chùa cúng dường, có phần riêng khác hơn chúng tăng. Phật biết nhà vua riêng dùng bên ân ái, phân biệt thân sơ, nên bảo rằng: “Tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc với chúng ta, mình muốn cúng thí đều phải bình đẳng, bất luận là lớn nhỏ thân sơ”.
Phật dạy A -nan-ñaø, đến chỗ thụ trai, xướng Tăng bạt khiến chúng tăng đều bình đẳng mà ăn.
Truyện Ký Quy nói: Tam-bát-la-khư-đa dịch là thiện chí, hoặc là lời mật chú, vì hay trừ chất độc, nghĩa ấy sẽ giải thích như sau.
Phật dạy thầy Tỳ -kheo, ăn gìn năm phép quán, buông lòng nói lộn xộn, của tín thí khó tiêu, đại chúng nghe tiếng chuông, tất cả đều chánh niệm.
: Phật chế, Phật là ngôi pháp vương, vâng lời Phật chế, cũng như quần thần vâng lời sắc lịnh của quốc vương xưa.
Lời tựa Luật Thập Tụng nói: ông Thi -lợi-cừu-đa, nghi Phật có Nhứt thế trí bèn lập kế thử Phật: Trai soạn đều để thuốc độc; trong nhà đào một hầm lớn, để lửa than, lấy cát rải lên trên, không cho có khói và ngọn lửa lên. Trên ấy lót cái sàng không bện, rồi tự nói: Nếu Phật có trí, sẽ chẳng thụ lời ta thỉnh đến thụ trai.
Phật xem cơ duyên nên độ, nên nhận lời thỉnh; bèn bảo A -nan bảo các Tỳ -kheo nay chớ đi trước. Như Lai lãnh đạo chư Tỳ -kheo, Phật đi trước vào nhà, trong hầm lửa hóa sanh thành một vùng liên hoa, và từ ngõ vào nhà, cũng mọc hoa sen, Phật với Tỳ -kheo đều đi đạp trên đóa hoa; sàng ấy thành giường chắc chắn.
Thi-lợi-cừu-đa thấy cảm đức hóa, bạch Phật: “Đồ ăn đây đều có thuốc độc, chẳng thể xiết cúng được!” Phật nói: “ông cứ cúng đi, ta cùng chúng ăn không chi đâu”.
Phật bảo A -nan rao lịnh: Chưa xướng lời chú nguyện thì chẳng được ăn, xướng rồi chúng ăn đều ngon lành. Phật lại để phép: Từ nay về sau, hễ chưa xướng chú nguyện thì chẳng ăn trước: “ăn gìn năm phép quán” sẽ giải rõ ở văn dưới kia.
 “Buông lòng nói tạp” nhẫn đến “đều chánh niệm” đó là bài kệ của Phật bảo A-nan rao bảo hiệu lịnh, để răn Tỳ -kheo thường tu chánh quán, mới đặng thụ thực, nếu chẳng tu chánh quán, tán loạn nơi tâm, nói chuyện lộn xộn mà ăn đó, thì của tín thí khó tiêu được. Người xưa có kệ rằng:
Thí chủ một hột lương,
Nặng như quả sơn vương
!
Nếu mà chẳng rõ đạo
,
Mang lông đội sừng thường
!
(Thí chủ nhứt lạp mễ
Trọng như Tu
-di san
Nhược hoàn bất liễu đạo
Phi mao đới giác hoàn.
)
Hai chữ “nan tiêu” nó còn độc lắm, độc hơn thuốc độc của Thi -lợi-cừu-đa! Thế nên tùng lâm đến nay vẫn còn tuân lời di sắc của Phật, đến khi thụ thực, đánh chuông tụng kệ, khiến các Tỳ -kheo nghe tiếng nhớ lời, đều gìn chánh niệm.
Chánh niệm, là đúng như lý mà niệm, gọi là chánh niệm, tức cái niệm huệ, nghĩa là chẳng cho các tâm sở như hôn trầm, điếu cử, hữu niệm, vô niệm… đều chẳng động đến chánh niệm.
Kinh Phạm Võng nói: Thà lấy cái miệng đây, nuốt huờn sắt nóng, và tuôn lửa ngọn ra, trải qua trăm ngàn kiếp, trọn chẳng để cái miệng phá giới đây, ăn bá vị ẩm thực của tín tâm thí chủ.
Truyện Ngũ Đăng Hội Nguyên chép: Tổ Đề --tôn-giả, sau khi đắc đạo qua nước Ca -tỳ-la-vệ, có trưởng giả tên Phạm -ma-tịnh-đức, bữa nọ trong vườn cây mọc ra tai như nấm, khí vị nó rất ngon ngọt, duy trưởng giả và cậu con thứ hai tên là La -hầu-la-đa được lấy ăn mà thôi, ngoài ra không ai được thấy hưởng, mà hễ lấy tai đó rồi, nó lại mọc ra tai khác.
Tổ biết túc nhân, bèn đến tận nhà trưởng giả hỏi cớ chi? Tổ nói: “ông đã cúng dường một Tỳ -kheo chăng? Nhưng Tỳ -kheo đó đạo nhãn chưa sáng luống tiêu của tín thí, nên mắc quả báo làm cây nấm mèo đó, chỉ ông và con của ông, trước đã ân cần cúng dường, nên nay mới được hưởng đấy”. Tổ lại hỏi trưởng giả: “Năm nay ông được bao nhiêu tuổi?” Trưởng giả đáp rằng: “Bảy mươi chín tuổi”. Tổ thuyết kệ rằng:
Tu mà đạo lý bất thông,
Luân hồi trả nợ  phú ông cúng dường.
Tuổi ông tám mốt ra vườn
Cây không sanh nấm tỏ tường không
sai.
(Học đạo bất thông lý
Chuyển thân hoàn tín thí
Trưởng giả bát thập nhất
Thử thụ bất sanh nhĩ.
)
Về sau, quả như lời Tổ đã ghi.
Tập. Trong luật ghi lời Phật chế, chúng Tăng thụ thực mà xướng Tăng bạt đó, là nhân có kẻ ngoại đạo thỉnh Phật và chúng tăng thụ trai, mà nó lén để thuốc độc vào đồ ăn; nên Phật khiến các thầy Tỳ -kheo thảy đều xướng rằng: “Tam-bạt-la-già-đa”, phàm có độc dược đều biến làm mùi rất ngon nhứt, chúng ăn rồi an vui, khỏi bị độc hại.
Rằng Tăng bạt, Tăng nghĩa là Tăng chúng thụ thực; Bạt tức là lời bí chú để xướng.
Tiếng Phạm là Sampragata (Tam-bát-ra-khư-đa) đây rằng đẳng cúng, nghĩa là chúng Tăng ăn đều bình đẳng. Lại nói: thiện chí, là món cúng lành nên, đến giờ ăn lại tới.
Ngày nay, xứ này xướng ngũ quán, khiến chúng nhứt tâm thụ thực, mà làm Tăng bạt đó, sẽ có hai điều lợi, một là không bị ngoại đạo làm độc hại, hai là khiến người thụ thực sanh lòng biết hổ thẹn. Thế, dù phi chánh chế nhưng xứ Đông hạ (Đông chấn Hoa hạ tức Trung Hoa) đã phổ thông hành trì.
Cử bát.
: Đã nghe xướng văn cảnh sách và tiếng chuông rồi, liền phải tay tả bưng bình bát, tay hữu nương đỡ, một phần đưa bình bát lên, thầm niệm bài kệ chú đây:
Tay bưng bình bát, nên nguyện chúng sanh, trọn nên đồ pháp, chịu trời người cúng.
án, chỉ rị chỉ rị, phạ nhật ra, hồng phấn tra (3 lần, bưng bình bát ngang nơi bụng mà ăn).
: Chấp trì là tay bưng, tiếng Phạm Pàtra (bát-đa-la), đây rằng ứng lượng khí, nghĩa là thể, sắc lượng cả ba ấy cùng tương ưng nhau với pháp, nên gọi ứng khí là đồ hợp pháp, tức là bình bát. Về thể, tuy cho dùng bằng gốm, bằng thiếc, chỉ trọng quý bằng ngói (gốm).
Luật Thiện Kiến nói: Cả Thánh nhân ba thừa, đều cầm bình bát bằng gốm để khất thực giúp sống, lấy tứ hải vi gia (Đâu đâu là cũng cửa nhà bần tăng), nên tên là Tỳ -kheo. Về sắc, chỉ cho phép xông làm màu như màu lông cổ chim bồ câu, chứ chẳng cho xông hầm làm màu xanh, vàng, lục và trắng cùng lắm vẻ nhiều màu rằn rực. Về lượng, tuy có phân làm ba hạng thượng bát, trung bát và hạ bát, mà Phật chế phải tùy theo phân lượng sức ăn của mình được bao nhiêu thì lấy cơm bấy nhiêu. Với ba hạng ấy, nếu có một nào bất như pháp, tức phi ứng khí rồi.
Tay bưng ứng khí, ắt tụng kệ chú, hồi hướng chúng sanh, tức là thể thủ theo pháp ấy, vì bấy nay vẫn thành tựu.
Một câu “thành tựu pháp khí” mà, đủ cả giả quán, không quán và trung quán, nhẫn đến cái pháp chế độ, cái chỉ tam thì, ngũ quán, đều xuất ở ứng lượng thì với các pháp, đâu chẳng trọn đủ ư?
Luật Tứ Phần phẩm Thụ Giới nói: Ngày trước đức Thế Tôn tại gốc Bồ -ñeà, khi mới thành Phật, có hai người chủ bán quán, đem bún ngào mật đến dâng Phật; Thế Tôn ngẫm nghĩ: “Chư Phật đời quá khứ dùng bình bát để thụ thực”. Bấy giờ, bốn vị Đại thiên vương, đều lấy thạch bát, mau đến hiến Thế Tôn; Như Lai lại nghĩ rằng: “Nếu thụ lãnh của một vị, thì ba vị kia phải buồn, thôi ta nay thụ luôn cả bốn bình bát, theo thứ lớp để chồng lên với nhau, đặt trên bàn tay tả, dùng tay hữu đè xuống một cái, vì thần lực nên hiệp thành một chiếc bát, nên nói rằng “Thành tựu pháp khí thụ thiên nhân cúng”.
Nên trong luật, chẳng cho Tỳ -kheo chứa thạch bát, nếu chứa thì phạm tội Thâu -lan-giá (32). Nếu chẳng biết cái pháp ứng lượng như thế, tức với một nhỏ nước của thí chủ cũng khó tiêu! Huống là các trời cúng ư?
Chính khi ăn cơm, phải đủ uy nghi. Luật Tăng Kỳ nói: Tỳ-kheo ăn cơm, phải như cách ăn của con voi ở non Tuyết, là ăn vào miệng rồi, nó lấy cái mũi (vòi) cuộn làm miếng ăn sau, hễ miếng trước nuốt rồi, tiếp tục đưa miếng sau vào, miếng nào vẫn một cỡ như nhau không quá lớn, không quá nhỏ, liệu vừa miệng mình ăn. Tỳ -kheo ăn cũng thế.
Vị Thượng tọa phải chẩm rãi mà ăn, chẳng nên lật đật ăn cho mau rồi, ngồi đó mà ngó người nọ người kia, làm cho các thầy tuổi trẻ phải luống cuống, ăn không no! Nếu con bún lớn vừng, phải lấy tay phân ra liệu vừa miệng, với bánh cũng thế, khi ăn chẳng đặng làm cho hột cơm rơi rớt dưới đất; nếu ăn cháo lỏng, húp canh chẳng đặng húp có tiếng kêu, phải chậm chậm mà nuốt.
Luật Căn Bản nói: “ăn chẳng đặng chắp lưỡi, chẳng đặng hả miệng nhai nhơi, chẳng đặng há miệng hà hơi, chẳng đặng vừa ăn vừa thổi, chẳng đặng rung tay gõ đũa miệng chén”, rộng như trong luật đã dạy.
Ba muỗng có tiết thứ.
: Tiết, là tiết độ, chừng mực. Tiết cũng có nghĩa là mắt, như mắt tre, mắt ngón, mắt xương, tức trúc tiết, chỉ tiết, cốt tiết là đốt đối với lóng, nghĩa là với nạp thụ ba miếng cơm đầu tiên, hoặc dùng bằng muỗng hay đũa xúc cơm cũng như múc canh mà ăn vậy, song, muỗng đầu chẳng dừng nơi muỗng thứ hai, sau chẳng đến muỗng thứ tư, mà chỉ ắt lấy muỗng thứ ba đó, là sao thế? Là nêu lên tỏ rằng dứt ba độc tham sân si và vì để rõ ba tụ tịnh giới.
Trí Độ Luận nói: “ăn là vì cái gốc hành đạo”. Nên chính giờ ăn, phải làm ba cái nguyện dưới đây:
Muỗng ban đầu: Nguyện đoạn tất cả ác.
: Nguyện dứt nhứt thế ác đó, là không việc ác chi chẳng dứt.
Tổ Thiên Thai nói: Có giới nội ác, giới ngoại ác, tức là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc (33), thực thế.
Khi mới hạ muỗng vào cơm, phải nguyện: Cái thân này, sở hữu thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp và tất cả những pháp bất thiện, thảy đều đoạn hết.
Muỗng thứ hai: Nguyện tu tất cả thiện.
: Nguyện tu nhứt thế thiện đó, là không việc chi mà chẳng tu, khi hạ muỗng thứ hai, phải nguyện trong đời này, sở hữu tất cả việc lành, đều khiến chăm tu, tức là đức Như Lai ngoài nói ra ba học là giới, định và huệ, ba mươi bảy phẩm các pháp trợ đạo (34), nhẫn đến trăm ngàn pháp tam -muội, vô lượng pháp môn, thực thế.
Muỗng thứ ba: Thệ độ tất cả chúng sanh.
: Thề độ nhứt thế chúng sanh đó, là không một chúng sanh nào mà chẳng độ. Như ngài A -nan-đà phát nguyện rằng: “Như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn”. Lần thứ ba khi hạ muỗng, phải thầm nguyện này: Đời này sở hữu tu hành thiện căn, hồi hướng thí cho tất cả chúng sanh, cộng thành Phật đạo.
Hai muỗng trước là về phần tự lợi; ăn muỗng thứ ba này đây mới là lợi tha, vì tức là tứ hoằng thệ nguyện vậy!
Tập. Như thế các nhà hành giả, vâng sức chú nguyện đây, thắng cả số hà sa bảy bửu, trăm vị ẩm thực cúng dường chư Phật, Bồ-tát và Thánh Hiền Tăng.
: Ba cái nguyện tâm trên đây, gốc ở luận Khởi Tín, nguyên văn rằng: “1-Trực tâm: chánh niệm pháp chân như. 2-Thâm tâm: ưa tích tập các hạnh lành. 3-Bi tâm: muốn cứu vớt những khổ của chúng sanh.
Cũng tức ba phương tiện: Một, năng chỉ phương tiện là thôi dứt tất cả ác pháp. Hai, phát khởi phương tiện là dấy làm tất cả thiện căn. Ba, đại nguyện phương tiện là nguyện độ tất cả chúng sanh. Lời Tổ răn: Ba tâm (tham, sân, si) chưa hết, một nhểu nước của thí chủ cũng khó tiêu! Chính là nghĩa đây vậy.
Năm quán không quay vi.  
: Lý và sự không ngăn ngại, nghĩa là, trong pháp quán tức sự tức lý, vì tư duy chắc thực không tỏ. Nếu người học đạo, bữa ăn chẳng gìn chánh niệm, thì có khác nào như trâu ăn cỏ. Nên ngài Lãng Am thiền sư vịnh:
Của chùa mỗi vật nặng dường non
Thâm lạm
, kiếp đời nợ mãi còn
Miệng Phật cùng săn
, người chẳng tởn
Sau vào địa ngục chịu ăn đòn.
(Thập phương tăng vật trọng như san
Vạn kiếp thiên sanh khởi dị hoàn
Kim khẩu cọng đàm nhân bất tín
Tha niên tranh miễn thiếc thành quan.
)
Lại nói:
Thân người khó đặng phải lo
Lông sừng kiếp thú
, lần mò đời mang
Tham cơm một hột cúng dàng
Hững hờ
, thiếu hụt, lỡ làng áo cơm.
(Nhân thân nan đắc hảo tư lương
Đầu giác sanh thời tuế ngoạt trường
Kham tiếu tham tha nhất liệp mễ
Đẳng nhàn thất khước bán niên lương.
)
Do đấy mà xét, chẳng tu ba học, thì bị cái ăn làm sa đọa, khá chẳng cẩn thận ru!?
Một kể công nhiều hay ít, lường kia chỗ đến.
: Kể công bao nhiêu đó, nghĩa là: ta tưởng cơm trong một bình bát đâu chẳng phải rảnh rỗi mà có, mà phải tìm xét cho thấu nguồn gốc: kể từ vỡ đất, gieo giống, nhổ cấy, cắt gặt, đập giũ, phơi khô, xay giã, sàng giần, vo gụt, xôi nấu… đó, nông phu phơi nắng, dầm mưa, khô hạn, nước lụt, cày bừa, làm cỏ… Người làm ruộng, đổ mồ hôi hột, nên ăn ít mà mồ hôi nhiều, công lao nặng nề như thế.
Người xưa nói:
Bừa lúa chính giờ Ngọ
Mồ hôi sa xuống thổ
Đâu biết cơm trong bàn
Mỗi hột đều tân khổ.
(Sừ hòa chính đương ngổ
Hạn đích hòa hạ thổ
Thùy tri bàn trung xan
Liệp liệp giai tân khổ.
)
Nên Luật nói: “Một hột gạo, mất cả trăm công lao” thực thế. Nuốt vào miệng liền thành đồ bất tịnh, chốc lát đã hóa làm đồ đại tiểu tiện, gớm chẳng muốn ngó đến, ta nếu tham ăn láo uống, sẽ đọa địa ngục, nuốt hoàn sắt nóng, rồi ra đọa làm súc sanh, để đền trả nợ đời trước cho thí chủ! Quán xét như thế rồi, lòng phải chán lìa, mới xiết thụ thực.
Lượng bỉ lai xứ đó, luật Tăng Kỳ nói: “Vật thực đây, đều là thí chủ có lòng tin, bớt phần nơi miệng bụng, vì cầu phước báo, nên cúng thí cho chúng ta; chính chỗ gọi rằng “Vật thực là dầu mỡ của thí chủ, là mồ hôi của nông phu, nếu ta không tu hành, một hột gạo khó tiêu”!
Nên kinh Văn Thù Vấn nói: “Bồ -tát nếu nghĩ tu, thì không nên ăn cơm của tín thí”. Phàm khi thụ thực, phải làm quán tưởng đây.
Hai  xét đức hạnh mình đủ hay thiếu mà ứng cúng đây.
: Tự xét đức hạnh mình được toàn điểm hay khuyết, nghĩa là chúng ta là kẻ xuất gia, cần phải siêng tu tam học, cho được tự lợi và lợi tha.
Thổn: Kể đo, phải tự lo nghĩ xét đo đức hạnh của mình coi được trọn đủ hay kém thiếu? Song, mặc dầu đức hạnh được hoàn toàn, còn phải cần có quán pháp, mới tiêu được của tín thí. Nên ngài Thiên Thai nói:
 “Bất luận cơm của khất thực hay cơm của chùa nấu ra, khi ăn đều phải làm pháp quán tưởng; nếu tâm chẳng vào ngũ quán, thì cơm ấy chỉ thấm nhuần theo sanh tử mà thôi”! Là chỗ bảo rằng “Học đạo bất thông lý” thực vậy.
Bực đủ đức hạnh đã còn phải lo quán tưởng như thế; huống là kẻ thiếu đức hạnh ư? Nên hễ khi thụ trai, phải làm pháp quán tưởng ấy.
Ba  ngừa lòng lìa lỗi, tham thảy là gốc.
: Phòng ngừa cái ý thức thứ sáu lìa lỗi: là tham thảy (sân si) làm gốc đó, nghĩa là do tham, sân, si ba độc, nó làm căn bản sanh tử cho tất cả chúng sanh, để tạo tác ra các tội nghiệp nhân duyên của thân ba khẩu bốn ý ba. Là nói cái ý thức thứ sáu nó trọn đủ cả quấy lỗi của phiền não nhiều đến vô lượng vô biên, mà tham sân si làm căn bản, nên nói “tham sân si vi tông”. Tông: Căn bổn, là chủ.
Nên kinh Di Lặc vấn nói: “Tất cả ác pháp, đều do tham sân si mà phát khởi”.
Chúng ta vì giác đạo mà hỷ xả gia đình, phải cẩn thận đề phòng cho lắm! Hễ bài trừ được căn bản rồi, thì bao ác pháp đều xa lìa. Nên với món ngon nhứt, chẳng sanh tâm tham ăn, với vị dở, chớ nảy lòng sân nhuế, với mùi không ngon không dở, chẳng dấy lòng si. Phàm khi ăn cơm phải làm pháp quán ấy.
Bốn  việc ăn chính là thuốc hay, vì lành thân gầy.
: Chính sự lương dược vị liệu hình khô đó, nghĩa là do nơi bốn chất lớn hiệp lại thành thân của chúng ta đây, nó thường bị cơn đói khát sanh bệnh, nếu phi uống ăn thì, thân hình khô gầy, nhan sắc héo háp, tất không do đâu để tiến tu đạo nghiệp cho được! Nên phải lấy sự ăn uống làm thuốc hay trị bệnh giúp thân, và là cái cơ quan để tu hành tiến đạo. Nhưng nếu có quá ư tham ăn láo uống, thì trở lại thành cái bệnh trầm kha vậy.
Kinh A Dục Vương nói: “Tổ ưu -ba-cấp-đa lấy một cái bát đựng đầy cháo sữa, lại lấy một chiếc bát không đều để trước mặt thầy Tỳ -kheo tham thực, rồi bảo rằng: “ông nên đợi nó nguội rồi dần dần mà ăn”.
Mà thầy Tỳ -kheo lòng tham ăn quá nặng, liền thổi cho mau nguội và ăn nốt. Tổ Cấp -đa bảo: “Cháo sữa dù nguội mà tâm ông quá nóng, lại cần làm cho tâm nó nguội luôn đi. Phải dùng pháp bất tịnh quán nó thành nước, để trừ cái tâm nóng ấy, nếu thấy món ăn uống, phải tưởng như có bệnh phục dược vậy”.
Thầy Tỳ -kheo ăn rồi, liền mửa trở ra, chứa đầy cái bát không. Tổ bảo: “ông nên ăn lại đi”. Tỳ -kheo từ chối: “Bất tịnh rồi làm sao lại ăn được!
Tổ giác ngộ cho rằng: “ông nên quán xét, tất cả vật gì, dường như đồ hỉ nhổ”. Tổ nhân vì thuyết pháp, Tỳ-kheo tinh tấn, nhớ nghĩ quán xét, đắc quả A -la-hán. Phàm khi thụ trai phải làm pháp quán ấy.
Năm  vì thành đạo nghiệp nên thụ cơm đây.
: Vị thành đạo nghiệp ưng thụ thử thực đó,: người xuất gia, tâm phải vô vi vô dục, tự giữ hạnh thanh tịnh, sự ăn uống phải tùy duyên, để giúp hình mạng, là vì tu cái đạo nghiệp tam thừa. Chẳng ăn thì thân hình ốm, thể sắc đổi, khó thành đạo nghiệp! Nên nhân vì đạo nghiệp mà phải thụ cái ăn đây. Nếu chẳng lo tu đạo thì với một hột gạo cũng khó tiêu.
Ngài Từ ân nói: “Vì thành đạo nghiệp, nên tín cúng mới đem lại, nếu đạo nghiệp chưa thành tiêu đâu đặng”.
Đấy, khá biết sự ăn uống là việc chính giúp đạo, sở dĩ phải thụ đó. Nếu tự biết cái đạo nghiệp của mình chưa thành, tất phải cả sanh lòng hổ thẹn!
Nên Hành Hộ nói: “Với chỗ ăn phải sanh lòng biết xấu hổ, thường làm pháp quán tưởng”.
Luận Ma -đắc-lặc-già nói: “Nếu khi được ăn, mỗi miếng đều làm các tu niệm, nếu chẳng dụng tâm như thế, bèn gọi là luống tiêu của tín thí. Phàm khi thụ thực phải làm pháp quán tâm.
Tập, nhứt kể công đa thiểu, luận Trí Độ nói: “Cơm đây từ khai khẩn, chủng thực, thu hoạch, giã xay, vo gút, xôi nấu và đến thành cơm, công dụng rất nhiều”.
Lượng bỉ lai xứ, luật Tăng Kỳ nói: “Nhà thí chủ giảm bớt phần của vợ con, vì cầu phước nên đem cúng thí. Phàm khi ăn phải làm pháp quán ấy.
Nhị thổn kỷ đức hạnh toàn khuyết ứng cúng, luật Tỳ Ni Mẫu nói: “Nếu ta chẳng tọa thiền, tụng kinh, sửa sang việc Tam Bảo, chẳng trì giới mà thụ dụng của tín thí, sẽ bị của thí đó mà mình phải sa đọa, thì không nên thụ thực. Nếu đức hạnh được toàn thì nên ứng cúng để thụ thực. Phàm khi dùng bữa, phải làm pháp quán ấy.
Tam phòng tâm ly quá tham đẳng vi tông, lời sớ luận Minh Liễu nói: “Kẻ xuất gia, trước phải ngừa ba điều lỗi của ý thức thứ sáu, nghĩa là với thức ăn thượng vị khởi cái tâm sở tham; với thức ăn hạ vị khởi tâm sở sân; với thức trung vị khởi tâm sở si, vì do đó chẳng biết hổ thẹn, mới đọa lạc xuống ba ác đạo. Phàm khi ăn phải làm pháp quán ấy.
Tứ chính sự lương dược vị liệu hình khô, nghĩa là cơn đói khát nó làm phần chủ của bệnh, bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh kia đều làm phần khách của bệnh, nên cần lấy sự ăn làm y dược, dùng giúp cho thân thể, phàm khi ăn cơm, phải làm pháp quán ấy.
Tứ bách tứ bệnh ấy, cái thân của con người là do cả bốn đại: địa, thủy, hỏa và phong giả hợp tổ chức mà thành ra, hễ một đại nào nó chẳng điều hòa thì phát sanh ra một trăm lẻ một chứng bệnh; nếu cả bốn đại đều chẳng điều hòa với nhau thì, đều phát bệnh hoạn, cộng thành bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh.
Ngũ vị thành đạo nghiệp ưng thụ thử thực, nghĩa là nếu chẳng ăn thì cái bệnh đói khát sanh ra, đạo nghiệp làm sao thành được?
Kinh Tăng Nhứt A Hàm nói: “ăn nhiều quá, thì gây ra bệnh khổ, vì tức bụng quá phát ách! ăn ít quá thì khí lực suy vi yếu đuối, không làm gì nổi! Nên giữ ăn mực trung bình, như cái đòn cân, không lui, vác không thái quá và bất cập, giữ bực thường là hợp đạo. Phàm khi thụ thực, cần làm pháp quán ấy.
: Năm quán pháp đây, vốn kinh Di Giáo có văn nói rằng:
 “Thụ dụng các món uống ăn, phải tưởng như có bệnh mà uống thuốc”, đó là nghĩa của pháp quán thứ tư vậy.
 “Với ngon, với dở chớ sanh lòng thêm ngon bớt dở”, đó là nghĩa của pháp quán thứ ba vậy.
 “Vừa được giúp thân, để trừ đói khát”, đó là nghĩa quán thứ năm vậy.
 “Thụ của cúng dường, đủ tự trừ ngặt”, đó là nghĩa quán thứ hai vậy.
 “Chớ đặng cầu nhiều, mất cái lòng lành”, đó là nghĩa của pháp quán thứ nhất vậy.
Cổ đức nói: “Năm quán nếu giữ còn, một ngàn vàng dễ tiêu hóa”. Sở dĩ Kiến Nguyệt hòa thượng Ngài rộng dẫn kinh luận để phát minh ra.
Tẩy bát (rửa bình bát)
: Tẩy: rửa bỏ bợn nhớt. Nghĩa là khi ăn đã rồi, cần phải như phép mà rửa đồ. Nếu luận về cách rửa bên Tây Vực thì ắt phải dùng: hoặc tro hay đất bủn, trái trạo giác, cỏ sô -ma… (chưa có xà bông) mới trừ được chất dầu nhớt. Bởi vì xứ kia, người ta ưa ăn nhiều sữa, lạc,-du; còn bình bát của tu sĩ xứ này, chỉ đựng cơm hay cháo mà thôi, nên chỉ dùng nước sôi rửa qua là được sạch liền.
Dùng nước rửa bát đây, như vị cam lồ trời, thí cùng các quỷ thần, thảy đều được no khẳm. án, ma hưu ra tất tóa ha (3 lần).
: Cựu dịch:-lổ-ba đây rằng Nước mà dụ làm cam lộ đó, số là Tỳ -kheo dùng nước rửa bát, khi rửa có gia trì bài kệ, câu chú thì cái công pháp lực chẳng khá nghĩ bàn, nên dùng để tỷ dụ như phương thuốc thần dược bất tử là cam lộ vậy.
Người đời chỉ biết cái lợi thí thực rất nhiều mà, chẳng biết cái công thí nước đây càng hơn. Nghĩa là ngạ quỷ cuống họng bị lửa cháy, thấy nước không thể uống được. Chỉ có nhờ thần chú đây gia trì vào nước mới uống đặng, để được im mát mà giải thoát được khổ thú.
Thế nên khi rửa bát gia trì kệ chú nguyện lực, dùng nước thí cho như vị cam lộ của trời, năng khiến quỷ thần chẳng còn đói khát nữa.
Khi đổ nước ra rồi, lại phải lau bát, chẳng lau thì nước chẳng khô, trong bát còn hơi ướt, ngoài bát nó quến bụi, nên phải lau cho rốt.
Kinh Luận Dị Tướng nói: “Có vị A -la-hán, thường được vị Long vương vời xuống Long cung ứng cúng (dâng cơm), khi về chùa, đưa bát cho chú tiểu Sa -di rửa. Trong bát còn sót hột cơm, Sa-di hửi nghe rất thơm, bốc ăn rất ngon, bèn dấy tâm niệm như thế này: “Ta phải lập cách phương tiện”. Nghĩ rồi, bèn vào dưới thằng sàng (35), hai tay ôm cẳng giường, núp chực sẵn. Đến giờ Ngọ, La-hán lên sàng tọa thiền, thì sư và sàng đều vào Long cung.
Long vương thấy hỏi: “Sa-di này chưa đắc đạo quả, sao Ngài đem theo?” Sau mới xét biết vì Sa -di ăm hột cơm sót trong bát...
Non Ngũ Vân, ngài Chí Phùng thiền sư (36), một bữa nọ vào trong điện đức Phổ Hiền ngồi yên lặng, bỗng có vị thần quỳ ở trước. Sư hỏi: “Ngài là ai đây?” Thưa: “Là Hộ giới thần”. Sư hỏi: “Tôi có lỗi chi chăng?” Thần nói: “Với nước rửa bình bát, Sư thường đổ bỏ đi là phi chỗ phải vậy”.
Thiền sư từ đó về sau, mỗi bữa cơm rồi đều có tráng bát và uống…
Kiết trai
 : Kiết: thâu về. Thí chủ vì sanh trưởng thiện căn, nên thiết tiệc chay cúng dường chúng Tăng, bữa cơm chay cúng ăn đã rồi, nương sức thần chú gia hộ, và công năng của hai bài kệ, để kết gom thiện pháp, khiến chẳng tan mất lưỡng lợi của tự tha là tài thí và pháp thí vô cùng, nên nói là kiết trai: trước niệm chú Chuẩn Đề, là nguyện cho sở cầu đều đặng như ý.
Chỗ rằng người bố thí, ắt đặng sự lợi ích, nếu thí vì yên vui sau ắt đặng yên vui!
: Đây chính là đức Như Lai khi thành đạo tại nơi cội cây Bồ -ñeà, trước nhứt Ngài dùng bài kệ đây để hồi hướng cho hai ông chủ tiệm buôn rốt trước cúng mật -xiếu (bánh canh hay bánh bột). Sở dĩ ngày nay kiết trai cũng niệm đó.
Song, kẻ thụ trai dù không bằng đức hạnh của Như Lai, nhưng nương theo nguyện lực của Phật, ắt khiến người cúng trai được yên vui.
Luật nói: “Kẻ cúng thí ắt có nguyện cầu: hoặc cầu sanh về thiên cung để hưởng phước; hoặc cầu giải thoát luân hồi, để ra khỏi tam giới; hoặc cầu trường thọ để yên vui dài lâu; hoặc cầu tịch diệt Niết -bàn, cứu cánh bỉ ngạn. Thì người thụ trai, phải đối trước Tam Bảo, rao bày chí nguyện của họ mà phục nguyện hồi hướng. Nên đức Như Lai thụ thực rồi, liền nói bài kệ ấy để hồi hướng. Chính chỗ bảo: “Người thí có tâm nguyện chi, tùy như thế nào tất cảm quả thế nấy mà, ắt đặng như nguyện trong đó”.
Có ơn giúp nơi thân tâm là lợi; chỗ cầu được mãn nguyện là ích. Do vì gieo trồng ruộng phước, phi tăng thì chẳng thể được.
Hai câu trên là rõ chỗ cảm; hai câu dưới là tỏ chỗ ứng; xa lìa sanh tử nói rằng an; chẳng thụ cái thân của các loại Hữu (37) nói rằng Lạc. Chính chỗ gọi: “Ngồi ngay thụ cúng dường, thí chủ nhờ an lạc”. Nên nói “Nhược vị lạc cố thí, hậu tất đắc an lạc”.
ăn cơm đã rồi, phải nguyện chúng sanh, chỗ làm đều xong, đủ các pháp Phật.
: Rốt thôi là ngật. Ngật: hết. Nghĩa là ăn cơm rửa bát rồi, là chính đương cái giờ thí pháp. Nếu chẳng phát nguyện hồi hướng thì, ba muỗng năm quán trước kia đều là lời thừa, vì hữu thỉ vô chung. Thế nên phải nguyện cho tất cả chúng sanh, đều ráo rốt tất cả sự vậy.
Sở tác giai biện đó là ước sự mà nói, khi Phật còn tại thế, các Tỳ -kheo ăn cơm rồi, thu xếp y bát, rửa chân xong, trải tòa mà ngồi, hoặc tọa thiền, hoặc tu quán, vì để thêm ba pháp học. Nói cách vắn tắt là, quán hạnh đã tròn rồi, việc nhà trù, hành đàng cũng xong, chừ đây, chỉ còn cầu đạo Phật, chứ chẳng còn sự gì khác nữa.
Chí ư đi sâu vào lý mà bàn, thì há dễ gì nói được ru!? Bực Nhị thừa chỉ mới đoạn được nội hoặc là kiến hoặc và tư hoặc; Bồ-tát đương đoạn ngoại hoặc là, trần sa hoặc, hầu hết vô minh hoặc mà, hãy còn chưa gọi là giai biện thay! Duy có Phật đã rốt ráo hết năm trụ hoặc, vong luôn phần đoạn sanh tử, biến dịch sanh tử, đấy mới xưng là giai biện (38).
Song, người đời ăn rồi, phi giong ruổi theo việc trần, thì lại tăng trưởng ngủ mê. Nay nguyện hồi hướng về đạo Phật, nên nói rằng: “Sở tác giai biện, cụ chư Phật pháp”. Vì Phật pháp gom đủ cả, thì tự nhiên sở tác giai biện mà sở tác giai biện thì, không đâu chẳng đủ cả pháp Phật ư?
Thụ thẩn.
: Đời xưa, nhà đàn việt dâng cơm cho chúng Tăng, trước dùng thứ vải nhỏ mịn lót bàn, nhà Tăng thụ trai rồi, đưa luôn thẩn vật (39) đem về làm y phục, nên chữ Thân theo bộ Y; về sau, nhà thí chủ lấy bạc hay tiền thay cho vải, nên chữ Thân theo bộ Bối, nghĩa là chỉ dâng cơm cho nhà Sư chưa đủ trọn lòng kính mà, phải dùng một vật gì như vải hay tiền để tặng thêm ngõ hầu tiêu biểu cái lễ tiết ân cần rất đỗi. Với khi đó, nhà Sư xem theo vật thẩn ấy bằng vải hay tiền mà đọc.
Pháp tài hai thí, đồng không sai khác. Thí đến bờ kia, đầy đủ vuông tròn.
: Cái nguồn để nuôi sống thân mạng, nói rằng tài; mười cõi đồng khuôn phép, nói là pháp. Thí: rải rác cho đó, nói là thí.
Luận Bà -tu-mật nói: “Đàn thẩn, đây rằng tài thí. Giải thích rằng: Cái pháp báo đáp lại cái thí, gọi rằng Đạt thẩn (40). Dẫn đưa đến ruộng phước, cũng nói là Đạt thẩn. Chữ Thẩn hoặc theo bộ Thủ (tay).
Sách Tây Vực Ký nói: “Chính là Đạt -thẩn-noa(41): bên hữu, hoặc rằng: Đà-khí-ni: dùng tay hữu tiếp thụ vật của người thí đưa, vì để sanh phúc”.
Tài pháp nhị thí, đẳng vô sai biệt đó, là người đàn tín đem tài thí, Tỳ-kheo đem pháp thí, với hai món công đức so lường ra không có hơn kém, nên nói “Đẳng vô sai biệt”.
Đàn, dịch: thí. Ba-la-mật, dịch: sự cứu cánh,: Nay người thí đây, vốn muốn việc bố thí được viên mãn cứu cánh, tức chỗ đã bảo: “Tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức cũng không có hết” nên nói cụ túc viên mãn.
Thủ dương chi (lấy nhành dương).
: Tay bắt, nói rằng thủ: lấy. Dương chi: là cây xỉa răng.
Bạch Ngọc Thiềm Ký nói: “Giữa khoảng trống thái vi, tinh của sao ky hóa làm cây liễu, nhánh nó xủ xủ thòng thòng, ở giữa mây lợt mưa thưa, đời xưa có kẻ ở ẩn nơi cụm liễu đó, là muốn tỏ ra rằng: chí ôn nhu khiêm tốn”.
Truyện Ký Quy chép: “Đản đa da sắc sá”. Đản đa, dịch: răng, da sắc sá, tức là cây, há cho chẳng biết xỉ mộc, tên là dương chi, nghĩa là bên Tây Vực, cây liễu rất ít, nhà dịch giả vội truyền cái danh dương chi đây, thực ra cây xỉa răng (42) của Phật, hẳn phi dương chi, tại chùa Na -lan-ñaø, chính mắt (43) tôi (Nghĩa Tịnh) đích thấy cây xỉa răng lớn bằng ngón tay út, do cây lớn chẻ nhỏ ra mà dùng như thế, cành nhỏ dứt ra xỉ mộc. Người ở gần rẫy núi, thì dùng nhánh cây tạc, hoặc cọng cỏ, các cỏ mạn làm cây xỉa răng; kẻ ở ruộng bằng, hoặc dùng cây dúi, cây đào, cây hoè, cây liễu tùy ý, sắm sẵn để dùng, không cho thiếu hụt”.
Tam thiên uy nghi chép: “Dùng dương chi có ba việc: 1- Đoạn ra phải vừa chừng. 2- Chẻ phải đúng như pháp là bằng ngón tay út. 3- Nhai dập một đầu, chừa đặng hơn ba phân. Rằng đoạn phải vừa chừng đó, là cây xỉa răng có ba hạng: thứ dài bằng 12 đốt ngón tay, thứ vắn 6 đốt; giữa hai số trên gọi là cây xỉa răng bực trung, tức 9 đốt, là cái đốt trên của ngón tay cái.
Tập. Trong luật gọi là xỉ mộc: tăm xỉa răng.
Dương có bốn thứ, đều có thể dùng xỉa răng được cả. 1- Bạch dương: dương trắng, lá nó tròn. 2- Thanh dương, dương xanh, lá nó dài. 3- Xích dương: dương đỏ, hễ sương xuống thì lá nó đỏ. 4- Huỳnh dương: dương vàng, mộc tánh nó cứng xoắn, lâu lớn.
Nay đều lấy cọng liễu thay nhánh dương, cọng liễu xủ xuống bèn là thứ tiểu dương. Nếu ở chỗ không có cây liễu thì, sẽ lấy cây chi xỉa răng? Phải biết: tất cả các thứ cây đều có thể xỉa răng đồng tên là xỉ mộc, nhưng dùng cây nào mà nó có tính hòa và vị nó đắng, để nhăn xỉa, chẳng chỉ một thứ cây liễu.
Tay cầm nhành dương, nguyện cho chúng sanh, đềàu đặng pháp mầu, rốt ráo trong sạch.
án tát bo phạ thuật đáp, tát rị bo, đáp rị ma, tát bo phạ thuật đát hán (đọc 1 lần).
án lam, tọa ha (với chú Tịnh pháp giới này đọc 21 lần)
: Tay cầm nhành dương đó, là khi ăn cơm rồi, cần phải bỏ bợn dính để xét pháp Phật.
Với trăm điều, Bồ-tát không nghĩ gì cả, thì tất cả trời, thần không thể trông thấy Bồ -tát được, vì Bồ -tát không khởi tâm tưởng; thế biết rằng trời, thần thấy ta bằng tâm niệm, chứ phi bằng hình thức. Thoạt nhiên cơ cảnh gặp nhau, mới thấy việc sự vào lý đến vô cùng.
Thế nên Bồ -tát vừa cất nhành dương, liền nguyện tất cả chúng sanh thì với lễ bái, trì tụng, quán tâm,  duyệt giáo Bồ -tát đều đắc ngộ vào pháp mầu. Mà ráo rốt pháp mầu, tưởng không chi khác hơn là, chỉ nguyện ngay cho tất cả chúng sanh được cứu cánh thanh tịnh mà thôi. Vì đời nay trì giới thanh tịnh làm nhân, thì đời sau cứu cánh thanh tịnh làm quả.
Số là cành dương nó có tánh chất ôn nhu, tư vị nó thanh lương, nên dùng nghĩa làm tỷ dụ. Nên kinh Lăng Nghiêm lời sớ nói: “Dương chi có năm điều lợi (sẽ thấy sau kia) nên nói là diệu pháp.
Tước dương chi.
: Tước: nhăn nhai, là tay nắm cành dương, dùng răng nghiến nát nơi đầu lớn của cành dương để chà bợn răng, còn đầu nhỏ thì xỉa.
Pháp Uyển nói: “Dương xủ liễu nhỏ, cọng nước cành non, khử được nhiệt thì, miệng hực mùi lan huệ, sạch răng thì, hơi ngậm thơm sen”.
Khi nhăn cành dương, nguyện cho chúng sanh, tâm được điều sạch, nhổ các phiền não.
án, a mộ già, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thu đà nễ, bát đầu ma, cu ma ra, nhĩ phạ tăng thu đà da, đà ra đà ra, tố di mạ lê toa phạ ha (chú đọc 3 lần).
: Khi nhăn cành dương đó, là ăn cơm rồi, liền phải xỉa răng, chẳng được chậm trễ qua giờ.
Luật nói: “Bợn răng nếu còn, tức chẳng thành trai pháp, là khẩu nghiệp uế rồi thì, tụng kinh, nghe pháp, chịu người lạy mình, hoặc mình lạy người, thảy đều mắc tội vì tịnh uế lẫn lộn”.
Cành dương vị đắng chát, nhám nhăn chà vào răng, có ích thân tâm. Bồ -tát vì nguyện tất cả chúng sanh, trị dẹp phiền não mà thôi, lại không còn sự chi khác. Duy thị ra cái pháp kiên nhẫn để trừ phiền não, cũng như uống vị đắng dương chi để tiêu trừ bệnh phiền nhiệt.
Tâm được hòa sạch, nhổ các phiền não là cái thể tâm chân như, vẫn là thanh tịnh, chỉ vì cái hoặc vô minh làm che lờ, nên cái diệu tịnh minh tâm chẳng thể hiển hiện ra được.
Nên dùng sức trì giới để dẹp trị đó, thì cái ánh tịnh minh riêng bày, bao điều phiền não hoặc nghiệp, tự nhiên tiêu ta, dụ như cành dương bị nhai cha dứt nhổ ra, thì vẫn chẳng tiếp nối lại được nữa.
Tập. Hễ khi nhăn cành dương, phải nhổ cho hết nhễu dãi, nhiên hậu dùng nước mà súc miệng, chẳng đặng vừa ngậm nước vừa xỉa răng.
Xét, nhăn dương chi có năm món lợi ích. 1- Miệng chẳng đắng. 2- Miệng chẳng hôi. 3- Trừ bệnh phong. 4- Trừ bệnh nhiệt. 5- Trừ bệnh đàm ấm. (trên kia nói dương chi có năm lợi là đây).
Dương chi dùng đã cùn rồi, phải bỏ chỗ khuất, chẳng đặng liệng những chỗ mà đại chúng thường đi và ngồi.
Sứu khẩu (súc miệng)
: Sứu: Dùng nước súc rửa trong miệng cho sạch bợn nhớt để tiện bề thuyết pháp và kính lạy, không ngại với sự lý.
Súc miệng liền lòng sạch, hơi nước trăm hoa thơm. Ba nghiệp thường thanh tịnh, đồng Phật qua phương Tây.
án hám, án hãn tóa ha.
: Súc miệng luôn lòng sạch đấy, là khi ăn, xác rau nó nhét sót giữa kẹt răng, lâu rồi sanh hơi hôi, nên ăn xong, nhăn xỉ mộc rồi, ắt phải súc miệng liền, để rửa sạch cặn bã cho sạch hết không còn. Do nơi sự để suy nơi lý chẳng những miệng sạch, cũng kiêm sạch luôn cả tâm nữa mới được.
Vẫn: hơi nói năng, và như hàm là ngậm vậy. Bách hoa hương đó là tiêu biểu nhân quả tề chương, là nói: Đương ngậm nước trong miệng, mà mùi thơm trăm hoa phun ra ngoài miệng. Chính là tỷ dụ giới luật giữ được chắc thật tâm thể thanh tịnh, thì giới hương tự nhiên sẽ bát ngát.
Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương đó, là ba nghiệp thân khẩu ý đã đều thanh tịnh, thì hai thừa (44) giới thể tự tròn, tịnh giới làm nhân tịnh độ làm quả, tức đồng với chư Phật, không hai không khác, Tây phương cực lạc kia, có thể khảy móng đến liền, với ba giới tự chẳng sa đọa nữa.
Xuất tích trượng (đem gậy tích ra)
: Xuất: là từ nơi trong lấy cầm đi ra. Tích: có tám nghĩa bày rõ danh là: 1- Hay nhẹ bớt phiền não. 2- Rõ Phật pháp. 3- Ra khỏi ba giới mà chẳng đọa lạc trở lại. 4- Giác ngộ chánh pháp mà chóng tỉnh. 5- Dứt được ngã mạn. 6- Xa lìa ba độc. 7- Nhặt nhạnh được cái báu giới định và huệ. 8- Thành tựu quả vô thượng Bồ -ñeà; kêu gọi là Tích.
Trượng: nương, là nương nơi gậy để cầm đi, vì gậy nó hay đưa ta ra lìa ba giới.
Cây gậy tích: có 4 gọng, 12 chiếc hoàn (khoen tròn), là gậy của đức Thích -ca Mâu -ni chế (45); 2 gọng, 12 chiếc hoàn là của Phật Ca -diếp chế (46). Lại, Đại thừa, Tiểu thừa, dùng gậy tích đều chẳng đồng nhau, cách chế tạo cũng khác nữa.
Tập. Tiếng Phạm: Khakkhara (khích-khí-la), đây rằng tích trượng, bèn là cây gậy của ba đời chư Phật thường cầm, để rõ cái công đức trí và hạnh, trừ sạch phiền não nghiệp chướng.
Mỗi ngày, Tỳ-kheo ăn bữa sớm xong, xỉa răng rồi, phải lạy Phật đem gậy tích ra, bấy giờ, nếu có cư sĩ, hay Sa-di, bảo hắn trao gậy tích cho cư sĩ đem ra ngoài phủi bụi, nếu không, thì Tỳ -kheo lạy Phật ba lạy, đứng dậy rồi, tự lấy gậy tích cầm ra, hướng về phương Đông lau bụi, như pháp làm pháp quán. Với uy nghi và hạnh quán, rộng rõ ở kinh Tích Trượng.
Khi tay cầm gậy tích, thầm tụng bài kệ chú đây:
Tay cầm gậy tích, nguyện cho chúng sanh, lập hội thí lớn, bày đạo như thực.
án na lập thế, na lập thế, na lập tra bát để, na lập đế, nã dạ bát nanh hồng hán tra.
: Chấp trì: là tay cất lên. Có hai nghĩa: 1- Chấp: là cái nghi hành đạo. 2- Rung: là để khất thực, nên tay cầm cất lên. Là sở dĩ phát cái nguyện tương tự, cái đạo vô vi, là chân đạo. Hướng về cái pháp vô dư, là chân Niết -bàn.
Nên kinh nói: Cây gậy như thế, bèn là cái dấu hiệu của Thánh nhân, vật ghi rõ của hiền sĩ, cây cờ chính đến Niết -bàn, dựng cái chí niệm nghĩa. Đủ bốn nghĩa ấy, nên gọi là tích trượng.
Chỉn do, pháp nương tâm dựng, giáo đối cơ bàn, pháp của thầy Sa -môn là rõ cái không, đắc cái đạo, nên tay cầm gậy tích, để tỉnh ngộ cho tất cả chúng sanh trong thế gian, nên trước phát nguyện vậy.
Thiết đại thí hội, thị như thực đạo đó, là tức nơi sự, để rõ nơi lý. Đến pháp thực, mở pháp quyền, nên dùng: dựng cây cờ pháp lớn, mở đường chính nhân thiên, đóng ngăn các cửa ác đạo, khiến pháp giới chúng sanh, chẳng vào đường mê, rõ bày cái lý nhứt chân thực tướng. Lấy cái trí như như, họp cái lý như như, lý và trí vẫn nhất như, khế hợp với lý trung đạo. Nên nói “Thiết đại thí hội thị như thực đạo”.
Phu đơn tọa thiền (lót đơn ngồi thiền).
: Phu: trải bày. Thiền, tiếng Phạn: Dhyàna (thiền na), dịch: tịnh lự. bèn là nghĩa: vắng và soi chẳng hai. Nghĩa là trong tâm chẳng nhiễm, ngoại cảnh chẳng lôi, nghỉ dứt các duyên, mà thường yên lặng, thấy nhứt tâm mà chứng đạo, nên nói rằng thiền na.
Trải bày sàng ngồi, nguyện cho chúng sanh, mở trải pháp lành, thấy tướng chân thực.
: Mở trải cái tọa cụ ra, nói là Phu; để trang tải thân hình nói là sàng. Hoặc ba thước hay năm thước, gọi là cái thập (bộ sập). Tám thước, kêu là cái sàng. Mà có thứ sàng bằng dây, thứ sàng bằng cây, đều có năm thứ: là thứ thì cẳng uốn vòng tròn, thứ chân ngay, thứ chân vạy, thứ không cẳng tra vào thanh giường, thực thế.
Tọa: là cái sập (ghế bồ đoàn), người học đạo ngồi kiết già trên đó, để nghĩ nơi tâm, để nơi lự, xét rõ chỗ đại sự (sanh tòng hà xứ lai, tử tòng hà xứ khứ).
Hai câu dưới, là đến nơi sự để rõ nơi lý, nghĩa là cái xác huyễn đây, đã lâu lắm rồi bị cái màn vô minh nó niêm phong quá chắc, thì do đâu mà có thể tỏ bày cái chân lý ra được! ắt phải lấy giới làm cơ bản, với đấy tọa thiền tập định, mới dẹp dứt được vọng tâm, trí huệ được hiện tiền. Chính chỗ gọi: “Mây mờ tan sạch nơi trường không, ngọc ròng gieo xuống trược thủy, mở lưới ái vô minh, thấy Nhứt thừa thực tướng”. Nên nói “Mở trải pháp lành, thấy tướng chân thực”.
Song, cái thực tướng đây, tức là cái tên khác của bổn nguyện tâm địa của chư Phật, do nó lìa tất cả tướng, mà tức tất cả pháp, siêu hẳn các hí luận (47), không chi phá hoại, không tướng nào mà chẳng tướng nó, nên gọi thực tướng.
Ngay mình vững ngồi, nguyện cho chúng sanh, ngồi tòa Bồ -ñeà, lòng không chỗ mắc.
án phạ tắc ra, a ni bát ra ni, ấp đa da toa ha.
: Chính thân đoan tọa, là cái hình thì, cái biểu chính vậy, đấy là có uy nghi về thân, nghĩa là nhắm mắt, lóng tâm, hai bàn tay hiệp lẫn nhau bằng cách tay tả ngửa ở dưới, tay hữu ngửa đè trên để trên cẳng ngay dưới rún.
Dung nghi thẳng thớm, hình như cây tùng sừng sững, nên nói là chánh thân, thân chính thì tâm chính, pháp tu thiền được ba -la-mật, là đủ ra ở cái pháp ngồi, người tu học pháp này, phải kiểm điểm bên trong tâm để trọn quán tưởng, lại thêm công đọc tụng, tỷ như dầu giúp cho đèn vậy.
Bồ-ñeà, dịch: giác đạo; Tọa: tự mình tỏ ngộ được cái tòa Không Vương sẵn có của mình. Với cái tòa đây, mỗi người ai cũng vẫn sẵn có đủ, nên nói là đương nguyện.
Như hoa sen chẳng nhiễm sình, nên nói là Vô trước. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ -đề tâm ấy, dường như hột giống, vì nó năng phát sanh ra tất cả pháp Phật”. Dưới văn trên còn có một trăm mười tám món tỷ dụ nữa không đâu ra ngoài bài kệ chánh văn trên.
Lại, Bồ-ñeà: là với ngoài thì tu quán hạnh, với trong thì minh lý trí, muôn việc đều vắng, chỉ nhứt tâm hướng đạo vậy thôi, mà nói rằng tọa đó, là do Bồ -đề chính thị cái lý sở chứng, nên Kinh nói: “Chúng sanh nước lòng sạch, ánh Bồ -đề hiện trong”.
Lại, tâm vô sở trước đó, kinh Pháp Hoa nói: “Chư pháp không làm tòa” thực thế.
Lại nói: “Chuyển đổi phiền não mà làm Bồ -ñeà, nghĩa là tu các công đức liền vượt khỏi các loại hữu (tam hữu, cửu hữu…), sạch hết bụi bặm thức tình, thì với vô minh đoạn hết, chân lý tự nhiên hiển hiện.”
Kinh Viên Giác nói: “Cái huệ vô ngại thanh tịnh, đều từ nơi thiền định mà phát sanh ra. Thế biết rằng: vượt phàm vào Thánh, ắt mượn duyên thanh tịnh, ngồi thoát (tịch) đứng vong (chết) cần nương sức định thiền. Cốt một đời dùng xong còn e chậm trễ thay, huống chi kéo dài nhiều đời, toan chi để đối địch với nghiệp!
Trí Độ Luận nói: “Với tượng vẽ ngồi kiết già, Ma vương trông thấy còn phải kinh sợ thay! Huống chi người nhập đạo, ngồi đoan thân chẳng khuynh động.
Lại, vì nhân duyên năm món chánh quán, nên tréo xếp chân ngồi (kiết già): 1- Do ngồi yên đây, gom thâu thân tâm, vì mau dấy khinh an rất là hơn cả. 2- Do ngồi yên đây, năng trụ được thời lâu, vì chẳng cho thân tâm chóng sanh bì quyện. 3- Do ngồi yên đây, là pháp chẳng chung có, vì đạo khác, luận khác thảy đều chả có. 4- Do ngồi yên đây, hình tướng nghiêm tịnh, vì khiến người thấy rồi, sanh tâm rất tin kính. 5- Do ngồi yên đây, đệ tử của Phật Thích -ca và các Phật khác, nghe đều vui mừng! Vì tất cả Hiền Thánh đều khen giúp (48).
Thùy miên (nhắm mắt ngủ)(49)
: Nghĩa như trước đã giải thích (thùy miên thỉ ngộ… ở mục tảo giác), khi nhắm mắt ngủ, trước phải chấp tay, mặt hướng về phương Tây, niệm Phật mười tiếng, hoặc trăm, ngàn tiếng rồi, mới đọc bài kệ đây:
Đến giờ nằm nghỉ, nguyện cho chúng sanh, thân đặng an ẩn, tâm không loạn động.
: Kinh và Luật đều dạy: Kẻ xuất gia làm đệ tử Phật, phần đầu hôm, phần cuối hôm, đều sốt sắng hành Phật đạo, phần giữa đêm yên nghỉ, để khỏi gây ra bệnh hoạn quá lao. Như xưa Kích Nhưỡng (50) ca rằng: “Mặt nhựt mọc đi làm, lặn mà nghỉ”. Như thầy Tễ Dư (51) ngủ ngày đó là phi thời vậy.
Với đại sự mà Thích tử chưa minh, chỗ ra làm chưa xong, cái tâm kiếm tìm chưa hết, mà ngủ là phi thời. Cũng có kẻ cái thân an mà cái tâm chưa an mà ngủ, là phi thời.
Tẩm: nghỉ, nằm nhắm mắt. Nếu với đại sự đã minh, chỗ ra làm đã xong, lòng trì cầu đã hết, thân tâm đều an, nên nói là an ẩn, mới là tương ưng với thời nghỉ.
Đời nay, người ta chỉ biết ban ngày lấy mặt nhựt làm ân, chứ chẳng biết ban đêm lấy mặt trăng làm đức. Mặt nguyệt làm đức đó, là như kinh Hoa Nghiêm chép lời của Bà San Bà Diễn để chủ dạ thần nói: “Tất cả chúng sanh lâm vào đêm tối, nếu không thần Chủ dạ này vệ hộ cho thì, bị thú Dã Hán, yêu muội làm nhiễu loạn, mà chẳng đặng an ẩn ngủ nghỉ. Do được cái ân của Dạ thần vệ hộ, hay khiến cho chúng sanh được đến nơi an ẩn bất động là cái chốn an túc vô mộng.
Thế khá thấy Bồ -tát đi, đứng, ngồi, nằm gì cũng đều độ thoát chúng sanh; nên chúng ta trong khi nằm nhắm mắt nghỉ, liền phải phát nguyện độ sanh.
Thân đắc an ẩn, tâm vô loạn động đó, hễ tâm định thì thân định, suy nghĩ nhiều thì mộng mị nhiều, nên nói là loạn động, mà nương pháp lực đây, mà đặng xa lìa điên đảo, mộng tưởng, thức, ngủ, như một.
Phải quán tưởng cái tâm của mình như vầng mặt nguyệt viên mãn thanh tịnh. Với chính giữa mặt trăng, quán tưởng chữ A bằng Phạm tự sáng ánh rực rỡ. Đấy chính là thứ chữ bên Tây Vực. A: nghĩa là vô sanh (52), tưởng các hạnh vô thường, rốt rồi quy về tiêu diệt. Năng tác, sở tác gì, tất cả đều không. Dường như cảnh chiêm bao, trò huyễn thuật, nghĩa là luống không có sanh, thế là cái đại nghĩa an ẩn thân tâm.
Luật Thiện Kiến nói: “Đến giờ sắp ngủ, trước làm pháp lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm vô thường, với trong lục niệm, mỗi mỗi niệm đó. Niệm tức là quán tưởng.
Tập. Quán tưởng chữ A có vòng tròn ở ngoài đó, chỉ một hơi mà niệm đủ 21 biến. Niệm rồi mới nằm xuống: phải nằm bằng cách hữu hiếp, là nằm nghiêng cái sườn phía tay mặt xuống chiếu, gọi là ngủ cát tường; chẳng đặng nằm ngửa, và nằm tả hiếp, chẳng đặng cởi áo trong và cái quần mà nằm, mà cần phải ghi nhớ cái pháp bổn tham, là sự quán tưởng chữ A đã nói trên.
Thủ thủy (lấy nước)
: Tiếng Phạm là Aga (a-già), đây rằng nước. Thủy: mực nước, là cái cỡ để cân bằng vật vậy. Sách Danh Nghĩa nói: “Thấm nhuần muôn vật, chẳng chi hơn mực nước”. Hình là một trong tứ đại, khí trùm nơi ngũ hành.
Thủ: lấy, múc, là đi múc nước ở nơi: mương, sông, ao giếng và đây phải coi cho kỹ, có trùng hay không trùng,, phải lấy cái đãy lược đi mới dùng.
Sách Tri Môn Cảnh Huấn chép: “Vật vi trùng dù nhỏ, mà chỗ làm hộ sanh rất lớn, vì hạnh từ tế của kẻ xuất gia, một ý nghĩa ở đây”.
Hội Chánh Ký nói: “Người xuất gia tu đức từ làm gốc, vì lòng từ hay cho sự yên vui, cốt không sát sanh là trước, loài vật tuy bé, nhưng giữ sanh mạng không khác như người”.
Tập. Tiếng Phạm: Parisràvana (bát--tát-la-phạt-noa), đây rằng đãy lược nước.
Trong Luật chép: Các Tỳ -kheo nghe Phật chế giới này rồi, chưa biết làm đãy lược nước như thế nào. Phật dạy: Hình như cái gáo: mà hoặc bằng ba góc, hoặc bằng rộng vuông, hoặc làm như cái bình lược. Nếu e vi trùng từ nước bò ra, hay lọt ra thì, cho phép để cát trong đãy. Cát lược ấy, chẳng nên bỏ chỗ đất gò, mà phải đem để trở lại chỗ nước.
Hội Chánh Ký nói: “Nếu tạo tác cái đãy, phải dùng thứ vải quyến nhỏ mịn là tốt hơn. Hoặc chẳng có thứ vải ấy, thì thứ vải tế miên (52) cũng được”.
Tăng Kỳ Luật nói: “Khi xem nước, chẳng nên dùng thiên nhãn để xem, cũng chẳng đặng sai người mắt lờ đi xem, mắt người nào mà còn thấy được đường chỉ nhỏ trong bàn tay là xem nước được. Xem chả đặng quá mau, cũng chẳng đặng quá lâu, chừng bằng như con voi lớn một lần nó quày mình.
Nếu chỗ nước mà có loài trùng rất nhỏ, chẳng đặng đến đó rửa tay, rửa mặt và đại tiểu tiện.
Tri Môn Cảnh Huấn nói: “Đãy lọc nước, chính là đồ để làm lành, là việc để cứu vật loại. Cái hạnh lớn do đây mà sanh, cái chân đạo cũng nhân đây mà đặng.
Hễ khi lấy nước, phải niệm kệ chú và danh đức của chư Phật đây, thì được công đức vô nhai, mới khá gọi là người chân trì giới.
Bằng thấy nước chảy, nguyện cho chúng sanh, đặng như ý muốn, rửa bỏ hoặc cấu.
: Nhãn căn dấy biết, nói là thấy; đầu nguồn sanh nước, nói là chảy. Song, tánh tướng chẳng hai, động tịnh một nguồn. Nếu nước mà không nguồn, thì nước ấy chẳng chảy, tức là nước chết; giòng nước mà đặng nguồn thì dầu có lóng nó cũng chẳng trong gì nữa, dẫu có quậy nó cũng chả đục mà nó hay xoay về hương thủy hải, chở núi Tu -di, ơn sánh ba hữu, nhuận kịp muôn linh mà, nó chẳng tự khoe công của nó.
Tăng đắc nguồn pháp, thì, ở trần chẳng nhiễm, phiền não chẳng sanh mà, hay xoay về giới hải, chở non Niết -bàn, lượng đồng pháp giới, khắp giúp bốn sanh, cũng không tự hào là mình làm lành.
Ba bực Hiền, mười bực Thánh khen cũng chẳng kịp, đứa phàm phu mắt thịt, ai mà có thể dòm thấu được đại dụng ru!?
ý chỉ của bài kệ đây, trọn ở phát minh chữ kiến, nếu thấy mà chẳng thấu thì, làm gì phát nguyện cho kia! Làm sao để vì kia mà rửa bỏ hoặc cấu ư!?
Nếu thấy ấy, là đối với nước chỗ thấy, tình trạng chẳng nhứt định: là loài người thấy thì trong mát khá đẹp; loài quỷ thấy thì chảy hóa làm máu; loài cá, loài rồng thấy thì thành ra cung điện; kẻ có nghiệp chết chìm thì gọi là cái hang chết.
Thế, rốt ra thì bảo là nước đó, hãy cưỡng mà đặt tên thôi, huống cho có các cái thấy của mỗi loại như trên, đều là chúng sanh tùy nghiệp cảm lấy.
Nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Cung điện của A -tu-la thì mưa bằng đao và trượng; mà cung điện của Đao Lợi thiên thì mưa bằng ma -ni; còn tại chốn Diêm -phù-đề thì mưa bằng thanh thủy”, thực thế.
Đắc thiện ý dục đó, là nguyện cho chỗ cầu được như ý muốn --- chứ phi như nghĩa chữ dục của tình dục. Nếu là tình dục, thì tức là hoặc có nó theo trong đống phiền não, xé cũng chẳng ra. Chữ Dục ở đây nghĩa là nhạo dục, tức là tòng tâm sở dục vậy.
Luận Thành Thật nói: “Tâm có chỗ nhu cầu, thế gọi là Dục. Dục là gốc của pháp, do vì dục cầu mà đắc nhứt thế pháp”.
Luận Tỳ Ni Mẫu nói: “Như Phật nông nã siêng năng chẳng biết mỏi, nên gọi là cầu pháp căn bản”.
Lại, với chữ Dục, phải giải nghĩa làm chữ Nguyện, là trong tâm nguyện muốn rửa trừ những hoặc cấu tình dục từ vô thỉ lại nay. Song, hoặc cấu tức là tên riêng của phiền não, nghĩa là nó làm lầm rối nơi tâm điều, sanh ra các điều nhiễm nhơ.
Bài kệ: hai câu trên là Bồ -tát đương nguyện. ý dục là muốn cho chúng sanh đương nguyện, dường như chiếc! Tục!(53) đồng thời.
Nếu Bồ -tát phát nguyện độ chúng sanh mà, chúng sanh chẳng phát nguyện xuất ly thì, Bồ-tát dù có nguyện cũng không biết làm sao đặng.
Nam mô Hoan Hỷ Trang Nghiêm Vương Phật.
: Nam mô, đây rằng quy y: là dấy cái tâm thành kính, mong Phật ra sức cứu hộ, tức mong Phật cứu hộ chúng sanh vậy.
Như kinh Niết -bàn nói: “Vua A--thế tuy có cái tội ngũ nghịch, lẽ phải vào địa ngục, do có cái tâm thành hướng về Phật, tội ấy liền diệt. Nên nói “Cứu hộ lực”.
Hoan Hỷ Trang Nghiêm Vương đó, nghĩa là đức Như Lai đây, trong nhân chỗ tu các hạnh, lấy tâm hoan hỷ giáo hóa chúng sanh, lìa các phiền não: tham, sân, si nên với trên quả vị cảm được cái hiệu tốt đấy.
Phật: là nghĩa giác ngộ, là nói cái thể giác đây, cả bốn Thánh sáu phàm đồng đủ có, đến loài bò bay, máy cựa cũng chẳng không. Trái giác hợp trần, gọi là điên đảo, nên cần niệm Phật, trái trần hợp giác, hiệu là minh ngộ, nên cần phải độ sanh. Cái mê cái ngộ đều không tự tánh, cái thể giác ngộ thường nhiệm mầu, không thiếu không dư, ấy gọi là Phật.
Nam mô Bảo Kế Như Lai.
: Bảo Kế, cũng tên là Bảo Thắng, nghĩa là đức Như Lai đây, vị trí không ai cùng đồng, vượt khỏi tất cả, là bực tối tôn, tối thắng, nên tỷ dụ như cái bửu kế (búi đùm tóc) thêm trên đảnh đầu.
Như Lai là một hiệu đứng đầu trong mười hiệu Phật. Lìa điên đảo gọi là Như, khỏi triền phược gọi là Lai. Chúng sanh là cái nhân ở tại triền, mà hàm nhiếp cái quả (Phật tánh) ra khỏi triền (54), nên gọi là Như Lai.
Kinh Kim Quang Minh nói: “Đức Phật đây, từ đời đã qua xưa, thuở tu Bồ -tát hạnh, làm lời thệ nguyện này: “Với mười phương thế giới, hễ chỗ có chúng sanh đến khi nó mạng chung mà được nghe đến danh hiệu ta thì, sau khi mạng chung được siêu sanh lên cõi trời 33”, nên có danh xưng đó.
Nam mô Vô Lượng Thắng Vương Phật.
: Vô Lượng Thắng Vương đó, là đức Như Lai đây, công đức trí huệ, dường như hư không, rất sâu rộng lớn vô lượng vô biên, chẳng thể cân tính, chẳng thể cùng tận, nên gọi là Vô Lượng Thắng Vương.
Riêng xưng danh hiệu ba đức Như Lai đây, là ba đức Như Lai đây, với trong nhân địa, về cái niệm hộ sanh riêng mạnh hơn hết. Mặc dầu thế, Phật nào cũng lấy từ tâm làm gốc, đều có bổn nguyện chẳng đồng nhau như đức Quán âm thì nghe tiếng cứu khổ, đức Địa Tạng thì độ tận chúng sanh; đức Di -đà thì tiếp dẫn vãng sanh…
Nay xưng ba đức Như Lai đây để mong cầu các Ngài tùy duyên phúc cảm, cứu hộ chúng sanh vậy.
Nên chỗ Tỳ -kheo ở, phải có cái suối hay cái ao và giếng, dùng tấm bảng bằng cây, viết danh hiệu ba đức Phật dựng để ngay giữa nước, cho tiện việc dùng.
án, phạ tất ba la ma ni tóa bà ha (hiệu Phật và chú đều niệm mỗi 3 biến).
Hoặc thấy sông lớn, nguyện cho chúng sanh, đặng dự dòng pháp (55), vào biển trí Phật.
: Ngó đã mút con mắt mà không thấy được cái bờ bên kia, nói rằng Đại, chảy thông mạch đất, nói rằng Hà. Bên nước Tây Vực có năm con sông: là sông Kình Già (56), sông Diễm Mẫu, sông Tát -la-dụ, sông A -bố-la-phạt-để và sông Mạt -hi.
Nước Trung Hoa xưa, ông Vũ mở thông chín con sông, đều chảy vào đại hải, nghĩa là: Đồ Hải Hà, Thái Sử Hà, Ma Hiệp Hà, Phúc Phủ Hà, Hồ Tô Hà, Giản Hà, Bàn Hứ, Khiết Hà và Cách Tân Hà.
Nay đọc bài kệ đây, chẳng những sông lớn mà, hễ thấy con sông nào chảy thấu vào biển, liền phải phát nguyện.
Đắc dự pháp lưu, nhập Phật trí hải đó, là nói: Người tu đạo là đương dứt từ phần vọng, chứng từ phần chân, có được tương ưng chút phần, ước theo vị phần là chính đương địa vị Sơ tín, nên nói “Đắc dự pháp lưu”.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Dục tập mới khô, chưa tiếp với dòng nước pháp của Như Lai, gọi là Càn Huệ địa (57)”.
Phật trí: với trí của Phật, chúng sanh chẳng thể lấy trí mà biết được, chẳng thể lấy cái thức mà phân biệt được, dẫu là ông Xá -lợi-phất bực nhứt trong hàng trí huệ mà ông hết ý tứ, cùng đo lường, cũng không lường được trí của Phật, nên nói là như biển.
Nay thấy sông lớn, đương nguyện cho tất cả chúng sanh, được dự vào pháp lưu tiến mãi chẳng lùi, mà đi ngay đến cái biển Diệu giác quả của Như Lai.
Bằng thấy đường cầu, nguyện cho chúng sanh, rộng độ tất cả, dường như rường cầu.
: Bắc bên đây tiếp liền qua bên kia, nói rằng Cầu; những kẻ vãng lai đều phải trải qua, nói rằng Đạo. Bèn là cây rường cầu bắc ngang qua giữa nước mương và sông. Với tre, gỗ, gạch, đá đều có thể làm vật liệu bắc cầu qua như hoặc thấy đến, liền phát nguyện độ sanh, để thỏa mãn cái bổn hoài lợi tế hữu tình của Bồ -tát. Tức là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.
Song cầu rường hữu hạn, mà thệ nguyện vô biên, nên nói “Rộng độ tất cả”, tiếp dẫn chúng sanh, không có mỏi chán, nên nói “du như kiều lương”.
Dục Phật (tắm rửa bụi trên tượng Phật)(58)
: Dùng hương thang (59) gội hình tượng Phật, nói rằng Dục.
Kinh Quán Phật Hình Tượng chép lời của Phật bảo với nhân dân thiên hạ rằng: “Chư Phật ở mười phương, đều dùng nửa đêm ngày 8 tháng tư đản sanh; từ hi sanh gia đình đi học đạo, và đắc đạo quả, nhẫn đến giờ Niết -bàn, đều dùng ngày 8 tháng tư. Sở dĩ thời ấy, là cái khoảng cuối xuân đầu hạ; những tiết gió bụi, bực bội đều hết, vạn vật phổ biến phát sanh. Cái độc khí chưa lưu hành, không quá lạnh, quá nực, thời khí hòa thích, nên thiên hạ nhân dân cùng nhớ công đức của Phật, tắm rửa hình tượng của Phật, tưởng chừng như Phật đương tại thế, để chỉ thị cho thiên hạ nhân dân.
Ngày nay các Ngài trong sơn môn, ai có hảo tâm niệm ân đức của Phật Thích -ca thì, dùng tịnh thủy có chất hương hoa, để tắm hình tượng của Ngài, đặng mà cầu phước đệ nhất, có chư thiên quỷ thần đều chứng biết cho.
Ngài Đại Từ thiền sư thuyết kệ tắm Phật rằng:
Xưa kia mùng tám tháng tư
Vua sanh Tất
-đạt cũng như ngày này
Chín rồng phun nước tắm ngay
Bảy bông bảy bước thay giày đỡ chân.
(Câm triêu chính thị tứ ngoạt bát
Tịnh Phạn vương cung sanh Tất
-đạt
Cửu long thổ thủy thiên sắc hôn
Thất bộ liên hoa tùng địa phát.
)
Về cái lễ nghi dục Phật, như Kinh kia đã nói. Bài kệ dục Phật dưới đây:
Ngã kim quán dục chư Như Lai (60)
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trước chúng sanh linh ly cấu
Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.
Con nay tắm gội các Như Lai. Trí sạch rực rỡ công đức nhóm. Năm trược chúng sanh khiến lìa nhơ. Đồng chứng tịnh pháp thân của Phật.
: Kinh Phổ Diệu nói: “Khi ngài Hộ Minh Bồ -tát giáng sanh, tự nhiên có chín Long vương hiện trên không, tưới mưa hột nhỏ nhỏ xuống, chẳng lạnh chẳng nóng, tắm thân của Bồ -tát.
Con nay đó, là chỉ vào giờ tắm Phật, nói “nay” là để xét xưa, là sở dĩ để tuân theo cái nghi thức tắm gội lễ quán đảnh (61) của Phật trước Phật sau. Nay dùng hương thang mà gội kim khu của Phật là biểu hiện cái thanh tịnh tâm cúng dường vậy. Pháp thân của Như Lai, chư Phật đều đồng nhau, rằng tắm tượng của Phật Thích -ca, tức là tắm cả hình tượng của mười phương chư Phật, nên nói “Ngã kim quán dục chư Như Lai”.
Đức Như Lai trọn đủ mười hiệu, phước huệ trang nghiêm, đều là công huân tu giới đức từ vô lượng kiếp đến nay, nên cảm được các nhóm thanh tịnh, trí huệ tập họp. Nay nhân thấy cái pháp tượng giáo đây mường tượng như Tam thế nhất thời sáng sạch đẹp tốt, cả Thánh thần thế gian không bằng được, nên nói “Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ”.
Pháp Uyễn Chu Lâm nói: “Năm trược: HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/8/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment