Sa Di Luật Giải
SA-DI LUẬT NGHI, Yếu Lược, Tăng Chú, QuyểN
Thượng.
Luật nghi của Sa
-di, lời yếu lược, lời tăng chú, cuốn
thượng.
Bồ-TáT GIớI, Đệ Tử, Vân Thê Tự, Sa-Môn Châu Hoằng Tập.
Thụ giới Bồ -tát, đệ tử, chùa Vân Thê, Sa-môn Châu Hoằng
chép.
Bồ-Đề Tâm, Tỳ-Kheo, Đảnh Hồ Sơn, Sa-Môn Hoằng Tán
Chú.
Thụ
giới Bồ -đề
tâm,
Tỳ-kheo,
núi Đảnh Hồ,
Sa-môn
Hoằng Tán chú giải.
Nay một sách “Yếu
lược” nầy đây, chính tổ Vân
Thê đại sư, Ngài do trong
kinh Sa Di Thập Giới và các kinh khác, mà rút ra để chép thành bộ
nầứy, nghĩa lý thiết
yếu, mà câu văn dón
gọn, để tiện cho lớp sơ cơ
Sa -di tập học, rõ như xem trái “am -ma-lặc” (àmra) để trong bàn tay.
Xét
ra, có ba phẩm Sa
-di:
1- Từ 7 tuổi đến 13 tuổi, tên là “Khu ô Sa -di”, nghĩa là tuổi người còn trẻ
con, chưa xiết tự làm việc
chi được, nên chỉ khiến thay
vì chúng tăng để giữ gìn lúa bắp, và các chỗ nhà ăn, nhà trù, nhà tọa thiền mà xua đuổi chim
quạ, đặng có chút công thay
nhọc, gồm sanh phước
lành, chẳng đến đỗi ngồi
không, ăn tiêu của tín
thí, bỏ trống qua tấc sáng
bóng của ngày giờ.
2- Từ 14 đến 19 tuổi, tên là “ứng pháp Sa -di”, nghĩa là tuổi người chính cùng tương ứng
với hai pháp nầy:
một, có thể phụng sự
thầy, và chịu nhọc làm việc
được; hai, cũng có thể tu học tham
thiền, tụng kinh
được.
3- Từ 20 đến 70 tuổi, tên là “Danh tự Sa -di”, nghĩa là người đã đủ hai
mươi, thì lẽ ra phải thụù
giới Cụ túc,
nhưng, hoặc vì căn tánh ám
độn, hoặc vì tuổi đã xế mới
xuất gia. Bởi hai cớ đó, mà
chẳng thể liền giữ đủ các giới. Thì ra, tuy tuổi tác đã lên cỡ Tỳ -kheo mà địa vị còn là lớp Sa
-di, nên gọi là Danh tự Sa -di.
Với phẩm số tuy
phân làm ba hạng, mà cả ba
đều bẩm thụ mười giới, gồm
chung làm một tên là “Pháp đồng Sa -di”.
Ngoài
ra, nếu người đã cạo bỏ râu
tóc, mà chẳng thụ được mười
giới, thì tên là “Hình đồng
Sa -di”, vì tuy đồng cái hình tướng cũng viên
đảnh phương bào (đầu
tròn, áo vai
vuông), mà chẳng có mười
giới để thâu nhiếp, tức phi
dự số năm chúng, nên nay đây
lại chừa Hình đồng Sa -di
ra, mà chỉ thâu lấy Pháp
đồng Sa -di vào năm
chúng.
Tiếng Phạm
Samanera (Sa-di), dịch tức từ, nghĩa là dứt dữ làm lành, tức là dứt điều nhiễm thói
đời, mà thương giúp chúng
sanh. Cũng gọi Cần sách,
cũng rằng Cầu tịch.
Phạm ngữ
ấy, nghĩa là tiếng của người
Thiên Trúc, không khác với
tiếng nói của trời Phạm, nên
gọi là Phạm ngữ. Chính bởi thế giới Ta -bà hồi mới thành, chưa có loài người ở, đất đai còn mới, có ánh sáng suốt lên, chúng trời Phạm Quang âm Thiên ở cõi
Sắc, tìm theo ánh
sáng, xuống coi trái đất
mới, rồi bị ăn lấy địa
vị, liền mất cái phép thần
túc thông và ánh quang minh của thân trời đi, nên không thể bay lên trở về trời
được, thành thử ở lại làm
gốc (tổ) đầu tiên của loài người, đời bấy giờ ở tại Thiên Trúc. Từ đó về
sau, người ta tùy hoàn cảnh
di chuyển đến mỗi địa phương khác tùy theo thủy thổ, nên tiếng nói đều khác, chỉ chính người sanh đẻ tại Thiên Trúc
là còn nguyên tiếng của Phạm thiên, nên chi tiếng nói là giọng Phạm
thiên, chép sách là chữ trời
Phạm, ngoài ra, các quốc độ dân tộc khác đều không có
thứ tiếng - chữ Phạm
ấy.
Thử vân
ấy, là dùng lời “tức từ” của
Đông Hoa ở phương đây để phiên dịch hiệu “Sa -di” của Thiên Trúc kia. Nghĩa trên đó rút
ra ở truyện Da -xá.
Rằng “dứt dữ làm
lành” đó, là để giải thích
rõ hai chữ “tức từ”, nhưng
còn e kẻ sơ học chưa biết dứt điều dữ chi, hành việc lành gì? Nên lại dùng câu “dứt sự nhiễm thói
đời, mà làm lành giúp chúng
sanh” để cho rõ thêm đó.
Số là, bởi chúng phàm phu từ vô thỉ lại
nay, bị cái hoặc vô
minh, che mờ chân tánh dấy
lên các điều vọng tưởng, vín
leo theo cảnh sáu trần, tình
thức đắm nhiễm vào năm dục lạc của thế gian, do thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tạo tác ra các điều quấy
lỗi, rồi đọa lạc xuống tam
đồ, luân hồi sáu
thú, không có ngày hẹn
ra!
Đức Như Lai thương
đến chúng ấy, nên chế tác ra
mười giới, khiến chúng thôi
dứt các điều quá ác của thân khẩu ý, để chứng được đạo thánh, nhập tịch diệt Niết -bàn.
Nhưng, với mười ác nơi thân, khẩu, ý của mình dù đã dứt thôi mà không phát
cái tâm từ mẫn, thì không
thể chân tu thực học pháp lục độ, để khắp giúp bốn loài, rồi phải đọa về bực Tiểu thừa thiên
lệch, thế thì chưa đặng gọi
là trọn lành; huống nữa đâu
có thể thành bực chánh giác,
tỏ tâm đại Bồ -đề. Thế
nên, khiến chúng thực hành
cái tâm từ tế, để tròn muôn
hạnh, tiến ngay đến bửu
sở, chẳng sa nơi hóa
thành.
Sách chỉ quán
nói: “Phải biết rằng kiếp
sanh tử của chúng sanh và quả Niết -bàn của Thanh văn, đều là ác cả; Bồ-tát hành lục độ, lòng từ bi gồm giúp, đấy mới gọi là trọn lành”.
Đó, với nghĩa của hai chữ
“tức từ” đây gọi thế chăng?
Cũng gọi “cần
sách”, cũng rằng “cầu tịch”
đó, tiếng Phạm là Nirvàna
(Niết-bàn), dịch Viên tịch, do vì trí đức đều đủ gọi là
Viên; kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, tập khí, phiền não chướng, sở tri chướng, đều sạch hết, gọi là Tịch. Nghĩa là Sa -di từ khi mới phát tâm xuất
gia, vâng chịu mười
giới, cần phải siêng tu gắng
sức, dứt hẳn các điều phiền
não là ba hoặc, và tập
khí, cả hai chướng đã kể
trên, để cầu chứng quả mầu
Niết -bàn, nên gọi là Cần sách, Cầu tịch.
Luật nghi là mười
giới luật và các thiên uy nghi vậy.
Bắt đầu từ thứ
nhứt là giới bất sát, đến
giới thứ mười là bất tróc trì kim ngân bửu vật, gọi là mười giới luật; sau đó kể sắp ra hai mươi bốn
sự, gọi là chư oai
nghi.
Chú Thích
Sa-di luật nghi: Sa-di là nhân, luật nghi là pháp, Sa-di là người năng học, luật nghi là pháp sở học. Dùng cả
nhân, pháp, năng, sở làm đề mục, nên rằng “Sa -di luật nghi”.
Yếu
lược: Yếu, dón mà phi rộng; lược, xổi lấy phần thô đại, bỏ bớt phần phiền tế. Đấy là tổ Vân
Thê, Ngài rút lấy lời kinh
luật trong Đại tạng ra, chép
thành bộ luật nầy, để cho kẻ
mới tập học, được dón gọn dễ
dàng, nên gọi rằng yếu
lược.
Tăng
chú: Đức Tại Tham Hoằng
Tán chú thích thêm nghĩa bổ vào, để cho chỗ thiếu khuất ý
nghĩa, được rõ ràng
thêm.
Sa-môn: Tiếng Phạm Srmana, dịch Cần tức, nghĩa là siêng tu giới định
huệ, dứt diệt tham sân
si.
Bồ-tát giới: Gọi đủ là Bồ -ñeà-tát-đỏa (Bodhisattoa), dịch Giác hữu tình. Lại, Bồ-đề là trí, nghĩa, với trên thì cầu chứng đạo
Phật, đó là phần tự
lợi; tát-đỏa là bi, nghĩa, với dưới thì hóa độ chúng
sanh, đó là lợi tha. Giới là
tam tụ tịnh giới, tức là “Ba
-la-ñeà-mộc-xoa”, dịch Bảo giải thoát, nghĩa là người mà hay giữ giới đây thì
được đức Như Lai bảo đảm cho đặng giải thoát phiền não sanh tử, chứng giác đạo Niết -bàn.
Đệ
tử: Học ở sau thầy là
đệ; rõ nhờ thầy sanh là tử.
Kinh Pháp Thân Tử nói “Từ miệng Phật sanh ra, từ nơi pháp hóa sanh”. Tổ Vân Thê học
pháp xuất thế, lấy giới làm
thầy, nguyện đồng Bồ
-tát bi trí viên
mãn.
Vân Thê
tự: Cũng gọi Ngũ Vân
Sơn. Nhân xưa có áng mây lành năm màu vần vũ trên đỉnh núi giây lâu mới
tan; bấy giờ người ta lấy
làm điềm lạ mà đặt tên đó,
chính là chỗ đạo tràng của Tổ trung hưng, xương minh Phật giáo. Tự: Nối dõi, nghĩa: Kẻ xuất gia làm đệ tử, ở trong đó, phụng sự giáo pháp Phật
tượng, ở nơi giới luật để
hòa hợp, đặng mà tiếp tục
nối dõi đạo Phật vậy.
Châu
Hoằng: Pháp danh của Tổ
là Châu[1] Hoằng, pháp tự là Phật Huệ, pháp hiệu là Liên Trì. Con nhà họ
Thẫm, năm lên 17 tuổi thi
đậu cử nhân, năm lên 23
tuổi, cha mẹ đều thất lộc.
Nhân đó, giác ngộ thế tướng
vô thường, nên xả tục xuất
gia, đầu cơ nơi ngài Vô Môn
Đổng - Tánh Thiên
- Lý Hòa thượng, thụ giới cụ túc nơi giới đàn Địa Dũng.
Sau khi phổ biến tham học,
trở về cố hương, nhân thấy
cảnh Vân Thê: sơn thủy u
tịch, bằng dựng am tranh ở
đó, dần dần thành đại tùng
lâm, đạo đức khắp
đồn, kẻ tri người
tố, đến học chật
chùa, được quốc mẫu cúng
dâng y bát. Tổ sanh ngày 22 tháng Giêng, năm ất Vị, niên hiệu Gia Tĩnh (1535, nhằm năm Gia Tĩnh 14, nhà Minh bên Tầứu), thị tịch ngày 4 tháng 7 năm ất Mão
(1615, nhằm năm Vạn Lịch 33, nhà Minh bên Tầu), tuổi đời 81, tuổi tăng lạp 50.
Bồ-đề tâm: Tức Bồ -đề tâm giới, mà là tên riêng của “Tam -muội-da giới”. Nghĩa là lấy cái tự tánh thanh
tịnh của “Bồ -đề tâm” để làm
giới tánh vậy. Thế mà người ta cắt nghĩa là phát tâm Bồ -đề là sái hẳn! Đây: Tam muội da giới, một tác pháp chỗ trao trước khi truyền
pháp quán đảnh, vì nó có
nghĩa chẳng trái vượt. Trong sách “Chư nghi qui quyết ảnh” nói: “Cách tu hành bên Mật giáo, trước thụ “Tam -muội-da giới”, nay tu pháp tứ độ gia hạnh
rồi, trong khi truyền pháp
quán đảnh, trước phải thụ
Tam -muội-da giới, nghĩa là Tam -muội-da giới là lấy ba món Bồ -đề tâm làm giới vậy.”
Đảnh Hồ
Sơn: Tại tỉnh Việt
(Quảng Đông) có núi Đảnh Hồ, ở dưới sông Đoan, cách phủ lỵ Triệu Khánh hơn bốn mươi
dặm. Cao hơn ngàn nhẫn[2], chính giữa có chùa xưa hiệu Bạch
Vân; hoặc gọi là chùa Đảnh
Hồ. Có hai ngọn Trung Phong Viên Tử đứng đối diện tả hữu. Các chót núi đồng
hội, ba chi riêng
ra, trông dường cái đảnh
đứng sững. Trong hang có cái đảnh hồ, đã có sách Sơn Chí riêng
biên...
Hoằng
Tán: Là trú trì thứ hai
chùa Đảnh Hồ, ngài Tại Tham
thiền sư, pháp danh là Hoằng
Tán, pháp hiệu là Tại
Tham, con nhà họ
Châu, ở đất Tân Hội. Cha tên
là Bích Cù, có tài
phẩm, thường dạo chơi nơi xứ
Dương Giang, cùng thân với
Lý tiến sĩ, nhân ở lại đó.
Tổ là bực dĩnh ngộ, xương
nơi hai bên gò má nổi cao,
cặp con ngươi như sao lóng lánh, có đường lằn như hoa cúc. Đến ngày 22
tháng 5 năm Bính Dần, bảo
thị giả trải tọa cụ mà ngồi. Đại chúng yêu cầu rằng: Xin Hòa thượng còn cửu trụ. Tổ bảo đem
giấy bút, Tổ viết
rằng: năm nay bảy mươi lăm
tuổi, sanh tử như giấc mộng
hôm qua, tại đây tức giải
thoát, hiểu lầm đọa đến vô
cùng! Viết rồi vẫn vui như
thường, mà thị tịch. Ngược
lại năm Tổ sanh, là năm Tân
Hợi, niên hiệu Vạn
Lịch, vua Thần Tôn nhà Minh
(1573-1619), tuổi đời được bảy mươi lăm, tuổi hạ được năm mươi ba, tháp toàn thân tại phía hữu Khánh Vân
thiền viện chùa Đảnh Hồ. Ngồi trú trì ba đạo tràng. Đệ tử đắc độ chẳng thể xiết
kể, đệ tử truyền pháp thì có
Huệ Cung Huýnh làm thượng thủ.
Chưởng
quả: Kinh Duy Ma phẩm Đệ
Tử nói: “Ta thấy cõi nước
của Phật Thích -ca Mâu
-ni, ba ngàn cả ngàn thế giới, như xem quả Am -ma-lặc để trong bàn tay”.
Sa-di: Cựu dịch là Sa -di; tân dịch thì khác, bộ Sức Tông Ký chép, Đường Tam Tạng nói “Thất -la-ma-noa-lạc-ca (Sràmaneraka), dịch “cần sách nam”, do vì đại tăng mà phải cần gia gắng
sức”. Truyện Ký Qui nói:
“Thất -la-mạt-ni-la”, dịch là cầu tịch, rằng: “Muốn cầu đến chỗ Niết -bàn viên tịch. Cựu dịch rằng “Sa
-di” đó, lời thiếu mà tiếng sai! Còn dịch nghĩa là Tức từ đó, thì ý sơ mà vô căn cứ!
Sa-di Ni: Sràmanerikà (tân dịch: Thất-la-ma-noa-lý-ca), dịch nghĩa là Cần sách nữ, tiếng “lý” là nữ tánh (trên kia tiếng “lạc” là nam
tánh) cựu dịch: Sa-di Ni là sai. Bên Nhật Bản, người có vợ con, hay chồng con, mà chỉ xuống tóc và râu để tu hành
đó, gọi là Sa -di...
Năm
dục: 1- Tài dục: Tham muốn tiền tài.
2- Sắc dục: Tham muốn sắc đẹp.
3- Danh dục: Tham muốn danh vọng.
4- Thực dục: Tham muốn thức ăn cho ngon.
5- Thùy dục: Tham muốn chỗ ngủ cho sang.
Sáu
trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là sáu cảnh trần, bởi đối tượng với căn là
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; rồi sáu thức rước sáu trần vào thân làm
ô nhiễm tịnh tâm, nên gọi là
trần. Nghĩa là sáu trần nó làm nhiễm ô thức tình, nên gọi chung là trần.
Vô
minh: Tiếng Phạm Avidya
(A-vỉ-nễ), nghĩa là cái tâm bị ám độn không cái huệ
sáng để soi rõ cả sự và lý của các pháp, tức là cái tên riêng của si
mê, nên gọi là vô
minh.
Niết-bàn: Dịch diệt độ, nghĩa là với cái đại hoạn, đã vĩnh viễn diệt rồi mà siêu độ qua bốn
lưu: 1- Tham dục lưu. 2- Chấp hữu lưu. 3- Kiến tư hoặc lưu. 4- Vô minh lưu.
Tiểu thừa
thiên lệch: Sau khi
thành đạo, Phật thuyết pháp
trong mười hai năm đầu, đối
với pháp nói trong thời gian đó, nhà Đại thừa cho là “thiên
tiểu”, nghĩa là cái lý sở
thuyết ấy, nó thiên lệch về
bên không, mà pháp môn
đó, nó nhỏ hẹp
lắm, vì chỉ tự độ lấy một
mình mình thôi.
Bảo
sở: Đức Như
Lai, ban sơ mở ra nói ba
thừa, để rõ nhứt thực đến
hội Pháp Hoa, bỏ tam thừa
quyền pháp, lập nhứt thừa
thực pháp, nghĩa là bực Nhị
thừa dứt rồi kiến hoặc, tư
hoặc, ra ngoài tam
giới, lại còn phải dứt trần
sa hoặc, vô minh
hoặc, để cầu chứng lên cực
quả vô thượng giác, thì “quả
Phật vô thượng” đó, gọi là
“bảo sở”. Sách Chỉ – Quán nói: “Với đạo phẩm như thế, đi ngay tới bảo sở”.
Hóa
thành: Hóa thành (Thí Dụ) là đức Như Lai dùng phương tiện giáo hóa
Nhị thừa, để họ dứt kiến
hoặc, tư hoặc, khiến cho tạm quyền chứng cái pháp chân
không Niết -bàn, chỗ Niết -bàn đó gọi là Hóa thành. Giới sớ nhứt chỉ
nói: ? với độn tánh, dẫn lấy cái quả báo thế
gian, tạm quyền chỉ ra cảnh
hóa thành với lợi tánh, chỉ
lấy cái huệ giúp nên, đến
ngay chốn bảo sở.
Thiện, bất thiện, sanh tử, Niết-bàn đều ác: Bực Nhị thừa đã lìa được các khổ của tam
giới, nên gọi là
thiện; song, chỉ mới tự độ, chứ chưa độ tha, nên cũng gọi là ác. Vì đắm nơi
không, ưa nơi
vắng, để tự vui lấy một mình
mình thôi, kêu bằng “Niết
-bàn tử”! Đại luận bảo: “Thà khởi cái tâm niệm làm con dã hán bị
bệnh lác, chứ chẳng sanh cái
ý muốn làm Thanh văn, Duyên
giác. Nên nói “Sanh tử của lục phàm, Niết-bàn tử của tứ quả đều ác”. Đại thừa Bồ
-tát lòng từ bi phổ
độ, rõ sanh tử tức Niết
-bàn, biết phiền não tức Bồ -ñeà, lấy việc lợi tha làm kỷ nhậm
(trách nhiệm
mình), đó mới tức là toàn
thiện.
Kiến hoặc, tư hoặc: Kiến hoặc là sự nhận thấy mê lầm.
Như đối với đạo lý, ý thức
sanh ra các điều vọng kiến,
phân biệt so đo tà vạy, rồi
khởi lên cái ngã kiến, biên
kiến, cả các điều vọng
hoặc. Tư hoặc là ý thức khởi lên các điều mê tình, như tham lam, sân khuể, si mê, để lo nghĩ những sự vật giữa thế
gian, mà sanh ra lắm điều
vọng. Do kiến hoặc là mê nơi vô thường, vô ngã các đạo lý chân đế, mà khởi lên thường kiến, ngã kiến các tà tưởng. Còn tư hoặc là mê
nơi: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp các sự vật giữa thế
gian, mà khởi lên tham
dục, sân khuể các vọng tình.
Đó, mê nơi lý, mê nơi sự mà phát ra kiến
hoặc, tư hoặc.
Trần sa hoặc: Là cái hoặc của các thánh bị ở ngoài tam
giới, đấy không phải là cái
hoặc của tự mình, mà chỉ
nhân cái hoặc của kẻ khác làm chướng ngại sự hóa đạo của mình đó thôi. Nghĩa là
đã đắc quả A -la-hán, tự thấy kiến tư hoặc của mình đã
dứt, tự tâm chân trí sáng
suốt, thấy được kiến tư hoặc
của người khác nhiều như vi trần, như hà sa, mà sanh tâm thối lui, bỏ cái ý hóa đạo, vào giữ lấy cảnh chân không Niết
-bàn.
Vô minh hoặc: Tự tâm không sáng hiểu, gọi là vô minh, lại tên căn bản vô minh. Cũng tên là ngã
si, vì ngu nơi cái tướng của
ngã, mà mê nơi cái lý vô
ngã, thể của vô minh hoặc
nầy cực kỳ vi tế,
Bồ-tát phá trần sa hoặc
rồi, tiến lên bực Đẳng
giác, khởi cái Kim cương
quán trí, để phá một phần
sau tướng vô minh (rốt
sau) sạch hết
rồi, mới chứng lên quả Vô
Thượng Diệu Giác.
THIÊN TRƯỚC MÔN GIỚI LUẬT
Nguyên tổ Vân Thê, Ngài chép bộ luật yếu lược
đây, lối hành văn chia ra
làm thượng thiên và hạ thiên. Nay ta bắt đầu giải thích vềừ thượng thiên là môn
giới luật.
Thiên tức là giản thiên (thẻ tre, cuốn sách), lại, thiên là khắp vậy, nghĩa là rõ lý bày sự, minh bạch mà phổ biến ra.
Giới là điều cấm giới, luật tức pháp luật. Giới đồng tên với
luật mà với nghĩa thì có khác chút đỉnh. Như ngừa quấy dứt dữ là
Giới, còn xử đoán tội khinh
tội trọng, điều mở
cho, điều ngăn
cấm, sự trì
giới, sự phạm
giới, thì gọi rằng
Luật.
Môn nghĩa là năng
thông qua, nghĩa là từ giới
bất sát đến cả mười giới pháp, đồng kể thông qua một môn giới luật. Với
môn nầy, cả thánh chúng giữa
tam thừa, đều bước vào đi
thông qua, để đạt đến thành
Niết -bàn. Thế biết rằng
mười giới đây, hẳn là thềm
thang của chúng ra khỏi thế gian, mà cũng là do nơi cửa giới luật đây để
tiến tới cảnh giới Niết -bàn.
Phật chế
luật: Kẻ xuất
gia, với năm hạ trước phải
chuyên cần học cho tinh thông giới luật, với năm hạ sau mới cho nghe giáo nghĩa
và học pháp tham thiền.
Đây, nói rõ thứ lớp của ba pháp học vô lậu là
Giới, Định và Huệ. Nếu học
mà vượt qua thứ lớp đó,
thì, Định và Huệ không do
đâu phát sinh ra được.
Phật là tiếng tôn
xưng của Đại giác đức Thích -ca Như Lai. Như Lai, Ngài giáng sanh tại Trung Thiên
Trúc, nước Ca -tỳ-la-vệ, trong cung vua Tịnh -phạn, sanh vào lúc rạng sáng ngày 8 tháng 4
năm Giáp Dần, nhằm năm 24
triều Chiêu Vương nhà Châu Trung Quốc; năm lên mười chín tuổi, vượt thành xuất gia, đến năm ba mươi tuổi thành
đạo; diệt độ vào ngày 15
tháng 2 năm Nhâm Thân, nhằm
năm 53 triều Mục Vương đời Châu.
Với thời gian bốn
mươi chín năm, Phật thuyết
pháp, để giáo hóa cả thánh
chúng ba thừa; Phật ngài chế
thư ra các giới luật, khiến
các thầy Tỳ -kheo với năm hạ
trước, phải nương nơi bổn sư
để học bộ luật, nhẫn đến một
đêm chẳng được rời thầy ở riêng. Đến chừng học đã thông suốt tạng luật
rồi, thì với năm hạ
sau, mới cho tập học giáo
nghĩa và tham thiền, tụng
kinh.
Trên đó là nói về
lớp “Tân học Tỳ -kheo”, còn nếu là “lớp Sa -di” thì còn phải trọn đời y chỉ nơi bổn
sư, phi luận số năm hạ trước
hay năm hạ sau, ghi rõ như
trong bộ Đại Luật đã dạy. Dù rằng là việc (năm hạ trước chuyên học luật) của Tỳ -kheo, nhưng Sa -di chẳng thể chẳng biết đến.
Rằng “chế”
ấy, ý nói đức Như Lai là
ngôi Pháp Vương, đã tự tại
giải thoát giữa vạn pháp,
biết cùng tận cả nghiệp tánh của chúng sanh, nên chế sách ra các giới
luật, khiến các đệ
tử, phải tuân y phụng hành
theo thì mới có thể giải thoát được sanh tử của lục phàm. Vậy, phi các thánh Thanh văn, Bồ-tát kia, xiết làm được việc chế luật nầy
đâu!
Tỷ như lễ nhạc của
thế pháp (đời quân
chủ), phi thiên
tử, thì không chế sắc
được; với Hồng qui của pháp
xuất thế, phi Phật thì chẳng
lập đặng! Thế biết rằng
Luật, chính đức Như Lai đích
chế, từ các thánh Thanh
văn, Bồ-tát thì chỉ noi theo thuật lại mà
thôi, chứ chẳng chế tác
được, thành thử từ Văn
-Thù nhẫn xuống, chẳng cho bớt hay để một
lời, ưu-ba-ly kết tập tạng luật chẳng dám dài rộng
thêm một chữ. Từ giữa cõi người đến trên cõi trời, các Thánh nhiều đến vô số vô
biên, chỉ đồng một
luật, chung cùng vâng giữ.
Thế nên chúng ta phải đặc biệt tôn trọng!
Rằng xuất gia
đó, có hai hạng
1- Cắt tình ái, từ nghĩa thân, bỏ nhà tục, vào nhà đạo, cạo râu tóc, nhuộm áo nạp, gọi là ra khỏi nơi nhà thế tục
(sự xuất gia).
2- Dứt bỏ điều vọng hoặc (kiến hoặc, tư hoặc), chứng quả vô sanh, gọi là ra khỏi nhà tam giới
(lý xuất gia), mới thực là xuất gia. Nên kinh Tịnh Danh
nói “Xét, kẻ xuất
gia, là vì pháp vô vi” thực
thế.
Rằng “hạ”
ấy, nghĩa là người xuất gia
đã vượt khỏi tục lệ rồi chẳng còn dùng theo năm của đời để làm tuổi
nữa; nên với ba tháng mùa hạ
siêng năng, gia công gắng
tiến, hoặc thêm pháp tam
học, hoặc chứng quả tứ
thánh, do nơi công học tu
đó, mà tưởng thưởng thêm đức
hạnh, nên chịu cái danh tuổi
hạ, tức là lấy ngày rằm
tháng bảy làm ngày lạp trừ,
tức cũng như ngày trừ tịch là ngày ba mươi tháng chạp của thế gian
vậy.
Rằng “chuyên tinh”
đó, chuyên nghĩa là trọn một
việc học luật, chứ không xen
các thứ học khác, tinh là
xem câu văn hiểu rõ nghĩa mới hết lẽ tối nhiệm. Nên khiến đối trong năm hạ
(sau khi mới thụ giới Cụ
túc) cần phải nghiên cứu
luật Tỳ -ni (bộ Đại Luật), hầu khéo thạo cả sự khai, sự giá, điều trì, điều phạm, và danh, chủng, tánh tướng của các giới.
Đại luật nói “Dẫu
đã đắc tam minh, lục
thông, mà năm hạ chưa đầy
đủ, còn phải y chỉ sát bên
bổn sư; còn như năm hạ dù đã
đủ mà chẳng biết các trường hợp khai, giá, tánh, chế thì cũng còn phải trọn đời nương ở
bên Bổn sư.”
Bởi
thế, ngài Đạo Tuyên luật
sư, với mười pháp
tịch, đều thân đến nghe học
mãi luật Tỳ -ni, ông Huệ Hưu pháp sư trọn đời chỉ học bộ
luật. Thế, chúng ta là người
hạng nào, mà liền toan thôi
học luật và xa Bổn sư?
Chừng nào đã thông
tột tạng luật, năm hạ giáp
đủ, mới cho nghe học giáo
nghĩa và tập pháp tham thiền.
Thính: theo thầy chịu cái sự nghiệp học tu.
Giáo: là đối với pháp của
Như Lai thuyết ra bốn mươi chín năm đó, phân làm mười hai phần (mười hai bộ kinh). Số là chúng sanh bị bịnh đã chẳng một
chứng, mà pháp dược bố thí
có nhiều phương. Nên với cả giáo pháp từ bộ, từ loại, mở ra làm mười hai phần.
1- Phần khế kinh: Tức là những văn trường hàng trong các
kinh chỉ nói ngay một bài dài, thế nên nói là trường hàng.
2- Phần trùng tụng: Phàm trong các kinh, những bài mà trùng tuyên lại nghĩa của
văn trường hàng đó, thì gọi
là trùng tụng.
3- Phần thụ ký: Vì các chúng đệ tử, mà đức Như Lai trao lời ghi cho qua đời
sau được thành Phật.
4- Phần Già -ñaø: Tức là những bài kệ tụng trong các
kinh.
5- Phần vô vấn tự thuyết: Không người thưa hỏi chi
hết, mà được Phật ngài xem
xét theo căn cơ của chúng sanh, rồi tự Ngài nói pháp ra.
6- Phần nhân duyên: Tức trong các kinh, luật, chỗ mà Phật ngài nhân nơi cái duyên do
của người khởi sự, mà Ngài
vì thuyết pháp ra.
7- Phần bổn sanh: Phật ngài nói về chỗ gốc tích xưa của
các vị Bồ -tát đã tu
hành, từng làm những sự
chi.
8- Phần bổn sự: Phật nói về sự tích đời trước của các
hàng Thanh văn đệ tử, đã tu
hành như thế nào.
9- Phần phương đẳng, cũng gọi là phương quảng: Các kinh điển của Đại thừa, nghĩa lý rộng lớn, cái lượng đồng với cõi hư
không.
10- Phần hi hữu: Trong các kinh, những chỗ mà Phật nói về pháp rất ít có
công đức. Nghĩa là: Với công
đức ấy, ít người có
được.
11- Phần thí dụ: Phật vì thuyết pháp cho chúng sanh căn
tánh chậm lụt, phải mượn lời
nói thí dụ, để chỉ rõ
ra.
12- Phần luận nghĩa: Đối với các lời hỏi, Phật ngài đáp lại, giảng rộng nghĩa ra, thực thế.
Rằng “Thiền” ấy
Pháp môn nầy có nhiều đến vô lượng, dón lại mà nói, thì, duy chỉ hai môn nầy: 1- Tu quán, 2- Trực chỉ. Nay đây nói chữ “Tham”
đó, tức là môn “Trực chỉ
thiền”, nghĩa là chỉ ngay
cái tâm của người, để người
được thấy tánh thành Phật vậy.
Luật Tư Trì dẫn
lời luật Thập Tụng nói “Phật chế luật dạy rằng: Các Tỳ -kheo! Năm hạ trước, chuyên môn học bộ luật cho tinh
thông, như đã định được việc
trì giới, việc phạm
giới, biện biệt được việc Tỳ
-kheo, nhiên hậu mới cho học đến tạng
kinh, tạng luận”.
Đời
nay, người mới thụ giới cụ
túc, đã vượt bỏ lớp học
luật, thế, việc học hành đã mất thứ tự, thì không do đâu chứng ngộ vào đạo
quả, đức Đại thánh quở
trách, người mà như thế phi
học trò của Phật rồi!
Thời đại ngày
nay, người vừa mới thụ giới
(Sa-di, Tỳ-kheo chẳng hạn) liền bèn nghe giáo nghĩa (kinh luận) học tham thiền, thế, làm nhà tăng mà với tế hạnh, uy nghi, không hiểu được một điều nào!
Huống
lại, có người khinh lướt
giới kiểm, chê bai tạng Tỳ
-ni, biếm nhẻ cho người học luật là Tiểu
thừa, khi dể kẻ trì giới là
chấp tướng. Chưa tột ý Phật,
hiểu lầm chơn thừa.
Vả lại với giới ắt
có thể khinh được, ngươi sao
lên giới đàn mà thụ? Với
luật ắt có thể hủy được,
ngươi sao xuống tóc nhuộm áo pháp? Thế thì, khinh giới đó, toàn là tự khinh, hủy luật đó, lại là tự hủy. Vọng tình dễ
quen, chí đạo khó
thông, nên chi, với hạng, “khỏi tục vượt bầy”, vạn người xuất gia, không được một! Thôi, xin rõ lời Phật dạy, thì ai lại không thể không theo
ư?
Thế
nên, người mới xuống tóc làm
Sa -di, trước phải thụ lãnh mười
giới, sau thì lên giới đàn
thụ giới Cụ -túc. Mà nay
được cái danh là Sa -di, là do cái gốc thụ mười giới. Đứa ngu lù
mù chẳng biết, kẻ cuồng
khinh dể chẳng học, liền
toan vượt bực, mơ tính cao
xa, cũng khá thương
vậy!
“Thế nên”
ấy, là vâng văn
trên, dấy văn dưới. Nghĩa là
ba pháp học vô lậu (giới, định, huệ), lấy luật nghi làm đầu, xuất gia năm chúng, dùng mười giới làm trước. Nên với người
mới xuống râu tóc, liền
khiến phải vâng chịu mười giới để tu, do phạm hạnh (tịnh hạnh) không kém, sau mới cho lên đàn truyền giới để thụ
cụ túc.
“Đàn” tức trường
truyền giới. Với trường ấy,
chúng tăng đều chung vâng pháp “bạch tứ yết ma” mà thành được giới
thể; nếu phi có trường
ấy, thì không do đâu để đắc
giới.
“Cụ” là giới Cụ
túc, nghĩa là thụ lãnh giới
Tỳ -kheo, kể có 250 điều cấm, tức là liền đủ cái nhân tốt quả Niết
-bàn. cũng gọi là Cận
viên, viên tức là viên
tịch, nghĩa là Đại giới
đây, cùng với quả Niết
-bàn cách nhau chẳng bao xa
nữa.
“Nay đắc cái danh
là Sa-di, là do cái gốc chỗ thụ mười giới
đó”, ấy là trương nơi
“bổn”, mà đặng nơi
“danh”, do bổn thụ mười
giới, mà nay được cái danh
Sa -di. Danh đã do
bổn, thì nên phải tập học
giữ gìn. Nếu mà chẳng học chẳng giữ, là do có hai hạng người, 1- ngu, 2- cuồng. Bởi ngu không có con mắt
huệ, nên chẳng soi xét điều
thị điều phi, thành thử đối
với các giới tướng, lù mù
chẳng biết; cuồng vọng tà
kiến, chẳng noi theo ngôi
thứ, nên với lời thánh chế
của Như Lai, khinh dễ mà
chẳng học.
“Liền toan vượt
bực” đự, vượt, nhảy vọt qua vậy. Bực là cấp bực. Thiên
Học Ký nói “Đứa trẻ nghe mà chẳng hỏi, học chẳng vượt bực”. Vì là trẻ
con, đã biết gì đâu mà hỏi
mà bực! Chứ đã xuất gia nếu
chẳng tuân theo ngôi thứ,
liền muốn nhảy vọt để tiến tới, chính chỗ người ta bảo rằng: Sớm mai mới được cái đầu
tròn, đến chiều vượt lên bực
đại tăng, thực
thế!
Đấy, bởi kiến thức điên cuồng, chẳng biết thứ tự của giới phẩm pháp
tướng, nên mới quấy toan
nhảy vọt, muốn bằng bực với
tiên triết.
Như kinh Bách Dụ
nói “Xưa có một người ngu,
thấy ngôi nhà của phú hộ kia, ba tầng lầu gác, cao rộng rực rỡ; y liền về nhà, kêu thợ mộc đến, bảo tạo một nóc lầu tầng thứ ba như tầng
rốt trên của phú hộ kia. Thợ hỏi:
- Làm gì có cái lẽ
chẳng tạo tầng rốt dưới, mà
có thể tạo được tầng thứ hai? Chẳng tạo tầng thứ hai, mà có thể tạo được tầng thứ
ba?
Người ngu vẫn
nói:
- Ta không cần
dùng hai tầng dưới, vậy thợ
ắt vì ta chỉ tạo tác một nóc lầu tầng rốt trên đó thôi.
Nhân sĩ đương thời
nghe biết như thế, bèn sanh
lòng chê quái gỡ.
Ví như bốn chúng
đệ tử của Phật, chẳng siêng
tu kính Tam Tôn, biếng nhác
trễ nãi, mà lại muốn cầu
chứng đạo quả, vả chẳng muốn
ba quả dưới, mà lại chỉ muốn
cho được “Vô sanh quả” thứ tư, thế cũng bị thời nhân xì
cười, như người ngu kia đồng
một thứ không khác.
Người học
Phật, nếu chẳng y theo thứ
lớp ba thừa, mà trước học
Đại thừa đó, cũng lại như
người ngu kia!
Kinh Phật Tạng nói
“Người mà chẳng học Tiểu thừa trước, mà học Đại thừa trước, thì phi đệ tử của Phật.”
Nay
đây, chẳng học luật Sa
-di, mà muốn đặng giới Cụ -túc, chẳng giữ giới thanh tịnh, mà muốn đắc đốn ngộ, thì cũng có khác gì với người ngu kia
ư!?
“Mơ tính cao
xa, cũng khá thương”
đó, mơ tính là bộ dạng không
biết, nghĩa là mờ tối không
biết rằng mơ tính, quấy bằng
bực tiên triết rằng cao xa. Xét, cao là chỉ về giới Tỳ -kheo, xa là chỉ về giới Bồ -tát, thương là lời xót than. Lại, cao xa cũng là chỗ sở chứng của Phật Tổ.
Bởi điên cuồng chê
học, nên mất sáng
suốt; do mất sáng
suốt, nên không chỗ
biết; do không chỗ
biết, nên chẳng biết
giáo, lý, hạnh, quả là lớp lang của tam học
(giới định huệ). Quấy vọt lên cao xa để sánh đồng với
Phật Tổ, thực khá cảm
thương! Nên nói “diệc khả
khái hỷ”.
Nhân dùng mười
giới, dón giải vài
lời.
Dón mà phi
rộng, nên nói là vài
lời.
Khiến kẻ mông học
biết chỗ hướng phương.
Người mới vào
đạo, nên rằng mông học
(lớp học đồng
mông). Do vì thương chúng
cuồng ngu, chưa hiểu giới
pháp, nên đối với trong kinh
Sa Di Luật Nghi, ngài Vân
Thê sao lục lấy mười giới,
vì sơ lược giải thích, răn
bảo kẻ chưa nghe kia, lìa
khỏi cái khổ không biết;
khiến người mới vào nhà đạo,
có chỗ để tâm, nên nói là
hướng phương.
Đại Luận nói “Cả
ba đường ác, chúng sanh ở
địa ngục, thân bị đốt
cháy; chúng sanh ở bàng
sanh, như lạc
đà, lừa, ngựa, thì bị chở nặng; chúng sanh ở ngạ quỉ, thì bị đói khát, đều chưa đáng gọi là khổ, chỉ có người mà ngây tối không nghe hiểu
gì cả, chẳng biết phương
hướng mới đáng gọi là khổ hơn hết!” Thực thế.
Người mà hảo tâm
xuất gia, lòng rất vâng
làm, dè dặt chớ trái
phạm.
Chẳng bị uy lực
của nhà vua ép bức, chẳng vì
lòng tà tham cầu để sống thân mạng, chẳng vì lánh tai nạn, chẳng vì trốn nợ nần, nghĩa là không vì các điều trên mà đi
tu; mà chính vốn vì hi cầu
chánh pháp, đem lòng thành
tín, tiến vào pháp
môn, nên nói là “hảo tâm
xuất gia”.
Nếu đã vì thoát ly
đường sanh tử, chịu giữ điều
cấm giới, nên mới có thể hết
lòng vâng giữ phụng hành. Vì “giới” là tỷ như cái đãy nổi vượt qua bể
khổ; cũng là cái chuỗi ngọc
anh lạc để trang nghiêm pháp thân; nên cần phải gìn dè, chớ cho có chỗ kém phạm một hào một li
nào.
Nhiên
hậu, với gần thì mười giới
đây làm thềm thang cho giới Tỳ -kheo, với xa nó cũng làm căn bản cho giới Bồ
-tát.
Nhiên hậu là do
đoạn trên xuống đoạn dưới,
nghĩa là mười giới, nó là
thềm thang lên giới Tỳ -kheo, và làm gốc rễ cho giới Bồ -tát. Dường nhà ba lớp từng, nên rằng “thềm thang”, như đầu cây bối -đa-la (cây thốt lốt) nên nói “gốc cội”. Giới Sa -di gần lớp giới Tỳ -kheo, gọi đó là “gần”, còn cách giới Bồ -tát, gọi đó là “xa”. Nếu cấp nhứt bị hư
rồi, thì bước kế đó khó làm.
Cũng như cội gốc một phen kém rồi, thì nhánh lá bông trái, thảy đều rụng đổ!
Nên kinh nói “Nếu
phá một giới trọng nào giữa năm giới, trở lại chịu năm giới khác, nhẫn đến thụ giới Bồ -tát, không có luật nào cho thế; hoặc phạm một giới trọng nào trong mười
giới, trở lại thụ mười giới
khác nữa, nhẫn đến thụ Tỳ
-kheo giới, Bồ-tát giới, cũng không chỗ nào có lẽ đó.
Tâm nhân giữ giới
sanh định, nhân định phát
huệ, ngõ hầu trọn nên thánh
đạo, mới chẳng uổng chí xuất
gia.
Ngõ hầu lời rằng
gần được. Do vì giữ được thanh tịnh, mà cái định tánh nó hiện tiền thì có cái
huệ vô lậu phát minh ra, lấy
cái huệ đó để xét tìm, dứt
các điều hoặc chướng (3
chướng 4 hoặc) đem cái bổn
tánh tịnh minh trở lại, nên
nói là “trọn nên thánh đạo”. Đấy là ba học giới, định, huệ giúp nhau, như cái đảnh có ba chân, nên có thể trọn nên thánh
đạo.
Thánh đạo tức là
quả thánh của tam thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Người xuất gia vốn cầu lên quả
thánh, mà nhờ ba học được
phần tăng thượng, thì cách
với thánh đạo chẳng xa, nên
với cái chí xuất gia chẳng uổng vậy.
Đàm Nhất luật sư
nói “Với cả Phật pháp ba đời, chỉ “giới” làm căn bổn, mà với căn bổn đó không lo
tu, thì xa cách với thánh
đạo lắm ru!
Nếu ưa rộng
xem, thì phải tự xét trọn bộ
sách trong tạng luật.
ưa: muốn; xem: coi; xét là kiểm duyệt, xem cho khắp vậy.
“Trọn bộ sách
trong tạng luật” tức là “Sa-di thập giới pháp” cùng là “Uy nghi”… Còn
nay đây là bộ “Yếu lược”, vì
để tiện cho kẻ sơ tấn tập học, hầu biết cái thô tướng của trì
giới, phạm giới mà
thôi; còn ai muốn biết hết
giới vi tế để hành trì, thì
tự mình phải rộng xét trọn bộ Đại Luật.
Mười giới sau
đây, rút ra ở kinh Sa
-di Thập Giới, Phật bảo Xá -lợi-phất vì nói truyền cho La -hầu-la-đa.
Mười giới sau
ấy, là bắt đầu từ giới “Bất
sát sanh”, đến giới thứ mười
là “Bất tróc trì sanh tượng”, thực thế.
Rằng “Rút ra ở
kinh Sa -di Thập Giới”
đó, là rõ phi đức Vân Thê
Ngài đem lời trong hung ức mà nói ra, và cũng phi rút nơi các kinh
khác.
Phật tức là đức
Thích -ca Như Lai. Chữ “sắc”
bảo, như chế thư mạng lịnh
của thiên tử. Phật ngài làm vị Pháp vương, nên chế ra giới luật, khiến ông Xá -lợi-phất vì nói mười giới đây để truyền trao
cho ông La -hầu-la-đa.
Tiếng Phạm là
Sariputra (Xá-lợi), dịch: thân, cũng dịch rằng thu. Chữ “phất” nghĩa như
chữ “tử” là con, thân phụ
tên là Đề -xá, làm chủ Luận sư, dòng Bà -la-môn, nước Thiên Trúc. Thân mẫu tên Xá
-lợi, có cái thân hình tốt đẹp, mắt bà sáng như mắt chim thu
(loại thủy điểu, giống con hạc), theo tên mẹ mà chịu xưng hô, nên tên là Xá -lợi Tử, nghĩa là con bà Xá -lợi. Theo Phật xuất gia, chứng quả vô sanh, giữa chúng đệ tử Phật, ông được số đặc biệt là “trí huệ đệ
nhứt”.
La-hầu-la, dịch phúc chướng (úp che), cũng rằng “chấp nhựt” (che mặt nhựt), con của Phật hồi còn làm thái
tử; khi sanh ông gặp lúc
thần A -tu-la lấy tay che mặt nhựt, nhân đó đặt tên là Chấp Nhựt. Thuở Phật
còn làm thái tử, thưa vua
cha đi xuất gia. Phụ vương không bằng lòng mà hứa rằng “Chớ dứt con nối của nước
ta, nếu chừng nào thái tử có
con, cha mới cho thái tử
xuất gia”.
Thái tử liền lấy
tay chỉ vào bụng của Da -thu-ñaø-la phu nhân mà giới thiệu, thì vua mới biết dâu đã có thai. ở trong
thai sáu năm mới sanh, nhân
đó cũng tên là Phúc Chướng.
Tuổi đã khôn
lớn, Phật bèn độ cho xuất
gia, sắc mạng cho ông Xá
-lợi-phất vì nói mười giới, mà Phật chẳng vì làm Hòa
thượng, hay A-xà-lê đó, là do giữa Tam Bảo có riêng ngôi. Nghĩa
là đức Như Lai là ngôi Phật bảo, nên chẳng cùng người vì làm Hòa
thượng; Hòa thượng là ngôi
Tăng bảo; mười giới pháp là
ngôi Pháp bảo. Nên Phật sắc mạng cho Xá -lợi-phất vì làm Hòa thượng, là để cho ngôi Tam Bảo không lộn xộn với
nhau. Người xuất gia giữa chúng Sa -di, thì La-hầu-la là trước nhứt.
Kinh Vị Tằng Hữu
nói “La -hầu-la (Rahula) năm lên chín tuổi, xuất gia làm Sa -di, Xá-lợi-phất làm Hòa thượng, Đại-mục-kiền-liên làm A -xà-lê, để cùng trao mười giới.
Sau khi
La-hầu-la xuất gia, chưa đầy ba năm, bà Da -thu-ñaø-la cũng xả tục đi xuất gia.
Chú
Thích
Giản
thiên: Giản: điệp, thẻ bằng tre, xưa chưa có giấy, chép chữ vào thẻ tre, gọi là giản trác. Thiên: phàm văn tự đầu đuôi đủ ý
nghĩa, gọi là một
thiên, như sách Luận Ngữ 20
thiên; một
thiên, như ngày nay gọi một
quyển. Kinh Thi 300 thiên;
một thiên, như nay gọi là
một bài vậy.
Khai: mở ra, cho làm; giá: ngăn lại, chẳng cho đi tới; trì: giữ làm mãi; phạm: phạm đến phép cấm; danh: tức danh tự, là tên của mỗi giới phẩm; chủng: tức là chủng loại, như 5 thiên 7 tụ
tánh: tức là
gốc của giới tánh;
tướng: tức là
hành tướng của giới thể. Đủ có các điều chế theo mỗi trường hợp
trên, rõ như Đại luật.
Giai: thềm, từng bực lên nền nhà; thê: thang, như tầng nấc thang lên lầu, nấc thang lên cây.
Ngũ
hạ: Trong luật Phật dạy
các vị Tỳ -kheo, từ 15 tháng tư, đến hợp một chỗ, kết hạ an cư, đến rằm tháng 7 giải chế ra
hạ, gọi làm hạ
lạp, tức là chịu một tuổi
hạ. Đó là tuổi giới lạp của Tỳ -kheo, còn Sa -di thì chỉ tòng sự đại tăng mà
thôi, chứ chưa được xưng hạ
lạp.
Tam
minh: ở nơi
Phật, gọi là tam
đạt, ở nơi A -la-hán, gọi là tam minh, có cái trí biết các pháp rõ
ràng, nên gọi là minh.
1- Túc mạng
minh: biết cái tướng sanh tử
từ đời trước của thân mình và thân người. 2- Thiên nhãn minh: biết cái tướng sanh tử về đời sau của tự
thân, tha thân.
3- Lậu tận minh: có trí biết khổ tướng đời hiện tại mà
dứt tất cả phiền não.
Hỏi: Giữa sáu thông, ba cái kia sao chẳng gọi là
minh?
Đáp: Thân như ý (thân cảnh thông) chỉ hay về công xảo; thiên nhĩ thông, chỉ hay về nghe tiếng; tha tâm thông, chỉ biết về cái tâm niệm của người
khác; nên ba pháp trên
đây, chẳng ghi là minh. Còn
ba pháp kia sở dĩ ghi là minh đó, là thiên nhãn minh, thì biết cái khổ vị lai; túc mạng minh thì biết cái khổ quá
khứ; đều hay nhàm lìa sanh
tử. Lại, lậu tận minh hay
làm chánh quán mà dứt phiền não.
Khai giá tánh
chế: khai giá đã giải ở
trên. Tánh tức là tánh tội, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn điều đây tự tánh người tạo ra
tội, nên gọi là tánh
tội; còn các giới
sáu, bảy về sau là những
điều bên ngoài làm ra tội nên Phật chế cấm, không cho người tham nhiễm
đến, nên gọi là chế
tội.
Năm
chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Thức-xoa-ma-na ni, Sa-di, Sa-di Ni là xuất gia ngũ chúng
vậy.
Bĩnh pháp Yết
-ma: Dịch tác pháp biện sự, làm phép phân việc. Nghĩa là cả các pháp
sự, đều do Yết -ma đây mà biện thành. Yết -ma có bốn pháp: 1- Pháp: chính cái tác pháp cử hành.
2- Sự: hoặc sự phạm tội, hoặc sự sám hối, các việc chia ra làm của Yết
-ma. 3- Nhân: đến làm pháp Yết -ma mà định số người. 4- Giới: là kiết giới làm Yết -ma.
Tứ bối đệ
tử: tức tứ chúng Tỳ -kheo, Tỳ-kheo Ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
Xuy
tiếu: xì
cười, là cười bằng cách xì
hơi nơi lỗ mũi, chưa phì
cười ra tiếng nơi miệng.
Giáo, hạnh, lý, quả: Giáo: 12 phần giáo cả Đại, Tiểu thừa; hạnh: lục độ, vạn hạnh, mỗi mỗi diệu nhân; lý: tâm đủ vạn pháp, tự tánh tròn sáng; quả: tròn chứng quả vị.
Ñaø-lư: còn gọi thác -ñaø, con lừa. Thác -đà trạng giống ngựa, đầu giống dê, cổ dài, tai xủ xuống, lưng có nhục yên nổi cao, chở nặng mới chịu đi, một ngày đi ba trăm dặm, chở nặng ngàn cân. Lừa hình giống
ngựa, cổ dài, trán rộng, đuôi dài, cũng chịu chở nặng.
Phù-nang: đãy nổi, hoặc dùng da bơm hơi cho
đầy, hoặc dùng bằng cái
bầu, ống tre... là đồ để
nương nổi lội qua sông biển.
Hào
ly: 10 ty là 1
hào; 10 hào là 1
ly; 10 ly là 1
hộc.
Bối-đa-la (Sala): cây thốt lốt, tương tự cây kè; cây thốt lốt nếu bị chặt
đứt, không còn nảy chồi sống
nữa, cũng như cây
cau, đứt ngọn thì chết.
Trong luật Phật tỷ dụ: nếu
phạm đến một giới nào của bốn giới ba -la-di, thì giới thân chết rồi không sống được
nữa, tỷ như cây đa
-la bị chặt
đứt...
Da-thu-ñaø-la (Yacôdhara): Kinh Tỳ -ni Mẫu chép: Da-thu-ñaø-la, dịch Liên Hoa Sắc, vợ của thái tử Sĩ -đạt-ta. Kiếp trước bà làm vị thần ở núi Tu
-di, tên là Thiện Nhạo Hoa, có chí nguyện thâm trọng yêu Phật và
nguyện đời đời hễ Phật giáng sanh, khi còn làm thái tử thì bà làm
vợ, khi xuất gia thành
Phật, thì bà cũng xuất gia
làm Tỳ -kheo
Ni...
A-xà-lê (Acarya): Cựu dịch A -xà-lê, tân dịch A -cha-lợi-dạ. Dịch nghĩa là Quỹ phạm chính
hạnh, tức là kiểm chính lại
hành vi của các đệ tử. Lại dịch là Quỹ phạm sư, là hay làm cách thức để dạy các đệ
tử.
[1] Nguyên pháp danh của Tổ là “Thù Hoằng” tức chữ
Thù là chữ thứ mười hai trong bài kệ của dòng Qui Ngưỡng, xin lục ra dưới đây:
“Sùng phước phát đức huệ
Văn Thù quảng đại trí
Phổ Hiền hạnh nguyện thâm
Thành đẳng chánh giác quả”.
Văn Thù quảng đại trí
Phổ Hiền hạnh nguyện thâm
Thành đẳng chánh giác quả”.
Nay dưới hội Vân Thê đều dùng
bài kệ trên để cho pháp danh tiếp dõi một hệ thống, kêu là “Thượng hữu sư
chứng, hạ hữu sư
truyền”, chứ chẳng phải như
ai kia bỏ mất dòng dõi của Thầy Tổ!
Nguyên Tổ nghĩ: Vua nhà Minh là họ Châu (châu: đỏ), bên chữ châu chớ nên thêm chữ
ác (bộ ác), hiệp với chữ châu đỏ, thành chữ thù, nên đổi bộ ác thay bộ y (áo) vào thành chữ châu (châu: áo đỏ), nên gọi là Châu Hoằng.
Đó là
Tổ, Ngài thận trọng đối với
vua đương thời nhà Minh,
thì có thể gọi Châu Hoằng được; chứ ngày nay đời Minh đã qua
rồi, huống nữa ta là người
Việt Nam thì cứ do theo pháp phái, mà viết và đọc là Thù Hoằng cho
đúng, chớ còn quý kính vua
nhà Minh bên Tầu chi nữa!?HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.9/6/2012.
No comments:
Post a Comment