Friday 8 June 2012

Cương Yếu Giới Luật (P3)


Cương Yếu Giới Luật (P3)
Trong văn Bát giới đã có nói đến Bát giới là thọ trì từng ngày của giới xuất gia Sa di, nhưng thọ trì Bát giới lấy người tại gia làm chủ yếu, vì thế so với Sa di giới thiếu một điều giới “cầm giữ tiền bạc” nên vẫn là một thứ giới tại gia. Giới xuất gia chân chính mở đầu từ Sa di thập giới, Sa di không thọ thập giới không được kể là người xuất gia hợp cách; vì thế, Sa di thập giới là cơ sở của xuất gia.

THIÊN THỨ NĂM. Sa Di Thập Giới Và Thức Xoa Lục Pháp

Chương 1. Xuất Gia Và Mục Đích Của Xuất Gia

I. XUẤT GIA LÀ GÌ?
Trong văn Bát giới đã có nói đến Bát giới là thọ trì từng ngày của giới xuất gia Sa di, nhưng thọ trì Bát giới lấy người tại gia làm chủ yếu, vì thế so với Sa di giới thiếu một điều giới “cầm giữ tiền bạc” nên vẫn là một thứ giới tại gia. Giới xuất gia chân chính mở đầu từ Sa di thập giới, Sa di không thọ thập giới không được kể là người xuất gia hợp cách; vì thế, Sa di thập giới là cơ sở của xuất gia. Mục đích của giới xuất gia là cầu đắc đạo Niết bàn giải thoát sinh tử. Ba đời chư Phật ở tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia, không có Đức Phật nào không xuất gia mà thành Phật, vì thế Sa di giới lại là cơ sở của đạo Giải thoát. Xuất gia chẳng phải là điều Phật giáo phát minh trước nhất, cũng chẳng phải chỉ Phật giáo mới có. Ở Ấn Độ, trước khi Đức Thế Tôn Thích Ca giáng sinh đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa môn (Samana) có nghĩa là dứt tâm, hoặc tịnh chí, là tên gọi chung của Ấn Độ đối với các loại người xuất gia. Sau khi Phật giáo sáng lập, để phân biệt với Sa môn ngoại đạo (như Sa môn Bà la môn) cho nên gọi người xuất gia của Phật giáo là Sa môn Thích Tử, nghĩa là đệ tử xuất gia của Phật Thích Ca.
Quan niệm về hình thái tu hành gần như là hiện tượng chung của các tôn giáo cao cấp trên thế giới. Mục đích tối cao của tôn giáo đều là tìm cầu sự giải thoát ra khỏi nhục dục và sự tự tại của tâm linh. Vì thế, một tôn giáo được gọi là tôn giáo, bất luận là thủ đoạn và phương pháp như thế nào, sự tìm cầu của nó tất nhiên cũng là xuất thế.
Chính vì sự yêu cầu xuất thế, nên sinh hoạt xuất gia trên tinh thần cấm dục vẫn là trình tự tất nhiên của sự tu hành.
Do đó, trừ Hồi giáo ra, các tôn giáo cao cấp Đông phương, Tây phương đều có bao hàm ít nhiều sắc thái xuất thế hoặc tư tưởng cấm dục.
Hình thái xuất gia, tuy các tôn giáo đều có, song xuất gia mà được thật sự đạt đến cảnh giới giải thoát sinh tử thì chỉ có Phật giáo. Do vì hình thái xuất gia tuy gần giống nhau, nhưng nội dung xuất gia hoàn toàn bất đồng. Xuất gia theo các tôn giáo khác dù có lý do và phương pháp tu trì của họ, song đó là điều dường như đúng mà sai, vì tu luyện mù quáng, tự tìm khổ cực, không có căn cứ, cho đến xuất phát từ sự chấp trước cuồng nhiệt và sự mê tín vô lý. Còn sinh hoạt tôn giáo của Phật giáo là đặt nền móng trên nhân tánh từng cấp thăng hoa, là xuất phát từ lý trí phán đoán quyết trạch, là từ trong cảnh giới đích thân chứng ngộ của Phật lần lượt lưu xuất, chứ không phải là cấm dục cực đoan, mà là căn cứ vào suối nguồn lý tánh thuận với sự đề cao nhân tánh mà tiếp thông thấu suốt với sinh hoạt xuất gia. Vì thế, sinh hoạt xuất gia của Phật giáo là đặt nền tảng quan hệ của nhân luân để làm thăng hoa từng bậc, từ sinh hoạt tại gia của ngũ giới, bát giới, đến sinh hoạt xuất gia của Sa di thập giới và Tỳ kheo giới. Ngũ giới đặt nền móng từ quan niệm luân lý của xã hội loài người. Do đây, Phật giáo dù mong muốn mọi người đều tin Phật, học Phật, nhưng tuyệt nhiên không ép buộc mọi người đều phải xuất gia. Muốn biết người nào đã có thích nghi với sự xuất gia ở trong Phật giáo hay không, chỉ cần xem người đó có tiếp thọ được tinh thần của giới luật hay không (do quan niệm luân lý thăng hoa mà thành). Giới luật xuất gia do quan niệm luân lý thăng hoa làm thành, đó là đạo Niết bàn giải thoát sinh tử. Đây chẳng phải là sự siêu xuất sinh tử một cách đột nhiên, mà là do nhân tánh của luân lý nhân gian hoặc sự thăng hoa từng cấp của lý tánh hoàn thành. Vì nơi đây chẳng phải là vô căn cứ, mà là đặt trên nền móng thăng hoa sinh hoạt tại gia của cái nhân sinh tử; cuối cùng, do sự thoát xác để đạt đến cảnh giới Niết bàn siêu thoát sinh tử. Điều này hoàn toàn bất đồng với hình thức và quan niệm của thần giáo dựa vào lực lượng của Thượng đế cứu chuộc. Thượng đế cứu thế của ngoại đạo là tố cáo sự mê tín của thần bí, cho đến tương tợ như ma thuật hoặc ma túy của tính chất thôi miên, có thể chân chính đạt đến mục đích giải thoát sinh tử được ư?
II. TÍNH CHẤT VÀ TÁC DỤNG CỦA SỰ XUẤT GIA
Trong Phật giáo, người xuất gia phân làm 5 hạng là Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Năm hạng này là 5 đẳng cấp, hoặc 5 loại. Người nam thọ thập giới rồi gọi là Sa di. Người nữ thọ thập giới gọi là Sa di ni. Người nam thọ toàn bộ giới của giới xuất gia gọi là Tỳ kheo ni. Thức xoa ma na là một quá trình của giai đoạn giữa, từ Sa di ni đến Tỳ kheo ni. Mỗi một Sa di ni cần phải trải qua quá trình hai năm Thức xoa ma na, mới có thể thọ giới Tỳ kheo ni và trở thành Tỳ kheo ni. Đây chủ yếu là đề phòng người nữ lúc ở thế tục mang thai rồi đi xuất gia nên mới quy định như thế, nhân vì thời gian của Sa di ni không hạn định. Nếu người xuất gia lúc 18 tuổi thọ Sa di ni thập giới xong liền thọ pháp Thức xoa ma na, trải qua 2 năm không có hiện tượng mang thai, tập quen sinh hoạt xuất gia, đến 20 tuổi có thể thọ Tỳ kheo ni giới.
Về tính chất xuất gia, Phật giáo phân làm ba loại:
1. Thân tâm đều xuất gia: Thân thể trụ ở rừng núi, tự viện, là thân xuất gia. Trong tâm không còn luyến, mộ khoái lạc của ngũ dục thế tục, chẳng kể danh lợi được mất, là tâm xuất gia. Đây là phép tắc xuất gia chân chính, cũng là bổn phận của người xuất gia.
2. Thân xuất gia, tâm chẳng xuất gia: có người tuy cạo tóc mặc tăng phục, trụ tự viện, không cưới vợ, không lấy chồng, hoặc cũng giữ được thân thanh khiết; song nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ dục. Họ vì sinh hoạt cho đến vì danh vọng và địa vị xã hội mà xuất gia. Đối với phương thức sinh hoạt của xuất gia tuy họ không cảm thấy hứng thú, nhưng vì vấn đề sinh hoạt và sự bó buộc của quan hệ xã hội nên miễn cưỡng xuất gia. Những hạng người này thật đáng thương xót, họ không được cái thú vị của sinh hoạt hiện thực, cũng không được sự lợi ích của Phật pháp, họ lại sẽ bị quả báo đời vị lai rất đáng sợ, do vì họ đối với tín ngưỡng Phật giáo có vấn đề, nên sinh hoạt xuất gia của họ cũng không thể hoàn chỉnh và có lỗi lầm. Vì thế, đây là một loại người xuất gia bị Phật quở trách, rất thường thấy ở thời mạt pháp.
3. Tâm xuất gia, thân chẳng xuất gia: Đây là Bồ tát đã chứng thánh vị, các Ngài không tham luyến cái vui ngũ dục, vì hóa độ chúng sinh nên thường hóa hiện thân phận người tại gia có vợ sinh con, như các Ngài: Duy Ma, Hiền Hộ. Các Ngài tuy ở tại gia có vợ con, nhưng tâm các Ngài không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh sáng suốt. Nhưng đây không phải là phép tắc thông thường của xuất gia, nên chẳng thể thành phương thức của sinh hoạt xuất gia.
Phương thức sinh hoạt xuất gia của Phật giáo cũng có tác dụng nhiều tầng:
1. Vì lý do liễu sinh thoát tử mà có: Đây là đặt nặng sự hướng về tinh thần xuất thế mà có yêu cầu của sinh hoạt xuất gia.
2. Vì lý do cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục mà có: Đây là vì đối trị những người mê luyến trong trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục mà mở ra pháp môn thức tỉnh và giải độc.
3. Vì lý do Phật pháp trụ ở thế gian mà có: Đây là để ý vào sự kiến lập Tăng đoàn mong có quy luật để vĩnh cửu triển khai và nối tiếp nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp.
Nhưng đã xuất gia trong Phật pháp, tuyệt đại đa số phải có toàn bộ tác dụng của ba thứ: Đối với chính mình là cầu giải thoát sinh tử, đối với người khác là vì cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, đối với Phật giáo là vì trụ trì hoằng dương. Ba điều này thiếu một thì không hoàn mỹ, xuất gia mà không tự cầu thoát sinh tử thì chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà không cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, ấy là trái với tinh thần Phật pháp giáo hóa thế gian. Xuất gia mà chẳng trụ trì Phật pháp, ấy là cô phụ lớn lao cái ân của Phật.
III. MỤC ĐÍCH CỦA XUẤT GIA
Có người quan niệm ý nghĩa của xuất gia gần như đồng với tự sát. Ở trên sự nghiệp tình ái kim tiền, danh vị bị đã kích quá nặng, gặp sự thất bại chẳng thể vãn hồi, vì thế tâm ý lạnh lẽo, không còn có dũng khí đối diện với hiện thực. Lúc không còn muốn phấn đấu nữa, thì con đường thứ nhất rất giản đơn là dùng phương pháp tự sát kết thúc cái sinh mạng không biết phải làm sao. Con đường thứ hai tuy không giản đơn nhưng cũng rất dễ là lánh vào cửa Phật, cạo tóc xuất gia làm bạn với mõ chuông cho qua kiếp sống tàn. Quan niệm này tuyệt đối không phải là Bản lai diện mục của xuất gia Phật giáo, nhưng cũng không thể phủ nhận thật có những nhân vật như thế đi vào cửa Phật xuất gia. Những nhân vật này đi vào cửa Phật không có sự kiến lập lớn lao và cũng không đến nỗi có sự phá hoại lớn lao, nhưng trên xã hội, sự kỳ thị đối với Tăng lữ của nhà Phật là do những người này mà ra. Thật ra, đệ tử xuất gia thời Phật còn tại thế đa số là Tỳ kheo ở nhân gian, chỉ một thiểu số ở núi rừng là Tỳ kheo A lan nhã chuyên trì giới và tu thiền. Tỳ kheo ở nhân gian là người xuất gia lấy sự hành hóa nhân gian làm chủ yếu. Người xuất gia vốn giải thoát sinh tử cố nhiên phải tu thiền, tu thiền cố nhiên là liễu sinh thoát tử, song nếu tham đắm cái vui thiền định thế gian thì trái lại, nhân vì tu tập thiền định mà làm chướng ngại pháp môn giải thoát sinh tử.
Vì thế, người xuất gia Phật giáo lấy sự cầu trí huệ làm mục đích thứ nhất, đem trí huệ giáo hóa nhân gian làm nhiệm vụ chủ yếu bậc nhất. Đến như trì giới làm một phương pháp đoạn tuyệt cái nhân sinh tử; song, chỉ trì giới mà chẳng nhàm lìa sinh tử, thì công đức trì giới chỉ có thể được quả báo nhân thiên, chớ chẳng thể liễu sinh thoát tử. Như chỉ cầu tự mình giải thoát mà không trợ giúp cho người khác giải thoát, tối đa thành A la hán chứ không thể thành Phật. Trong phương pháp tu trì của Phật giáo, ba môn học Giới, Định, Huệ đều được coi trọng. Mục đích của trì giới và tu định là để sinh huệ. Công dụng của huệ là chỉ đạo tự mình tu giới, định, và độ người khác giải thoát, vì thế trong ba môn không thể thiếu một môn và lấy huệ làm trung tâm. Đây là một điểm sẽ được thảo luận kỹ càng trong văn nói Bồ tát giới thiên thứ bảy.
Người xuất gia buông bỏ tất cả thấy suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân biệt nhân ngã, trường đoản, vì thế rất khó được. Nhưng cũng vì thế mà bị một số người hiểu lầm cho rằng đây là biểu hiện của tư tưởng tiêu cực. Kỳ thật, người xuất gia của Phật giáo chính mình buông bỏ, thấy suốt, và dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, ấy là tích cực. Tội ác và họa loạn của nhân gian đâu chẳng phải toàn là do người buông không xuống, thấy không suốt mà tạo ra ư? Người xuất gia chúng ta một bên dạy chính mình và một bên dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, đồng thời cũng dạy chính mình và người khác lập tức đảm đương. Danh lợi, tư dục, cần phải buông bỏ, thấy suốt; cứu người giúp người cần phải lập tức đảm đương. Đây có thể kể là tiêu cực được ư?
Vì thế, mục đích xuất gia của Phật giáo: Một là tự mình cầu giải thoát, hai là trợ giúp người khác giải thoát, và lấy việc tự cứu mình cứu người đồng được giải thoát làm mục đích.
Phật giáo có một câu cổ huấn: “Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, chẳng phải việc quan tướng có thể làm được”. Tôi xin giải thích như vầy: Quan tướng là điển hình của hào kiệt, đại trượng phu là điển hình của Thánh Hiền. Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành. Thánh Hiền bám vào khí chất mà thành. Khí chất của Thánh Hiền có thể hàm dung khí thế của hào kiệt, trong khi khí thế của hào kiệt chưa chắc có khí chất của Thánh Hiền. Người xuất gia của Phật giáo lấy Phật làm điển hình để noi theo. Phật vì giải thoát cái khổ sinh tử của chúng sinh và giải đáp câu đố sinh tử cho chúng sinh mà xuất gia tu chứng. Mục đích của người xuất gia trong Phật giáo, trên nguyên tắc là giống như Phật: Ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ vợ con, là đi ra khỏi cái nhà khổ hải của cái khổ sinh tử và cũng là vì trợ giúp người khác cho đến tất cả chúng sinh cũng ra khỏi được cái nhà khổ hải của cái khổ sinh tử. Vì thế trong Phật giáo, tốt nhất là nên xuất gia vào lúc tuổi trẻ, sức lực còn cường tráng. Nếu vì thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất gia, Phật giáo tuy không cự tuyệt song cũng không cổ động và không thể nào nhiệt liệt hoan nghinh những kẻ ấy.
..............................................

Chương 2. Sa Di Giới Và Các Loại Sa Di

I. TẠI SAO GỌI LÀ SA DI, SA DI NI?
Người xuất gia trong Phật giáo gồm có 5 hạng, trong thiên này chỉ nói 3 hạng: Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma ni. Trong luật điển thông thường gọi ba hạng này là tam tiểu chúng (ba chúng nhỏ). Do vì từ trên đại thể nam nữ xuất gia 20 tuổi trở xuống không được thọ Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới, tuy nhiên tuổi tác của tam tiểu chúng cũng không hạn định phải dưới 20 tuổi. Do đó, một là tuổi nhỏ, hai là đẳng cấp của giới cũng nhỏ, vì thế gọi là tiểu chúng.
Trước hết, chúng ta nói về vấn đề của Sa di. Giới của Sa di và Sa di ni có 10 điều giống nhau. Còn điểm khác nhau của Sa di và Sa di ni giới là oai nghi tuỳ đại chúng học: Sa di phải học theo luật nghi Tỳ kheo, Sa di ni phải học theo luật nghi của Tỳ kheo ni. Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới có những phần bất đồng, nên luật nghi của Sa di, Sa di ni theo học vì thế cũng có sự khác nhau. Nhưng trên thập giới căn bản của Sa di và Sa di ni thì hoàn toàn đồng, chỉ cần hiểu rõ Sa di giới thì sẽ hiểu rõ Sa di ni giới, vì thế khi giảng thập giới, chúng tôi chỉ giảng Sa di giới.
Sa di là dịch âm chữ Phạn: Sràmanera. Chữ này ở Trung Quốc có hai cách dịch tân và cựu. Cựu dịch là “tức từ” nghĩa là dứt ác hành từ. Tân dịch là “cần sách”, nghĩa là tiếp thọ sự khuyến khích siêng gắng của đại Tỳ kheo Tăng. Trong các tác phẩm của Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng dịch, thường lấy nghĩa “cầu tịch” để gọi Sa di, nghĩa là cầu lấy đạo Niết bàn và quả viên tịch. Viên tịch là viên mãn tịch tịnh, cũng là đạo cứu cánh của Niết bàn. Xuất gia là vì tự cầu giải thoát vừa lại giúp người khác giải thoát. Sa di là cấp bậc thứ nhất của đạo xuất gia. Vì thế, một người làm Sa di được gọi là “cầu tịch” “cần sách” và “cầu tịch”, thì nghĩa “cầu tịch” thì thích đáng hơn hết. Nhưng trong Phật giáo, khi gọi hàng đệ tử xuất gia và tại gia của Phật, phần nhiều thường dùng âm dịch của Phạn văn làm chuẩn.
Sa di ni nghĩa là “cầu tịch nữ”. Trong sự phiên dịch của kinh Phật, phần nhiều dùng âm “ni” để đại biểu cho nữ tánh, như Thức xoa ma ni (có chỗ dịch là Thức xoa ma na), thật ra là lấy âm “ni” đại biểu cho nữ tánh. Chúng ta lại thấy trong Thiện Kiến Luật quyển hai đem Dạ xoa nữ dịch thành Dạ xoa ni, trong Kinh Tạp A Hàm quyển 4 cũng đem Bà la môn nữ gọi là Bà la môn ni, đủ thấy một âm “ni” là tiếng gọi thông thường trong sự phiên dịch kinh Phật dùng để đại biểu cho nữ tánh.
II. NỘI DUNG CỦA SA DI THẬP GIỚI
Sa di thập giới trong văn của Bát giới chúng tôi đã giới thiệu 9 điều, trong đó chỉ có một điều “giới cấm giữ vàng bạc châu báu” còn phải giới thiệu thêm. Nhưng điều văn giới tướng của thập giới ở đây vẫn cần phải liệt kê lại để hoàn thành hình thái của Sa di thập giới.
Sa di thập giới là:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cướp.
3. Không phi phạm hạnh (không dâm).
4. Không vọng ngữ.
5. Không uống rượu.
6. Không đeo tràng hoa thơm, không dùng dầu thơm xoa thân.
7. Không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe.
8. Không ngồi nằm giường lớn cao rộng.
9. Không ăn phi thời.
10.Không cần giữ sanh tượng vàng bạc vật báu.
Ý nghĩa nội dung của 10 điều giới này đã có giảng qua trong Bát giới, ở đây không giảng lại. Chỉ có sự bất đồng giữa chín giới trước và bát giới là thời gian thọ trì. Bát giới là một ngày một đêm thọ trì. Sa di giới là suốt đời thọ trì. Còn có một điểm bất đồng là hai giới là thứ 6 và thứ 7 hợp lại hay phân ra khác nhau. Bát giới đem hai điều thứ 6 và thứ 7 của Sa di giới hợp thành một điều thứ 6, Sa di giới thì đem giới thứ 6 của Bát giới phân làm hai giới thứ 6 và thứ 7.
Nay chúng ta giảng về giới thứ 10: “Không cầm giữ sanh tượng vàng bạc vật báu” của Sa di giới. Điều này thông thường là giới tiền bạc. Người xuất gia vì phá trừ tâm tham, phá trừ cái thói quen người ta nói là “có người chết vì của cải”, lại nói “có người không sống được ngàn năm, mà lo tính chuyện vạn năm”. Sự ham muốn và súc tích của cải của con người có thể nói là bẩm sinh, có một trăm mong muốn một ngàn, có một ngàn mong muốn một vạn, cho đến thành phú ông trăm vạn ngàn rồi lại mong muốn lũng đoạn kinh tế thế giới, muốn cả thế giới nầy đều thuộc sở hữu của mình. Thật ra điều này ở trong xã hội tư bản chủ nghĩa của công thương nghiệp thì được cổ vũ nhưng ở trong thế giới đại đồng của dân sinh chủ nghĩa lại không được hoan nghinh, trong Phật giáo của chúng ta lại càng không chấp nhận. Của cải có thể tạo phước cho nhân quần, là sự thật không thể phủ nhận. Nhưng, của cải có thể thành chủ nhân của người và người trở thành nô lệ cho của cải cũng là sự thật không thể phủ nhận. Của cải là vật ở ngoài thân là điều ai cũng biết, nhưng xem của cải là vật ở ngoài thân lại là điều rất khó làm. Vì thế, của cải là thứ có khả năng lớn nhất sai khiến con người, cho nên người xuất gia trong Phật giáo chủ trương không súc tích của cải, cho đến nói rằng cầm giữ của cải đều là hành vi phạm giới. Đức Thế Tôn Thích Ca thấy thấu suốt tính chất trói buộc của cải đối với con người và sự ham muốn chiếm hữu mãnh liệt của con người đối với của cải, cho nên Ngài muốn giải trừ cho đệ tử xuất gia việc cầm giữ của cải. Bằng không thì bị vấn đề của cải làm động cân não khởi tham đắm, đâu thể “thấy được suốt, buông được xuống”, đâu thể nhất tâm ý vì đạo nỗ lực!
Xem của cải như đồ vô dụng, lúc Phật giáo mới khai sáng thì có thể làm được, giữa ngày ăn một bữa sau khi đi từng nhà khất thực, ngủ một đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân. Ấn Độ là miền nhiệt đới thân cây cao lớn, nhánh lá sum sê, ngủ dưới gốc cây gần như ở trong một cái lọng thiên nhiên. Khí hậu của Ấn Độ rất nóng, giả sử đêm đông lạnh nhất, Đức Phật thí nghiệm cũng chỉ cần ba y là có thể đủ ấm. Đồng thời, phong tục của Ấn Độ đương thời, người chết phần nhiều đem bỏ vào thi lâm (tương đương như nghĩa địa ngày nay) để lộ thiên cho tan rã, cho đến cứ để mặc cho chim thú ăn, quần áo của người chết, người xuất gia nhặt lấy chế thành bay để mặc. Quyến thuộc của người chết đưa người chết đến thi lâm thì thường bỏ tang phục của người chết trên mộ. Vì thế, nguyên lai “phấn tảo y” của Tỳ kheo Phật giáo cũng là lấy “y của gò mả”. Vấn đề ăn ở mặc giải quyết xong. Còn vấn đề đi lại đương thời cũng rất đơn giản, trừ khi qua sông thì cho đi thuyền, còn voi ngựa xe cộ trên đất liền phần nhiều là đồ dùng của thương gia hoặc quân đội tác chiến, người bình dân thông thường ít có cơ hội được cưỡi, lữ hành đi buôn bán ra nước ngoài dùng xe chở hàng hóa, còn người thông thường đều đi bộ. Người xuất gia lấy việc hành cước du hóa làm bổn phận, vì thế cũng không dùng đến tiền xe, tiền đò, cho đến qui định “không được không bệnh mà đi xe”. Người xuất gia sinh hoạt ở trong hoàn cảnh và tình hình như thế, còn dùng của cải để làm gì? Vì thế, đặc sắc nhất của giới xuất gia là “giới tiền bạc”. Bát giới là của đệ tử tại gia thọ trì, người thế tục chẳng thể không có tiền bạc, vì thế không chế một điều này, còn người xuất gia có thể làm được. Vì thế, một khi xuất gia phải thọ trì một điều giới này.
Nhưng người xuất gia của Phật giáo mỗi ngày một đông, thể chất của người xuất gia có người cường tráng cũng có người yếu đuối, tập tánh của người xuất gia có người cam đạm bạc, cũng có người không chịu nổi phong sương mưa nắng dãi dầu, thậm chí có người mang tập khí tham của rất nặng, không súc tích của cải thì không thể hành đạo tu trì.
Do đó, Đức Phật vì nhu yếu thực tế dần dần cho phép Tăng chúng xuất gia có chùa chiền, tịnh xá, tăng phòng, có súc tích đồ cần dùng cho cuộc sống, cũng khai mở ra cho phép được tiếp nhận của cải.
Nhân vì tiền tệ là sản vật của nền văn minh nhân loại, nó có thể làm môi giới cho sự đổi chác. Thí chủ cúng dường cho người xuất gia các thứ như quần áo, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang. Nhưng trong nhà của thí chủ không thể là tiệm buôn vải, tiệm lương thực, xưởng chế tạo đồ dùng và nhà thuốc. Giả sử có mở tiệm cũng không hoàn toàn có đủ các thứ này. Nếu như hoàn toàn có đủ đi nữa, khi đem phẩm vật cúng dường người xuất gia cũng chưa ắt là thích hợp với nhu cầu. Do đó, sự nhận lấy tiền tệ đối với người xuất gia không thể tuyệt đối cấm ngăn được.
Nhân đấy, vì lý do Tam bảo có thể tiếp thọ, vì lý do người khác có thể tiếp thọ, cho đến vì lý do chính mình có thể tiếp thọ, nhưng trên nguyên tắc vẫn không cho tự thọ, tự chứa cất, cho nên Đức Phật lại vì hàng đệ tử xuất gia chế một thứ pháp thuyết tịnh.
Pháp thuyết tịnh là mời một người thế tục làm chủ tịch, hễ thâu nhận được tiền bạc bèn nói là thay người thế tục kia thâu nhận, đây là của tịnh chủ kia chứ không phải của chính tôi. Nói như thế rồi có thể thâu. Nhìn từ hình thức, pháp thuyết tịnh này giống như không cần phải có. Kỳ thật, nó có giá trị của sự tuân hành, vì người xuất gia ở trên bản chất tuyệt đối không được thọ nhận tiền bạc. Nhưng đây cũng là một phương tiện bất đắc dĩ, quyết chẳng nên nhận vì có pháp thuyết tịnh là tham lam không biết chán. Pháp thuyết tịnh có thể cảnh sách người xuất gia chẳng nên tiếp thọ tiền bạc quá nhiều. Nếu như cho rằng có pháp thuyết tịnh rồi tham cầu càng nhiều càng tốt không thôi, ấy là đánh mất ý nghĩa của pháp thuyết tịnh. Vì thế, người xuất gia tốt nhất là không nên thọ nhận tiền bạc. Nhưng, nếu có nhu yếu như giữ tiền chi phí thuốc men lúc bệnh và chi phí sinh hoạt hằng ngày, thì tự nhiên không ngại gì dùng pháp thuyết tịnh để tiếp thọ tiền bạc.
Căn cứ sự quy định trong luật, người xuất gia là nương tựa chúng và sinh hoạt ở trong tăng đoàn, nhu yếu phẩm trong sinh hoạt của người xuất gia đều phải do Tăng đoàn sở tại (thường trụ) cung cấp. Vì thế, thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc, nhưng cũng bị hạn chế rất nghiêm khắc: Tỳ kheo không được chính tay mình cầm nắm, Sa di thì có thể cầm nắm, nhưng với người có tịnh nhân ngũ giới thì phải do tịnh nhân ngũ giới phụ trách tiếp thọ và bảo quản, cho đến bịt mắt người thế tục rồi dắt người ấy đến một chỗ chỉ định để tiền bạc vào đó. Điều này ngày nay không còn cách nào làm được. Như có thể giữ cho không tham cũng đã là khó rồi, chứ tuyệt đối không giữ tiền bạc gần như là việc ít thấy.
Bây giờ, giải thích bốn chữ “sanh tượng vàng bạc”. Trong bốn chữ này, chủ yếu là hai chữ “sanh tượng” cần phải giải thích. Có hai lối giải thích:
1. “Sanh sắc là vàng, tợ sắc là bạc”: Vàng ròng nguyên chất gọi là “sanh sắc”, lấy bạc mà nhuộm thành màu vàng gọi là “tợ sắc”, tợ cũng có nghĩa là tượng.
2. Sanh, là chính ngay các vật báu như vàng bạc châu ngọc. Tượng, là dùng vàng bạc vật báu chế làm ra các món đồ vàng, đồ bạc, cho đến các món đồ quý do châu ngọc, san hô, mã não, thủy tinh, xa cừ, lưu ly, hổ phách, đồi mồi, đá hoa, ngà voi chế tạo thành.
Người xuất gia chẳng những không được cầm giữ vàng bạc tiền tệ, mà tất cả vật báu, đồ quý đều chẳng được cầm giữ, đương nhiên cũng không cho cất giấu và súc tích. Nhân vì đồ quý làm cho tâm tham đắm, một khi đối với vật bên ngoài sinh khởi tâm tham đắm, đó là tâm bị vật chuyển, chứ chẳng còn tự tại giải thoát được. Ở đây có một chuyện tích như sau: Thuở xưa, có một người xuất gia, vị ấy đã thấy suốt thế sự danh lợi, ở ẩn một mình nơi chỗ yên tịnh tu tập, đã chẳng viếng thăm ai và cũng không tiếp khách đến thăm. Nhưng vị ấy yêu thích và quý tiếc một chiếc bát đựng thức ăn. Có vị đạo nhân biết vị ấy còn một khuyết điểm này, bèn đến gõ vào chiếc bát của vị ấy. Khi nghe có người gõ cái bát của mình, vì sợ cái bát của mình bị người gõ bể, vị ấy liền vội vàng từ chỗ yên tịnh chạy ra, người khách gõ bát bèn giáo huấn vị ấy: “Tôi biết ông tất cả đều buông bỏ hết, chỉ có cái bát này là chưa buông xuống được”.
III. ĐẲNG VỊ VÀ CÁC LOẠI SA DI
Thời kỳ đầu tiên lúc Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn không có Sa di. Sự xuất hiện của Sa di trong Phật giáo so với sự xuất hiện của Tỳ kheo ni sớm hơn một chút. Đại khái là lúc La Hầu La là con của Đức Phật theo Phật xuất gia mới bắt đầu có Sa di.
Tăng đoàn của người xuất gia Phật giáo cũng tương tợ như tình hình của đại gia đình. Người xuất gia ra khỏi “nhà hữu vi” của thế tục, vào “nhà vô vi” của xuất thế. Trong cái gia đình vô vi không tạo nghiệp sinh tử này có nam, có nữ, có già, có trẻ, có lớn, có nhỏ dung hợp đối xử với nhau hòa thuận vui vẻ. Sự tiếp nhận Tăng đoàn của Sa di là nhân tài của Phật giáo, tăng thêm sự nối tiếp lực lượng mới sinh. Vì thế, phần tử Sa di lấy nhi đồng làm chủ yếu.
Nhưng có người tuổi đã 20 mới nhập Tăng đoàn, hoặc vì thầy trò chẳng đủ, hoặc vì y bát chưa đủ, hoặc nhân vì vật khác mà chưa có thể thọ trì Tỳ kheo giới, vẫn bị liệt vào số chúng Sa di. Còn có các cụ già từ 60 tuổi đến 70 tuổi, đến Tăng đoàn cầu xin xuất gia, Đức Phật cũng cho các cụ ấy cạo tóc nhưng không cho các cụ ấy thọ Tỳ kheo giới, vì thế các cụ ấy cũng bị liệt vào số chúng Sa di.
Chúng ta đã nói qua phần tử chủ yếu của Sa di là nhi đồng, nhưng cũng có hạn định là nhi đồng phải từ 7 tuổi trở lên và phải có năng lực làm công tác đuổi chim đuổi quạ trên sân phơi lúa mới được độ làm Sa di. Vì thế, trong luật quy định 7 tuổi trở xuống dù có năng lực đuổi quạ cũng không nên độ, 7 tuổi trở lên không có năng lực đuổi quạ cũng không nên độ. Trong luật cũng quy định người già tuổi dưới 70 có thể tự lo cho cuộc sống của mình, mới có thể xuất gia làm Sa di, 71 tuổi trở lên dù lo được hay không đều không được độ.
Nguyên nhân chủ yếu là các Tỳ kheo không có thời giờ và tinh lực nhiều để lo cho đệ tử quá già hoặc quá trẻ. Người quá già hoặc quá bé không làm sao chịu đựng nổi cuộc sống xuất gia, cũng không làm sao tự lo cho mình được, vì thế không cho họ xuất gia đủ thấy Tăng đoàn của Phật giáo lấy thanh niên làm chủ.
Do đó, thành phần của Sa di phân ra làm hai loại của ba đẳng vị. Ba đẳng vị là: 7 tuổi trở lên, 13 tuổi trở xuống gọi là Khu ô Sa di; 14 tuổi trở lên 19 tuổi trở xuống gọi là Ứng pháp Sa di. (Đây là hợp với tuổi Sa di yêu cầu vì họ có thể thuận với pháp hạnh Sa di mà làm, vì thế gọi là Ứng pháp Sa di); 20 tuổi trở lên, 70 tuổi trở xuống gọi là Danh tự Sa di. (Người 20 trở lên 60 tuổi trở xuống vốn có thể thành Tỳ kheo, chỉ vì nhân duyên chẳng đủ phải ở địa vị Sa di cho nên gọi là Danh tự Sa di). Còn hai chủng loại là cạo tóc nhuộm áo (cải trang) nhưng chưa thọ Sa di thập giới, gọi là Hình đồng Sa di (Hình thái tuy đồng Sa di nhưng vẫn chưa đủ tư cách của Sa di, vẫn còn bản chất của người tục, vì thế gọi là Hình đồng Sa di). Đã thọ Sa di thập giới gọi là Pháp đồng Sa di (Đây là chân thật Sa di, do thọ trì giới pháp Sa di mà thành Sa di, vì thế gọi là Pháp đồng Sa di). Nay đem ba vị và hai loại làm thành biểu đồ như sau:
........................................

Chương 3. Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

I. NGƯỜI NÀO CÓ THỂ LÀM THẦY CỦA SA DI?
Tại Trung Quốc, Sa di là sản vật của các ngôi chùa tư do con cháu truyền nhau từ đời này sang đời khác. Sa di, cũng chỉ có đương gia trụ trì của chùa tư mới đủ tư cách thế độ. Trong đại tòng lâm của thập phương đạo tràng, thà rằng thâu nhận Tỳ kheo giả mạo chưa đủ 20 tuổi thọ Tỳ kheo giới, chứ chẳng dung nạp Sa di nhỏ tuổi, để đề phòng nạn phe đảng đấu tranh.
Trong Tăng đoàn của Phật chế, người làm thầy thế độ Sa di không có đặc quyền về giai cấp. Sa di trong Tăng đoàn, bất luận nơi nào cũng đều được vui vẻ tiếp nhận, không có chỗ gọi là chùa tư của con cháu truyền nhau từ đời này sang đời khác, cũng không phân biệt là của tòng lâm hay của thập phương đạo tràng. Phàm là đạo tràng của Phật giáo đều là thập phương thường trụ, người xuất gia đến một đạo tràng bất luận là lớn hay nhỏ, không có lý nào bị xem như người ngoài. Trụ ở chỗ nào thì có nghĩa vụ hộ trì đạo tràng chỗ đó. Sa di đi theo thầy thế độ, nhưng khi vào trụ ở một đạo tràng nào, ngoài việc phục tùng và hầu hạ vị thầy thế độ của mình còn phải chịu sự sai khiến và phân phối công tác của thầy Tỳ kheo chấp sự đạo tràng. Vì thế Sa di theo thầy đến một đạo tràng nào trụ, cũng tức là Sa di của đạo tràng đó. Trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế, chỗ nào cũng đều có sự hiện hữu và hoạt động của Sa di, thậm chí ở trong Tăng đoàn không thể không có Sa di, nhân vì có những việc Tỳ kheo không được làm, Sa di có thể thay làm.
Vì tính cách trọng yếu của Sa di trong Tăng đoàn, nên chẳng phải vì họ tuổi nhỏ mà không được vui vẻ tiếp nhận.
Trên phương tiện tu chứng, Sa di cũng có thể tu chứng như Tỳ kheo, nghĩa là dù tuổi tác nhỏ nhưng cũng có thể chứng Tứ quả Sa môn. Vì thế, Đức Phật cũng khai thị mọi người chẳng nên khinh thị người xuất gia nhỏ tuổi là muốn mọi người phải tôn trọng người xuất gia tuổi nhỏ. Vì thế, cấp bậc của Sa di ở trong chúng xuất gia tuy nhỏ, cũng không bị sự kỳ thị của người lớn.
Lợi dưỡng trong Tăng đoàn, Sa di dường như được hưởng thụ quyền lợi ngang với Tỳ kheo, tỷ như trong Thập Tụng Luật quyển 27 nói: “Sa di hoặc đứng hoặc ngồi, theo thứ tự được đàn việt bố thí nhiều ít, nên thuộc về Sa di”. Lại nói: “Các đàn việt khi cho không phân biệt, chia làm bốn phần, phần thứ tư cho Sa di”. Lại nói: “An cư phát y có phần cho Sa di, vật cần dùng tuỳ thân của Tỳ kheo cũng có phần cho Sa di; Nhân duyên y có phần cho Sa di, Phi thời y cũng có phần cho Sa di”.
Người độ Sa di xuất gia tuy không có đặc quyền giai cấp, nhưng có sự hạn chế trên tư cách. Kinh Đại Tỳkheo Tam Thiên Oai Nghi nói: “Tỳ kheo giới đủ 10 năm mới được độ người, nếu chẳng biết ngũ pháp thì suốt đời chẳng được độ người”. Ngũ pháp là:
1. Thông hiểu sự lợi ích rộng của hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh trọng đáng phạm của đệ tử.
3. Đệ tử ở phương xa đủ sức khiến đệ tử quay về.
4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác.
5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc được như cha nuôi con.
Lại nói: “Nếu người chẳng biết năm việc ấy thì suốt đời không được độ người. Nếu độ người đắc tội Đột kiết la”. Lại nói: “Tỳ kheo muốn độ Sa di phải có đủ năm việc:
1. Phải biết 4 bộ A Hàm.
2. Phải biết giới.
3. Phải biết kinh.
4. Phải có huệ.
5. Phải có đức”.
Lại nói: “Có năm điều:
1. Phải trì giới.
2. Phải không phạm giới.
3. Phải nhẫn nhục.
4. Phải hiểu được kinh.
5. Phải tự giữ tất cả”.
Nhân vì Hòa thượng thập giới của Sa di là thầy thế độ. Nếu như thầy thế độ chưa hoàn tục, chưa tử vong, cũng chưa đi phương xa, Hòa thượng truyền Cụ túc giới của Tỳ kheo cũng là thầy thế độ, vì tư cách thế độ Sa di cũng phải đồng với tư cách của vị vì người làm Hòa thượng Tỳ kheo giới. Trong Tăng Kỳ Luật quyển 28, có quy định 10 việc độ người giữa thầy trò: “Phật nói, từ nay có 10 pháp thành tựu mới cho độ người xuất gia thọ Cụ túc giới:
1. Trì giới
2. Học rộng A tỳ đàm (Luận)
3. Học rộng Tỳ ni (Luật)
4. Học giới
5. Học định
6. Học huệ
7. Có thể xuất tội và khiến cho người xuất tội
8. Có thể săn sóc bệnh và sai người săn sóc bệnh.
9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi.
10. Đủ 10 tuổi hạ”
Lại nói: “Ít nhất phải đủ 10 năm Tỳ kheo giới, và biết hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni mới được độ người xuất gia”.
Thiện Kiến Luật nói: “Nếu chẳng biết Luật, chỉ biết Tuđa la (Kinh), A tỳ đàm (Luận) thì chẳng được độ Sa di”
Tổng hợp 3 bản luật đã nêu ở trên về những điều kiện cần phải có của thầy độ trò, có thể đưa đến kết luận: Vì người làm thầy độ Sa di, tốt hơn hết là đủ 10 đức như trong Tăng Kỳ Luật nói. Nếu không được như vậy, ít nhất cũng phải đủ hai điều kiện:
1. Tỳ kheo giới lạp phải đủ 10 năm.
2. Thông hiểu hai bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không đủ tư cách thế độ Sa di, nguyên nhân là chính mình chưa đủ 10 hạ rất khó thông suốt luật nghi. Nếu không thông hiểu hành trì tác pháp của luật nghi trong cuộc sống hằng ngày qua trì phạm khai giá, cấp bậc khinh trọng, thì lấy gì để răn dạy đệ tử? Điều này ở trong luật có tỷ dụ chính mình chưa rời vú mẹ làm sao có thể cho người khác bú?
Tỳ kheo cũng chỉ có thể thế độ Sa di, không được thế độ Sa di ni, vì chính Đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Phật từng đích thân độ nhiều Tỳ kheo, và cũng độ hai người Sa di là Nan Đề và Da Xá nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng (Luận Tát Bà Đa, quyển 2); điều này trong luật có ghi. Ni chúng đầu tiên là do Bát Kính pháp mà xuất gia, về sau do ni chúng thế độ ni chúng. Vì thế trong văn Sa di ni giới có nói: “Tự chẳng phải Thánh Bồ tát, A la hán chẳng nên độ ni”. Người nữ có thể ở trong Phật pháp xuất gia, song vì phòng ngừa sự dần dần ái nhiễm, ngăn dứt tiếng chê bai, nên chẳng cho Tỳ kheo thế độ người nữ xuất gia. Tỳ kheo cũng chẳng được làm Hòa thượng của Tỳ kheo ni, chỉ có thể làm Yết ma A xà lê, Giáo thọ A xà lê của Ni chúng.
Sa di ni phải do Tỳ kheo ni thế độ, tư cách phải có của Tỳ kheo ni ấy đại khái cũng đồng như Tỳ kheo độ Sa di. Chỗ bất đồng là Tỳ kheo ni phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới cho độ người xuất gia.
II. QUY CỦ THẾ ĐỘ SA DI
Không luận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, trừ những tư cách nói trên cần phải đầy đủ, còn phải cầu được sự đồng ý của đại chúng trong Tăng đoàn, vì thế trong luật có một thứ Yết ma xin độ Sa di (Sa di ni). Nếu muốn độ người xuất gia, trước tiên phải cầu xin trong Tăng đoàn, nếu như đại chúng trong Tăng đoàn thấy rằng người này đã có đủ 10 hạ, đã có năng lực răn dạy đệ tử, đã có đủ sức lo những nhu cầu cơm áo cho đệ tử, bèn chấp nhận. Bằng không thì không chấp nhận, không cho được độ người xuất gia. Nếu như đại chúng trong tăng đoàn chưa có thể tập họp lại một chỗ, Tỳ kheo (hoặc Tỳ kheo ni) độ người phải đi từng phòng bạch cho đại chúng đều biết, được sự đồng ý của đại chúng rồi, sau đó mới được thế độ cho người.
Ở đây có 2 lý do:
1. Đã từng có Tỳ kheo tự mình không đủ tư cách làm thầy độ người mà làm thầy độ người, sau khi độ người chẳng thể răn dạy đúng như pháp, không đủ sức cung cấp nhu cầu cơm áo đúng như pháp, khiến cho người ngoài chê bai, vì thế cần phải được sự đồng ý của đại chúng và do đại chúng đánh giá tư cách của ông thầy độ người.
2. Đã từng có Tỳ kheo độ một đứa bé xuất gia mà chưa được sự đồng ý của cha mẹ đứa bé, cũng chưa được sự chấp nhận của đại chúng trong Tăng đoàn, cha mẹ của đứa bé vào tự viện hỏi, các Tỳ kheo khác đều không biết sự việc nên nói chưa thấy đứa bé này. Thật ra, cha mẹ đứa bé đã phát giác ra con mình cạo tóc xuất gia rồi, do đó chê trách các thầy Tỳ kheo là người có đạo mà lại vọng ngữ. Vì thế Đức Phật quy định muốn độ người xuất gia, trước tiên cần phải được Tăng đoàn chấp nhận.
Số người được độ xuất gia cũng có hạn chế. Trong Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 có quy định như vầy: “Đệ tử thọ Tỳ kheo Cụ túc giới rồi, trong 12 tháng phải dạy cho người đệ tử ấy tất cả pháp của một Tỳ kheo, rồi sau đó mới được cho một đệ tử khác thọ Cụ túc giới, nếu chưa đủ 12 tháng chẳng được cho thọ giới. Sa di thọ đại giới rồi, sau đó mới được nhận một Sa di khác”. Đây là nói khi đệ tử thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, trong 12 tháng không được độ Sa di xuất gia, phải sau 12 tháng của người Sa di thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, mới được độ người Sa di thứ hai. Cũng trong quyển 8 của Kinh này nói: “Sa di ni thọ giới Thức xoa ma na ni, trong 2 năm, không được độ một Sa di ni khác. Sau khi Thức xoa ma ni thọ Cụ túc (Tỳ kheo ni) giới rồi mới được độ Sa di ni khác. Tỳ kheo ni cũng phải như Đại Tăng (Tỳ kheo), trong 12 tháng phải dạy đệ tử tất cả những pháp phải làm, sau đó nếu Thức xoa ma ni muốn thọ Cụ túc giới, nên cho phép thọ Cụ túc giới”. Theo đây, điểm tương đồng với Tỳ kheo là trong một năm chỉ có thể cho một người đệ tử thọ Cụ túc giới, nhưng có chỗ không tương đồng là trong 2 năm chỉ có thể độ một đệ tử Thức xoa ma na ni, một đệ tử Sa di ni.
Trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ, của Luật sư Đạo Tuyên nói: “Tứ Phần Luật không cho đồng thời nuôi hai Sa di”. Lại nói: “Trong Tăng Kỳ Luật không cho nuôi nhiều Sa di, chỉ cho nuôi từ một đến ba người là nhiều nhất”.
Quy định không cho đồng thời thế độ hai người Sa di xuất gia, có hai lý do:
1. Đã từng có một Tỳ kheo đồng thời nuôi hai Sa di, hai Sa di ấy do không hiểu biết, lại sinh tham dục đến đỗi hai người hành dâm với nhau. Vì phòng ngừa sự kiện tương tự như thế phát sinh, nên chỉ cho có một Sa di.
2. Đệ tử Sa di nhiều, sức dạy dỗ và cung cấp của thầy thế độ thường thường không thể lo tròn. Các đệ tử Sa di không được giáo dục và cung cấp đầy đủ chỉ làm lụy đến con em người và làm hại Phật giáo, vì thế chẳng được đồng thời nuôi nhiều Sa di. Song trong luật cũng có khai lệ: Nếu như vị thầy trí huệ cao sâu, phước lực thù thắng có đủ khả năng dạy dỗ dưỡng nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa di trở lên.
Trong luật có nói: “Bậc thầy phân làm 4 hạng:
1. Có pháp lại có cơm áo.
2. Có pháp mà không có cơm áo.
3. Có cơm áo mà không có pháp.
4. Không có pháp cũng không có cơm áo.
Vị thầy lý tưởng của đệ tử dĩ nhiên là vị Đại đức Tỳ kheo đã có pháp để học, lại có cơm áo để dùng. Đệ tử theo hầu dưới tòa của vị Tỳ kheo ấy chẳng nên ly khai. Nếu như Tỳ kheo có Phật pháp để học mà không có cơm áo để dùng cũng không nên ly khai, vì Phật pháp khó được, cơm áo dễ được. Nếu như Tỳ kheo chỉ có cơm áo nhưng không có Phật pháp thì chẳng đủ tư cách làm thầy. Đến như Tỳ kheo không có Phật pháp cũng không có cơm áo, quyết không nên theo thờ người ấy làm thầy.
Thật ra, người chỉ biết thâu nhiều đồ chúng xuất gia mà tự mình lại không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là có tội. Như trong Kinh Bồ tát ThiệnGiới quyển 4 nói: “Chiên đà la (người hạ tiện làm nghiệp ác) và kẻ đồ tể tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai thì không nhất định phải đọa trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Làm thầy mà không dạy răn đệ tử là phá hoại Phật pháp, nhất định sẽ bị đọa trong địa ngục. Vì danh dự mà chứa nuôi đồ chúng gọi là tà kiến, là đệ tử ma”.
Vậy mà người xuất gia ngày nay có được bao nhiêu vị thông hiểu hai bộ luật? Như muốn hợp với quy định, cơ hồ không ai dám độ người thế tục xuất gia. Nếu tự mình không thể giáo dục đệ tử, thì ít nhất cũng phải nhờ người khác thay mình giáo dục. Do đó, sự xuất hiện của Phật học viện là rất hợp thời.
III. NGHI THỨC CỦA SA DI XUẤT GIA
Sa di cần phải xuất gia, sau khi xuất gia và thọ thập giới, nếu chưa phải là một Pháp đồng Sa di, thì được gọi là Hình đồng Sa di.
Xuất gia có nghi thức xuất gia, các chùa tư ở Trung Quốc thâu nhận người xuất gia nhưng rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia, vì họ không biết phải cử hành nghi thức xuất gia như thế nào, cũng không hiểu được nghi thức xuất gia là đáng quý, đây là điều rất đáng tiếc!
Nghi thức tuy là sự biểu hiện hình thức, nhưng lại ảnh hưởng đến sự chuyển biến của tâm lý. Vì thế, không luận là một tôn giáo nào cũng đều có nghi thức của tôn giáo đó, cho đến tôn giáo tín ngưỡng của thời cổ sơ, tuy không có luân lý của tôn giáo, song họ lại lấy nghi thức tôn giáo làm trung tâm của tín ngưỡng. Nếu như chuyện phụng sự cho sự cử hành nghi thức mà không có giá trị luân lý của tôn giáo tín ngưỡng như là tôn giáo thời cổ sơ, đây là điều mà Phật giáo phản đối, như tăng lữ Bà la môn ở thời Đức Phật, chỉ biết nghi thức tôn giáo phiền phức mà không biết giá trị lý tánh của tôn giáo. Thậm chí Phật giáo của thời kỳ đầu vốn không có một nghi thức tôn giáo nào cả, nhưng về sau Tăng chúng đông nên cần phải có nghi thức. Nghi thức thế độ Sa di xuất gia hình thành sớm nhất cũng là từ việc La Hầu La xuất gia, cho đến toàn bộ giới luật đều do nơi sự cần thiết mà thành lập. Mỗi khi Đức Phật phát hiện ra một vấn đề liền làm một quy định cho đại chúng trong Tăng đoàn, thậm chí tùy theo sự phát triển của hiện thực mà phải đem quy định này tu chỉnh năm sáu lần, sau cùng mới thành một điều giới luật.
Nghi thức của Sa di xuất gia trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ có quy định rõ ràng, đó là do Luật sư Đạo Tuyên căn cứ vào tư liệu của Tứ Phần Luật Độ NhânKinh, Luận Thiện Kiến biên tập thành. Đầu tiên, nghi thức này là do các thầy Tỳ kheo tùy tiện tiếp thọ Sa di xuất gia mà không thể dạy bảo đúng như pháp. Người được độ cũng không thể sinh hoạt ở trong Tăng đoàn đúng như pháp, vì thế mới quy định: Phải do đại chúng trong Tăng đoàn họp lại một chỗ vì người được độ bạch nhị yết ma, nghĩa là vị Tỳ kheo độ người ở trước đại chúng của Tăng đoàn đủ oai nghi ba lần xin, người Yết ma của đại chúng trong Tăng đoàn đem ý của Tỳ kheo xin độ người này tuyên bố một lần trước đại chúng, rồi lại nói hai phen trưng cầu đồng ý (đây gọi là bạch nhị yết ma). Nếu như trong đại chúng không có sự dị nghị, thì kể như im lặng nhận là đồng ý, Tỳ kheo độ người mới được thế độ Sa di.
Nhưng, Sa di xuất gia phải có hai thầy: Một vị là thầy thế độ cũng là Hòa thượng truyền giới, còn một vị nữa là Giáo thọ A xà lê. Vì thế, người xuất gia phải trước lễ thỉnh Hòa thượng, rồi Hòa thượng thay thế cho Sa di thỉnh A xà lê.
Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải thiết lập sẵn hai tòa chuẩn bị cho hai thầy ngồi. Sau đó dùng nước thơm tắm gội, xong vẫn mặc y phục thế tục hướng về cha mẹ tôn trưởng của tục gia lạy từ biệt mỗi người, rồi quỳ xuống nói kệ:
Lưu chuyển tam giới trung
Ân ái bất năng thoát
Khí ân nhập vô vi
Chân thật báo ân giả
(Trôi lăn trong ba cõi
Ân ái không thể thoát
Bỏ ân nhập vô vi
Là chân thật báo ân).
Nói kệ xong, cởi bỏ y phục thế tục, mặc tăng phục, vào đạo tràng đến trước Hòa thượng chắp tay. Hòa thượng nói về các tướng bất tịnh của thân người như lông, tóc, móng, răng, da …, để cho người xuất gia ấy quán thân bất tịnh, như huyễn không thật, chán bỏ sinh tử mà quyết chí xuất gia. Kế đó, người xuất gia đến trước A xà lê, được Ngài dùng nước thơm rải lên đảnh và đọc kệ tán thán:
Thiện tai đại trượng phu
Năng liễu thế vô thường
Xả tục thú nê hoàn
Hy hữu nan tư nghì”
(Hay thay đại trượng phu
Hiểu thế gian vô thường
Bỏ tục hướng Niết bàn
Hy hữu khó nghĩ bàn).
Người xuất gia lễ thập phương chư Phật và tự nói kệ:
Quy y Đại Thế Tôn
Năng độ tam hữu khổ
Diệc nguyện chư chúng sinh
Phổ nhập vô vi lạc”.
(Quy y Đại Thế Tôn
Hay độ ba cõi khổ
Cũng nguyện các chúng sinh
Đều nhập vô vi lạc).
Tiếp theo, A xà lê liền cạo tóc cho người xuất gia ấy. Nếu có Điển lễ, thì đồng tụng bài kệ xuất gia:
“Hủy hình thủ chí tiết
Cát ái từ sở thân
Khí gia, hoằng Thánh đạo
Nguyện độ nhất thiết nhân”
(Hủy hình giữ chí tiết
Cắt ái từ mẹ cha
Bỏ nhà, hoằng Thánh đạo
Nguyện độ hết mọi người).
A xà lê phải để lại vài cọng tóc ở trên đảnh người xuất gia, sau đó người ấy đến quỳ trước Hòa thượng. Hòa thượng cầm dao cạo tóc hỏi: “Hiện tại vì ông cạo tóc trên đảnh được không?”. Sau khi người xuất gia đáp: “Vâng ạ!”, Hòa thượng bèn cạo tóc trên đảnh, tiếp theo truyền trao ca sa. Người xuất gia phải đội trên đảnh để thọ, thọ rồi giao lại cho Hòa thượng. Qua lại ba lần truyền trao ca sa, Hòa thượng bèn mặc cà-sa (y không có tướng điều) cho người xuất gia và nói kệ:
Đại tai! Giải thoát phục
Vô tướng phước điền y
Phi phụng trì giới hạnh
Quảng độ chư chúng sinh”.
(Lớn thay! Áo giải thoát
Y vô tướng phước điền
Mặc vâng làm giới hạnh
Rộng độ các chúng sinh).
Người xuất gia mặc cà-sa đi lễ Phật và đi quanh giới đàn ba vòng, tự nói kệ mừng:
Ngộ tai trị Phật giả
Hà nhân thùy bất hỷ?
Phước nguyện dữ thời hội
Ngã kim hoạch pháp lợi”.
(Nếu được gặp Đức Phật
Người nào không vui mừng?
Phước nguyện gặp đúng lúc
Con nay được pháp lợi).
Tiếp theo, người xuất gia lễ tạ hai thầy, rồi ngồi ở dưới tiếp thọ bà con ở trong gia đình thế tục đến chúc mừng.
Đây là nghi thức rất đơn giản, nếu như tỉnh lược chẳng làm, thật không biết nói sao! Nhưng trong Ký QuyTruyện quyển ba của Tam Tạng Nghĩa Tịnh lại càng giản đơn hơn, Ngài nói: “Tăng chúng chấp nhận rồi, Hòa thượng vì người xuất gia thỉnh A giá ly da (tức A xà lê) có thể ở chỗ vắng bảo người cạo tóc cạo râu cho người xuất gia, và bảo người ấy tắm rửa, rồi Thầy đích thân mặc áo quần để cho kiểm soát chẳng phải huỳnh môn. Kế đưa cho cái y bảo đội lên đầu mà thọ. Mặc pháp y xong liền trao bát cho. Đây gọi là xuất gia”. Ở đây có một điều là Hòa thượng mặc quần áo cho người xuất gia sau khi tắm gội xong là để kiểm tra người nam hoặc nữ, sinh lý có bình thường không? Nếu không bình thường, không được thế độ.
......................................

Chương 4. Sa Di Thọ Giới Và Trì Phạm Oai Nghi

I. THỨ LỚP CỦA SỰ THỌ GIỚI
Sa di xuất gia sau khi thay đổi trang phục, cần phải bàn đến vấn đề thọ giới. Sa di giới tuy lấy thập giới làm chủ yếu, nhưng trước tiên phải thọ tam quy ngũ giới rồi sau đó mới thọ thập giới. Ngũ Phần Luật và ThậpTụng Luật đều nói: “Trước truyền ngũ giới sau truyền thập giới”. Luận Tát Bà Đa cũng nói: “Trước dùng ngũ giới điều phục thân tâm, lòng tin ưa dần dần tăng thêm, mới truyền thập giới. Nếu không thọ ngũ giới mà lại thọ ngay thập giới, vị tăng truyền giới đắc tiểu tội. Nhân vì thất chúng giới là tiệm thứ giới phải thọ theo thứ tự, không được một phen tiến vào cửa Phật xuất gia liền thọ Sa di thập giới; đây là e ở trên tâm lý, người thọ giới chuẩn bị không kịp. Nhưng cũng có người mang ý kiến ngược lại, cho rằng ngũ giới là giới tại gia, đâu cần sau khi xuất gia lại phải thọ ngũ giới này. Kỳ thật, thọ thêm một lần chẳng phải là càng tốt sao? Trong luật đã có quy định như thế tại sao lại sợ phiền? Lại nữa, giới luật của Phật giáo là y theo quan niệm luân lý của xã hội loài người làm cơ sở xuất gia, giới có quan hệ đến luân lý và cũng là một thứ thăng hoa của yêu cầu ấy, nếu trước tiên không bắt đầu từ việc thọ ngũ giới, ấy là không có nền tảng. Căn cứ trong Tứ Phần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng Nhất nói: “Cạo tóc xong, trước thọ ngũ giới điều phục thân tâm, suốt sáu tháng hầu hạ chúng tăng, lòng tin ưa dần dần tăng thêm… Đợi mãn hạn, Hòa thượng cho thọ thập giới”. Đây là càng nghiêm khắc hơn, trước thọ ngũ giới, sau nửa năm mới thọ Sa di thập giới.
Nhưng tại Trung Quốc, tiểu Hòa thượng vào chùa tư xuất gia rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia đúng như luật, lại thiếu nghi thức thọ giới. Bất luận ngũ giới, thập giới, Tỳ kheo giới, toàn bộ đều giao vào tay của đạo tràng truyền giới chăm lo. Đạo tràng truyền giới của Trung Quốc cũng chỉ chiếu theo bộ sách “Truyền GiớiChánh Phạm” làm các việc xướng niệm, quỳ lạy trong mấy mươi ngày giống như diễn kịch y theo kịch bản làm một tuồng, kể là truyền giới đắc giới. Đạo tràng truyền giới chỉ chú ý sự quỳ lạy xướng niệm chỉnh tề đẹp mắt của số đông giới tử, mà không chú ý xem các giới tử có lãnh hội được ý nghĩa của sự thọ giới hay không? Có đắc giới hay không? Đến như tư cách của Giới sư có hợp với yêu cầu thấp nhất ở trong luật hay không, đó lại là điều không hỏi tới.
Nhân vì thầy thế độ của Trung Quốc không lo việc truyền giới căn cứ theo giới luật, thầy thế độ không phải là Thân giáo sư (Hòa thượng) mà chỉ đồng như Y chỉ sư hoặc Giáo thọ sư. Trên thực tế, Sa di thọ ngũ giới, thập giới là đều việc rất giản đơn. Tại sao các thầy thế độ của Trung Quốc lại bỏ một quyền lợi và nghĩa vụ thiêng liêng này?
II. NGHI THỨC THỌ GIỚI CỦA SA DI THẬP GIỚI
Trong quyển Truyền Giới Chánh Phạm của Đại sư Độc Thể biên đính, Sa di giới là trình tự của nghi thức sơ đàn. Nhân vì muốn dùng để thích hợp với sự truyền giới tập thể, thế nên phô trương hình thức rất lớn, nghi tiết cũng rất phiền phức. Kỳ thật, hình thức thọ Sa di thập giới không cần phải lớn đến thế ấy. Theo trong luật, truyền thọ Sa di thập giới chỉ cần một vị Hòa thượng, một vị Giáo thọ sư là đủ. Trong Tát Bà ĐaTỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Lúc thọ thập giới, Hòa thượng vắng mặt, cũng đắc thập giới. Nếu lúc thọ giới Hòa thượng chết, nếu nghe biết chết, giới thọ không đắc”. Đây là ý nói khi chúng ta thọ thập giới, Hòa thượng có thể vắng mặt. Nếu Hòa thượng đã chết mà không biết Ngài chết, người thọ thập giới vẫn được đắc giới. Lúc thọ thập giới Hòa thượng ở trước mặt, cố nhiên là đúng như pháp; đặc biệt Hòa thượng đi vắng, chỉ cần có một A xà lê cũng thọ được thập giới. Đây là một Phật sự cực kỳ giản đơn mà chư Tăng Trung Quốc thời gần đây lại xem nó là Phật sự lớn, thật là việc nhỏ mà xem thành việc lớn!
Trong thiên Sa di Biệt Hành của Hành Sự Sao, Luật sư Đạo Tuyên đối với sự biên đính nghi thức thọ thập giới cũng giản đơn như thế, phân ra làm ba môn:
1. Nhân duyên thọ giới: Như thỉnh được hai thầy, người xuất gia trước thọ tam quy ngũ giới rồi hỏi giá nạn (tội ác chướng giới).
2. Nói về giới thể: Dùng tam quy nạp thọ giới thể.
3. Nói về giới tướng: Tuyên nói điều văn của Sa di thập giới. Sau đó nói ngũ đức và thập số. Nghi thức thọ giới bèn viên mãn.
Nếu y chuẩn thông lệ của Phật sự Đại thừa, thêm phần phát nguyện hồi hướng là xong. Gần đây, Pháp sư Tục Minh chiếu theo trình tự này biên đính một nghi quỹ thọ thập giới rất sáng sủa và giản dị thiết yếu, hiện được in trên sách “Giới Học Thuật Yếu” do Pháp sư Tục Minh trứ tác, tôi xin chép ra đây để cùng tham khảo:
Cạo tóc và thọ ngũ giới rồi, người thọ giới ở trước Phật chí thành sám tội:
Trước kia đã tạo các nghiệp ác
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sinh ra
Nay đối trước Phật đều sám hối”.
(nói 3 lần, lạy 3 lạy)
Sau khi sám tội, người thọ giới đến trước Hòa thượng Giới sư bái lễ, rồi quỳ gối chắp tay. Giới sư bèn hỏi giá nạn:
- Thiện nam tử lắng nghe! Bây giờ là lúc chí thành, lúc nói thật. Ta nay sẽ hỏi ông, ông phải đáp đúng sự thật.
- Ông có phạm biên tội chăng?
Đáp: Không.
- Ông có ô Tỳ kheo ni (Ni thì ô Tỳ kheo Tăng) chăng?
Đáp: Không.
- Ông có phải tặc trụ nhập đạo chăng?
Đáp: Không.
- Ông có phải huỳnh môn chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết cha chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết mẹ chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết A la hán chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải phá tăng chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải ác tâm làm thân Phật ra máu chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải là phi nhân chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải là súc sinh chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải người hai hình chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông tên gì?
Đáp: Con tên…
- Hòa thượng của ông là ai?
Đáp: Đại Hòa thượng, thượng…, hạ…
- Ông bao nhiêu tuổi?
Đáp: Con… tuổi.
- Y bát của ông đầy đủ chăng?
Đáp: Đủ
- Cha mẹ (Ni thì thêm chồng) của ông có cho xuất gia không?
Đáp: Cho.
- Ông không phải là kẻ thiếu nợ người chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải là quân nhân, quân công hiện chức chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông là trượng phu có các bệnh cùi, ung thư, tiểu đường, điên cuồng (Ni thêm vào hai đường tiểu tiện hợp chung, âm đạo nhỏ, đại tiểu tiện thường rỉ chảy, nước mũi, nước miếng chảy) chăng?
Đáp: Không.
Hỏi xong giá nạn, Giới sư bèn nói với người thọ giới rằng:
- Lục đạo chúng sinh phần nhiều bị giới chướng, con người tuy được thọ, nếu có giá nạn cũng không được thọ. Ông không có giá nạn nhất định được thọ giới. Ông phải phát tâm tăng thượng thệ độ tất cả chúng sinh. Giới là cội gốc của các thiện; hay làm chánh nhân của tam thừa. Giới là của báu trong Phật pháp hay hộ trì thiện pháp khiến chánh pháp trụ lâu ở đời ông nên nhất tâm lãnh thọ. Hãy bạch theo tôi:
- Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Con nay theo Phật xuất gia, Ngài… làm Hoà thượng. Như Lai chí chân Đẳng giác là Thế Tôn của con (nói 3 lần, lạy 3 lạy, bèn đắc giới).
Dưới đây là tam kết:
Con là… quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, Ngài… làm Hòa thượng. Như Lai chí chân Đẳng chánh giác là Thế Tôn của con (nói 3 lần, lạy 3 lạy).
Đã phát giới rồi, tiếp theo là nói giới tướng và vấn đáp:
- Suốt đời không sát sinh là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không trộm cướp là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không được dâm là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không vọng ngữ là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không uống rượu là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa dầu thơm vào thân là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không nằm giường lớn cao rộng là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không ăn phi thời là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không cầm giữ vàng bạc vật báu là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Nói giới tướng xong, tiếp theo nói ngũ đức của Sa di. Kinh Thỉnh Tăng Phước Điền nói: Sa di phải biết ngũ đức:
1. Phát tâm xuất gia vì ôm lòng mộ đạo.
2. Hủy bỏ hình thể đẹp đẽ ứng hợp với pháp phục.
3. Cắt đứt vĩnh viễn sự thân ái vì không có thân sơ.
4. Liều bỏ thân mạng vì tôn sùng đạo.
5. Chí cầu đại thừa vì độ mọi người.
Sa di phải biết thập số:
1. Tất cả chúng sinh đều y vào thức ăn (phá ngoại đạo chủ trương tự nhịn đói)
2. Danh sắc (phá ngoại đạo tự nhiên)
3. Tưởng đau nhức (phá ngoại đạo chủ trương Phạm Thiên là nhân).
4. Tứ đế (phá vô nhân quả ngoại đạo).
5. Ngũ ấm (phá thần ngã ngoại đạo).
6. Lục nhập (phá nhất thức ngoại đạo).
7. Thất giác ý (phá ngoại đạo chủ trương không tu).
8. Bát chánh đạo (phá tà nhân ngoại đạo).
9. Cửu chúng sinh cư (phá sắc, vô sắc thiên chấp Niết bàn ngoại đạo).
10. Thập nhất thiết nhập (phá sắc không ngoại đạo).
Mười điều này quan hệ đến danh số pháp tướng, người sơ học không dễ gì hiểu nên tôi cũng lược bớt.
Sau cùng phát nguyện hồi hướng:
Thọ giới công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Nguyện khắp các chúng sinh chìm đắm
Chúng sinh mười phương tịnh độ Phật
Thập phương tam thế tất cả Phật
Hết thảy Bồ Tát Ma ha tát
Ma ha Bát nhã Ba la mật.
Phật sự thọ giới hoàn tất, người thọ giới lể tạ hai thầy và tiếp thọ sự đảnh lễ chúc mừng của thân bằng quyến thuộc và các cư sĩ xem lễ.
Hiện tại cần phải giải thích nội dung của giá nạn. Trong đó giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá tăng, làm thân Phật chảy ra máu, là tội ngũ nghịch ở trong thiên ngũ giới đã nói qua, không cần giảng lại.
Phi nhân là quỷ thần biến hóa. Súc sinh là rồng súc biến hóa. Hai hình là gồm cả hai bộ phận sinh dục của nam và nữ. Điều mười một từ “ông tên gì” trở xuống, văn nghĩa rõ ràng không cần giải thích. Cần phải giải thích là năm điều đầu tiên:
- Biên tội: Là chỉ người thọ Phật giới không xả giới mà lại phạm một trong bốn giới: Giết người, hành (tà) dâm, trộm cướp (5 tiền trở lên), vọng ngữ (tự xưng là Thánh hiền); bị bỏ ra ngoài biển lớn Phật pháp, không được thọ giới lại.
- Ô Tỳ kheo ni: Là chỉ cho người đã từng phá hoại giới phạm hạnh của Tỳ kheo ni thanh tịnh. Điều này ở trong Thiện Kiến Luật quyển 17 có nói kỹ càng: “Ở ba chỗ miệng, âm đạo, hậu môn” của Tỳ kheo ni hành dâm, đều gọi là hoại Tỳ kheo ni, nếu vuốt ve, xúc chạm Tỳ kheo ni thì không chướng xuất gia. Nếu đem y phục thế tục rồi ép Tỳ kheo ni mặc rồi hành dâm cũng gọi là hoại Tỳ kheo ni, chẳng được xuất gia. Nếu Tỳ kheo ni thích mặc y phục thế tục hành dâm thì không chướng xuất gia. Người đã ô hoại Tỳ kheo thanh tịnh cũng thành giới chướng.
- Tặc trụ nhập đạo: Là chỉ cho người lúc còn ở thế tục đã từng nghe trộm pháp yết ma của Tỳ kheo (hoặc Tỳ kheo ni), gọi là tặc trụ, không cho xuất gia.
- Phá nội ngoại đạo: Chỉ cho người vốn là ngoại đạo đến trong Phật pháp cầu độ xuất gia, sau trở lại làm ngoại đạo, bây giờ lại đến trong Phật giáo cầu xuất gia nữa với mục đích là tìm lấy khuyết điểm của Phật giáo, sưu tập tư liệu của Phật giáo để làm công tác phá hoại Phật giáo, vì thế không cho xuất gia.
- Huỳnh môn: Vốn là chức vụ hoạn quan trong cung cấm đời Đông Hán. Kinh Phật dùng danh từ này để chỉ cho người lúc nam lúc nữ, người chẳng phải nam chẳng phải nữ, người vừa nam vừa nữ. Nếu thu nhận họ xuất gia thì không thể xếp họ vào hàng ngũ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni được; vì thế, hạng người này không được xuất gia.
Thọ trì Phật giới đều có chướng giới, đều có điều kiện, nhưng điều kiện của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni rất nghiêm, yêu cầu rất cao, giới chướng rất nặng, giá nạn rất nhiều. Sa di, Sa di ni là cơ sở của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, vì thế trước khi thọ Sa di thập giới phải hỏi những giá nạn của sự xuất gia này.
III. PHẠM VI VÀ TRÌ PHẠM CỦA SA DI GIỚI
Đoạn trước đã nói qua, Sa di giới tuy chỉ mười điều nhưng đối với Cụ túc giới của Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) cũng được tùy tùng học tập và thủ trì. Ở chỗ này có một vấn đề là Sa di chưa thọ Cụ túc giới do đâu mà học Tỳ kheo giới? Vấn đề này dường như từ trước đến nay chưa có người hỏi tới. Tiểu chúng không được nghe thuyết giới và yết ma của đại chúng, vì thế Cổ đức phần nhiều đều nhận định người chưa thọ Cụ túc giới cũng không được duyệt học Đại giới, bằng không thì thành tặc trụ chướng thọ Đại giới, đã không được nghe cũng không được đọc, thì do đâu mà học tập? Cũng có người có thể từ trong sinh hoạt của Tăng đoàn thể nghiệm học hỏi, nhưng điều đó rốt cuộc không thành.
Thường thường Tỳ kheo mỗi nửa tháng nghe tụng giới một lần, cũng phải trải qua thời gian 5 năm mới có thể học tốt về giới luật, hà huống là Sa di. Vì thế tôi nghĩ, nguyên nhân người chưa thọ Cụ túc giới không được nghe giới, chủ yếu là phòng ngừa, nhân vì có Tỳ kheo phạm giới trong lúc thuyết giới yết ma phát lồ sám hối xuất tội, bị tiểu chúng hoặc người tục nghe rồi sinh ra tội khinh khi phỉ báng. Đến như điều văn giới tướng của Đại giới ít nhất đối với Sa di là có thể đọc, ngoại đạo và người tục không có chánh tín không nên cho họ đọc. Người thế tục ở các quốc gia Nam truyền có thể nghiên cứu Đại Luật, nguyên nhân khai lệ có lẽ cũng là căn cứ vào một quan niệm này.
Nhưng trong Tăng Kỳ Luật quy định Tỳ kheo nếu nói tên của ngũ thiên thất tụ cho người chưa thọ Cụ túc giới nghe, phạm tội Việt tỳ ni. Đây là một căn cứ có quyền lực, Tỳ kheo không nên cổ động tiểu chúng và người thế tục xem Đại Luật.
Nhưng, Cụ túc giới đối với Tỳ kheo, tỳ kheo ni phân làm ngũ thiên thất tụ, cũng là 7 loại tội hạnh của 5 thứ tội danh; đối với Sa di, Sa di ni chỉ có một thứ tội danh gọi là Đột kiết la, phạm tội Đột kiết la của Đại giới là Đột kiết la, phạm tội Ba la di của Đại giới cũng là Đột kiết la. Duy phạm Đột kiết la của 4 giới căn bản đầu của thập giới đáng bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn gọi là Diệt tẩn. Nếu phạm giới “Khởi ác kiến” (cho rằng Phật nói hành dâm không phải là pháp chướng đạo) trong tội Ba dật đề của Đại giới, Tỳ kheo khuyên can Sa di ấy ba lần mà vẫn không bỏ ác kiến, cũng bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn. Nếu phạm các giới khác đều có thể dùng Đột kiết la sám trừ.
Nhưng căn cứ vào Thiện Kiến Luật quyển 17 nói: Sa di có 10 điều ác phải bị diệt tẩn. Những gì là mười? Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, dối trá, uống rượu, hủy báng Phật Pháp Tăng, tà kiến, hoại Tỳ kheo ni. Duy phạm 9 điều ác trước, nếu chí thành sám hối, khẩn thiết sửa lỗi, vẫn được thọ Tỳ kheo giới. Người “hoại Tỳ kheo ni” trong giá nạn là phạm 4 điều ác đầu trong 10 điều ác này, ở đây dường như nói: Phạm 4 biên tội, nếu chí thành khẩn thiết sửa lỗi tuy phạm biên tội vẫn có thể thọ Tỳ kheo giới.
Tiểu chúng tuy học Đại giới, nhưng cũng không phải là tùy học toàn bộ. Trong Thọ Giới Quy Tắc ghi ở KýQuy Truyện quyển 3 của Tam Tạng Nghĩa Tịnh nói: “Chỉ cần nơi Luật tạng không phạm 12 điều. Những gì là mười hai?
1. Không phân biệt y
2. Lìa y ngủ
3. Nhóm lửa
4. Túc thực
5. Hại sanh chủng
6. Bỏ đồ bất tịnh trên cỏ tươi
7. Tự leo lên cây
8. Cầm nắm vật báu
9. Ăn đồ ăn dư cách đêm
10. Đào đất
11. Không thọ thực
12. Nhổ cỏ chặt cây”.
Lại nói: “12 điều này hai chúng Sa di, Sa di ni không trì không lỗi, còn chánh học nữ không trì 5 điều sau thì phạm”.
Ở đây cần phải giải thích thêm:
1. Tỳ kheo có 3 y, Tỳ kheo ni có 5 y, vì thế có phận biệt trong trường hợp nào nên mặc đắp y nào. Sa di chỉ có 2 mạn điều; một là y trên, hai là y dưới, không có phân biệt.
2. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni không được lìa 3 y ngủ, chủ yếu tại đại y. Sa di không có đại y vì thế không phạm.
3. Tỳ kheo không được nhóm lửa nấu ăn, Sa di có thể nhóm lửa nấu cháo cho Tỳ kheo bệnh ăn cho đến nấu cơm cho đại chúng dùng.
4. Tỳ kheo giả sử sau khi đã ăn bữa ăn chính từ sớm rồi, vẫn chưa đến chính ngọ, thí chủ có đem đồ ngon đến cúng dường, trong bụng có thể ăn thêm cũng không được ăn nữa, đây gọi là “Túc thực”. Nếu như nhất định muốn ăn phải nhờ một Tỳ kheo khác chưa ăn no làm pháp dư thực bằng cách nhờ Tỳ kheo kia ăn trước một miếng rồi sau đó mình mới được ăn. Sa di tuổi nhỏ không chịu đói nổi vì thế không bị sự hạn chế của túc thực.
5. Sanh chủng là hạt giống và ngũ cốc, Tỳ kheo không được làm tổn hại, Sa di có thể thay đại chúng xử lý.
6. Bất tịnh là chỉ cho các vật nhơ bẩn như đại tiểu tiện và đàm dãi.
7. Leo cây cao làm mất oai nghi.
Hai điều trên được chế định là phòng ngừa người tục chê bai.
8. Tỳ kheo chẳng được cầm nắm vật báu, Sa di có thể thay đại chúng cầm giữ.
9. Đồ ăn còn thừa để cách đêm gọi là tàn thực. Tỳ kheo chẳng được ăn lại, Sa di có thể ăn lại.
10. Tỳ kheo không được đào đất và sai người đào đất. Sa di có thể vì đại chúng, vì Tam bảo đào đất.
11. Các vật thực không do người khác đưa cho, Tỳ kheo không được ăn. Sa di không bị sự hạn chế này và làm người dâng vật thực cho Tỳ kheo.
12. Mầm cây là loại cỏ cây, cỏ cây là chỗ quỷ thần nương ở, vì thế, Tỳ kheo không nhổ cỏ, không chặt cây. Sa di không bị sự hạn chế này.
Chánh học nữ là dịch ý của Thức xoa ma ni, ở trong 12 điều này, 7 điều trước không trì không phạm, đây là chỗ bất đồng với Sa di và Sa di ni.
IV. OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI
Quan hệ đến Sa di và Sa di ni, trong Đại Chánh Tạng có 5 bộ sách sau đây có thể dùng nghiên cứu tham khảo:
1. Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi (1 quyển)
2. Sa Di Oai Nghi (1 quyển)
3. Kinh Phật Thuyết Sa Di Thập Giới Nghi Tắc (1 quyển)
4. Sa Di Ni Giới Kinh (1 quyển)
5. Sa Di Ni Ly Giới Văn (1 quyển)
Nhưng vì nội dung của năm bộ sách này trước sau trùng lặp, không có cương lãnh thống nhất, người sơ học rất khó nắm được đầu mối, vì thế cuối đời nhà Minh có Đại sư Liên Trì chỉnh lý và biên tập thành một quyển Sa Di Luật Nghi Yếu Lược, về sau lại có Ngài Hoằng Tán làm chú thích thêm. Cuối đời nhà Minh còn có Đại sư Ngẫu Ích biên tập thành quyển Sa Di ThậpGiới Oai Nghi Lục Yếu. Quyển trước kỷ càng,quyển sau giản dị sáng sủa, mỗi quyển đều có chỗ hay, đều có giá trị, đáng cho chúng ta tham khảo duyệt học. Hiện nay Đài Loan Ấn Kinh Xứ có bản đơn hành lưu động.
Trong Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi nói: “Sa di 72 oai nghi gồm có 14 việc”. Trong Sa Di Ni Ly Giới Văn nói: “Oai nghi 70 sự kiện”. Trừ những oai nghi có quan hệ riêng cho nam nữ bất đồng ra, oai nghi của Sa di, Sa di ni phần nhiều tương đồng. Nay tôi xin đem một, vài oai nghi được xem là trọng yếu phân làm hai tổ nam nữ trích lục như sau:
A. Oai nghi của Sa di
1. Pháp thầy dạy Sa di: Phải kính Đại Sa môn, khôngđược kêu tên của Đại Sa môn. Lúc Đại Sa môn thuyết giới kinh không được lén nghe. Không được tìm điều hay dở của Đại Sa môn. Đại Sa môn có lỗi lầm không được nói với người khác. Không được nói xấu Đại Sa môn khi vắng mặt. Không được khinh dễ cợt cười cợt trước Đại Sa môn và nhái theo ngôn ngữ hình tướng của Ngài. Thấy Đại Sa môn phải lập tức đứng dậy, trừ khi đọc kinh, ăn cơm, công tác. Giữa đường gặp Đại Sa môn, phải đứng nép qua một bên. Nếu lúc chơi đùa thấy Đại Sa môn liền phải ngưng ngay.
2. Pháp Sa di thờ thầy: Phải xem thầy như cha, phảidậy sớm. Muốn vào cửa phòng thầy trước phải búng ngón tay ba lần. Phải chuẩn bị đồ súc miệng rửa mặt cho thầy. Phải rải nước khi quét đất. Phải xếp y phục, dọn dẹp lau quét giường chiếu cho thầy. Thầy đi chưa về, không được bỏ phòng ra đi. Nếu có lỗi thầy răn dạy không được cãi lại, phải cúi đầu lắng nghe lời thầy và nghĩ nhớ để vâng làm. Đi ra phải đóng cửa lại cẩn thận.
3. Pháp Sa di bạch thầy: Ngoại trừ 5 việc: Súc miệng,uống nước, đại tiện, tiểu tiện và lễ kính tháp Phật trong vòng 49 tầm (mỗi tầm 8 thước tàu) của phạm vi kiết giới, có làm việc gì đều phải bạch với thầy.
4. Pháp Sa di nhập chúng: Phải học cho rõ, phải tậplàm việc. Phải vì chúng phục vụ. Phải vì Đại Sa môn mà đưa vật dụng. Phải lễ Phật. Phải lễ Tỳ kheo Tăng. Phải chào hỏi bậc Thượng tọa, Hạ toạ. Phải nhường chỗ ngồi cho bậc Thượng tọa, không được tranh dành chỗ ngồi, không được ở trên tòa ngồi kêu gọi cười giỡn. Không được luôn luôn đứng dậy đi ra ngoài. Nếu trong chúng có gọi đến tên mình thì liền dạ. Tỳ kheo chấp sự có sai làm việc gì trước phải bạch thầy.
5. Pháp Sa di làm trị nhật: Phải tiếc vật của chúngTăng. Chẳng được ở giữa đường làm việc. Làm việc chưa xong chẳng được giữa chừng bỏ đi. Đang lúc làm việc, nếu bị thầy gọi phải thưa cho Tỳ kheo chấp sự biết. Phải phục tùng sự chỉ đạo và giáo lệnh của thầy Tỳ kheo chấp sự, chẳng được trái nghịch.
6. Pháp Sa di vào phòng tắm: Phải cúi đầu vào nhàtắm. Trong nhà tắm phải tránh chỗ của bậc Thượng toạ. Không được đùa giỡn tạt nước lên nhau. Không được tạt nước cho lửa tắt. Không được cười giỡn. Không được làm hư hại vật dụng trong nhà tắm. Không được dùng nước quá phí. Không được để nước và xà bông đổ vào hồ tắm.
7. Pháp Sa di vào cầu xí: Muốn đại tiểu tiện phải điliền. Lúc đi, không được liếc ngó hai bên. Đến cửa cầu xí trước hết phải búng tay ba lần cho người bên trong biết, chẳng được hối thúc người trong cầu ra. Bước lên cầu tiêu rồi lại búng ngón tay ba lần nữa để cho quỷ thần ăn phẩn biết mà tránh. Không được cúi đầu nhìn xuống bộ phận sinh dục. Không được rặn lớn tiếng. Không được nhổ nước miếng đàm dãi làm dơ vách. Không được vẽ lên vách hoặc dưới đất. Không được ngồi lâu trong cầu xí. Trong lúc đi cầu xí gặp người không làm lễ, phải lánh đường đi. Lúc ra khỏi cầu xí phải rửa tay, không được cầm đồ vật. Phải lấy nước rửa đường đại tiểu tiện, gọi là tẩy tịnh. Không tẩy tịnh không được lễ Phật. Phải dùng nước trong súc miệng, không súc miệng chẳng được tụng kinh.
8. Pháp Sa di lễ thầy: Thầy tọa thiền không nên làmlễ, thầy kinh hành không nên làm lễ, thầy đang ăn không nên làm lễ, gặp bên tay trái thầy không nên làm lễ, không nên làm lễ thầy nằm bệnh, đất nhơ không nên làm lễ.
9. Pháp Sa di vào nhà cư sĩ: Đến cửa nhà, phải tự xétoai nghi của mình, cũng không được thấy người mà làm oai nghi. Nhà không có người nam không được vào cửa. Nhà có thờ Phật, lúc bước vào, trước tiên phải lễ Phật. Vào nhà, nếu ngồi, trước phải xem: Chỗ có binh khí không nên ngồi, chỗ có vật báu không nên ngồi, chỗ có y phục trang sức phụ nữ không nên ngồi. Không được ngồi nói chuyện một mình với người nữ ở chỗ có ngăn che. Không được cố đùa giỡn với trẻ con. Không được nói nhiều, không được đùa cợt. Phải ngồi yên lặng, phải ngồi ngay thẳng. Không được kết thân với cư sĩ làm cha mẹ chị em.
10. Pháp Sa di vào chợ: Phải cúi đầu đi thẳng đến nơivà đi thẳng về. Không được cùng người nữ trước sau đi theo nhau. Không được đi ngó qua ngó lại. Không được cố nhìn người nữ. Không được đến xem chỗ náo nhiệt. Mua đồ không được tranh dành đắt rẻ, không được ngồi trong cửa hàng của người nữ. Nếu bị người dành phải khéo lánh đi, đừng theo trả giá. Nếu đã mua vật ở chỗ A đắt, chỗ B tuy rẻ cũng không được bỏ chỗ A mà mua chỗ B, làm cho chỗ A sinh giận.
11. Pháp Sa di vào chùa Ni: phải có đông bạn vàochùa Ni. Vào chùa trước phải lễ Phật. Nếu không có chỗ dành riêng cho khách thì không được ngồi. Không được thuyết pháp không hợp thời. Nếu từ chùa Ni trở về, không được nói sự đẹp xấu của chùa Ni. Không được thư từ qua lại với Ni. Không được nhờ may vá và giặt giũ quần áo.
B. Oai nghi của Sa di ni
1. Pháp Sa di ni đi ra ngoài: đi ra ngoài không được đimột mình, phải cùng với Đại Ni hoặc 2, 3 Ni cùng đi. Nếu không có Ni phải cùng với thân tín Ưu bà di đồng đi. Phải nhìn thẳng 6 thước (2m) phía trước nà đi. Không được đi cùng người nam hoặc theo sau đi chung đường.
2. Pháp Sa di ni ngủ: Không được nằm ngửa, nằm sấp,nằm nghiêng bên trái; phải nằm kiết tường nghiêng bên phải. Không được để lộ vai, ở trần. Không được đặt tay ở chỗ âm hộ.
3. Pháp Sa di ni vào nhà cư sĩ: Không được vào phòngcủa phụ nữ nói cười. Không được ngồi ăn dưới bếp. Không được cùng người giúp việc nói chuyện riêng. Không được đi một mình đến cầu xí. Không được lên chỗ cầu xí của người nam. Không được lấy tay trao đồ vật cho người nam, phải để ở trên đất (hoặc chỗ thích đáng) để người đó tự lấy. Không được đùa giỡn với trẻ con.
4. Pháp sa di ni vào nhà tắm: Không được lõa lồ tắmchung với Ưu bà di. Không được bàn luận về việc tắm rửa. Không được cùng Ưu bà di kỳ cọ lẫn nhau. Không được tắm chung với trẻ con. Không được dùng nước rửa của người khác đã rửa. Không được tự nhìn chỗ kín của thân thể.
5. Pháp Sa di ni vào chùa tăng: Phải theo Đại ni hoặc2, 3 người cùng đi. Vào chùa trước phải bạch Trị sự tăng. Không được cùng Tỳ kheo ngồi chung một nhà. Không được cùng Tỳ kheo ngồi chung một tòa. Không được cùng Tỳ kheo cười đùa. Không được ngồi nằm trong mền nệm của Sa di. Không được cùng Tỳ kheo ăn chung bát. Không được mặc lầm y Tỳ kheo.
Trên đây là tóm lược oai nghi của Sa di, Sa di ni, thật ra cũng là toát yếu oai nghi của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Sa di ni cũng phải đồng học những phần chung của oai nghi Sa di. Ngày lục trai, cư sĩ cũng nên học trì oai nghi Sa di. Đây là điều cần phải biết.
............................................

Chương 5. Thức Xoa Ma Ni

I. TẠI SAO GỌI LÀ THỨC XOA MA NI?
Thức xoa ma ni là dịch âm của Phạn văn Siksamànà. Trung Quốc có nhiều cách dịch, như Thức xoa, Thức xoa ma na, Thức xoa ma na ni, Thức xoa ma ni, cũng đều chỉ cho một tên gọi này. Về ý nghĩa của nó, cựu dịch là Học pháp nữ, tân dịch là Chánh học nữ.
Đây là Phật chế người nữ xuất gia phải trải qua quá trình Thức xoa ma ni này trước khi thành Tỳ kheo ni. Nhưng Thức xoa ma ni đã bị Phật giáo Trung Quốc từ lâu bỏ quên. Vì thế, thời gian gần đây đa số Phật giáo đồ đối với ý nghĩa của Thức xoa ma ni đã không hiểu, lại còn có hiểu lầm nữa. Có người cho rằng người nữ từ bé để tóc tu hành ở trong chùa là Thức xoa ma ni. Kỳ thật không đúng, người nữ chưa cạo tóc, chưa đổi trang phục chỉ là một lọai cư sĩ. Cư sĩ phân làm bốn thứ nam nữ tại gia và tại chùa. Nam nữ tại gia gọi là cận sự nam, cận sự nữ. Nam nữ cư sĩ tại chùa gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ. Vì thế, trinh nữ để tóc tu hành tại chùa là một lọai cận trụ nữ. Họ chỉ là một trong bốn chúng cư sĩ chưa tiện nhập vào giai đọan của thân phận năm chúng xuất gia. Trung Quốc hiện có những người nữ ở trong chùa vẫn để tóc mặc đồ thế tục tự cho mình là người xuất gia, đó là do họ chẳng hiểu luật chế của Phật. Thật ra, họ vẫn còn là thân phận của người thế tục. Nước Thái Lan thuộc Nam truyền Phật giáo hiện tại không có phái nữ xuất gia, nhưng vẫn cho người nữ cạo tóc đắp mạn y ở trong tự viện tu hành, họ không có địa vị ở trong người xuất gia, vẫn y như cũ là thân phận người thế tục. Nhưng họ có thể cạo tóc đắp mạn y, hình tướng đã đồng Sa di ni.Điều này so với người Trung Quốc ở tự viện không cạo tóc cũng không đổi trang phục lại tự xưng là người xuất gia, thật là hiện tượng đáng được kính phục, đáng được noi theo.
Thức xoa ma ni là quá trình phải trải qua giữa Sa di ni và Tỳ kheo ni. Người nữ xuất gia nếu trước không trải qua hai giai đoạn Sa di ni và Thức xoa ma ni thì không thể tiến vào địa vị Tỳ kheo ni. Người nam xuất gia chỉ có hai giai đọan Sa di và Tỳ kheo. Người nữ xuất gia nhiều hơn người nam một giai đọan Thức xoa ma ni. Đây chẳng phải Đức Phật kỳ thị phái nữ hoăc thiên vị phái nam, chính vì do sự cần thiết của sự thật, phải thêm một giai đọan Thức xoa.
Người nữ xuất gia thuở ban đầu là y cứ vào Bát kỉnh pháp thành Tỳ kheo ni, không trải qua Sa di ni, cũng không có Thức xoa ma ni. Về sau, người nữ xuất gia dần dần đông, phần tử phức tạp, trình độ bất nhất; có những người nữ xuất gia không bao lâu lại độ người khác xuất gia; do đó, vấn đề của thầy trò và yêu cầu của thầy trò phát sinh, vì thế, tối thiểu phải 2 năm giới lạp và thông hiểu giới luật mới có thể làm thầy độ ni. Có những Tỳ kheo ni độ người nữ tại tục xuất gia, một khi xuất gia liền cho thọ Tỳ kheo ni giới thành Tỳ kheo ni. Nhưng sau đó không được bao nhiêu ngày, người nữ ấy không quen với sinh họat xuất gia lại tự động hoàn tục một cách nhanh chóng. Do đó, yêu cầu kỳ hạn của quá trình xuất gia cũng phát sinh, vì thế cũng cần phải thọ Sa di giới. Lại có Tỳ kheo ni độ người nữ xuất gia nhưng chưa biết họ đã kết hôn hay chưa, không biết có mang thai hay không, sau khi họ xuất gia thành Tỳ kheo ni rồi lại có người bụng to ra mà sinh em bé, khiến cho người đời phỉ báng cho rằng Tỳ kheo ni phạm giới dâm. Do đó, Đức Phật phải thêm một giai đoạn Thức xoa cho người nữ xuất gia.
Giai đoạn của Sa di ni không bị thời gian hạn chế. Giai đoạn của Thức xoa ma ni hạn kỳ 2 năm vì trong thời gian 2 năm này: Một là rèn luyện tính tình của người nữ cho họ quen dần với sinh họat xuất gia. Hai là dùng để quan sát sinh lý của người nữ xem có thọ thai hay không. Có người cho rằng dùng thời gian 2 năm để quan sát người nữ có thai hay không dường như quá dài. Kỳ thật nói 2 năm, chứ trong Tăng Kỳ Luật quyển 39 nói: “Hai năm là 2 mùa mưa”, nghĩa là nói từ đầu mùa mưa năm nay đến cuối mùa mưa sang năm. Ở Trung Quốc, có thể giải là qua 2 cái tết chứ chẳng phải tròn đủ 2 năm. Tỷ như từ ngày 30 tháng chạp năm nay đến ngày mùng một tháng giêng sang năm; kể là 2 năm kỳ thật chỉ là 1 năm lẻ 2 ngày mà thôi, dùng thời hạn như thế để kiểm tra người nữ có thai hay không, đó chẳng phải là việc thích đáng sao? Đương nhiên, nếu dùng dụng cụ khoa học của ngày nay kiểm nghiệm đâu cần phải qua thời gian dài như thế. Duy nhìn về phương diện làm cho người nữ quen dần với sinh hoạt xuất gia, giai đoạn 2 năm Thức xoa vẫn là cần thiết, như trong Tứ Phần Giới BổnTùy Giảng Biệt Lục của đại sư Hoằng Nhất nói:”Lục pháp tịnh tâm, hai năm tịnh thân. Trước là thử xem cái duyên thọ Đại giới, sau là để biết có thai hay không?”
II. TUỔI CỦA THỨC XOA MA NI
Về tuổi của Thức xoa ma ni, các bộ Quảng Luật biên chép đại khái đồng nhau, ước lược có thêm bớt. Trong Tứ Phần Luật quyển 48 nói :”Cho đồng nữ 18 tuổi, 2 năm học giới; tuổi dù 20 ở trong Tỳ kheo ni tăng thọ Đại giới. Nếu 10 tuổi đã từng lấy chồng, cho 2 năm học giới đủ 12 tuổi cho thọ đại giới. Đây là nói với người nữ chưa có chồng, 18 tuổi xuất gia thọ Sa di ni thập giới rồi tiếp theo trải qua giai đoạn 2 năm. Thức xoa ma ni để tiện học tập giới luật trọng yếu của sinh hoạt xuất gia, đến khi đủ 20 tuổi thọ Tỳ kheo ni giới hoàn thành giai đọan cao nhất của người nữ xuất gia. Nếu thiếu phụ 10 tuổi đã có chồng (người nữ ở Ấn Đô phát dục rất sớm, trên dưới 10 tuổi cưới gả, không phải là chuyện lạ ít có) cũng chỉ trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa, người này đến 12 tuổi được thọ giới Tỳ kheo ni trở thành Tỳ kheo ni. Người nữ so với người nam chống trưởng thành hơn, tuy là thiếu phụ tuổi 12, thể chất và trí năng của họ có thể bằng với nam thành niên 20 tuổi. Vì thế trong luật cho người nữ đã từng lấy chồng đến 12 tuổi được thọ Tỳ kheo ni giới chứ chưa từng có ghi cho người nam dưới 20 tuổi được thọ Tỳ kheo giới.
Trong những Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí sôTỳ nại da quyển 18 ghi chép có chút bất đồng. Phật nói :”Nếu người nữ… tuổi đủ 12 hoặc 18 phải cho 2 năm Chánh học pháp mới truyền Cận viên (Tỳ kheo ni )”. Chỗ này nói 12 là bắt đầu 12 tuổi phải học pháp Thức xoa ma ni 2 năm, đến khi 14 tuổi mới thọ Tỳ kheo ni giới. Đây cùng với sự quy định của Tứ PhầnLuật nói từ 10 tuổi, trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa, đến 12 tuổi thọ Tỳ kheo ni giới, sai biệt nhau 2 năm ! Rốt cuộc sự ghi chép nào đúng hơn; cũng khó biết! Tôi nghĩ ở Ấn Độ thường sử dụng sự ghi chép của Luật Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộvẫn còn bị coi là quá sớm, vì người nữ Trung Quốc 12 tuổi lấy chồng là điều ít thấy.
Sự ghi chép của Luận Tát Bà Đa đồng với Tứ PhầnLuật:”Tuổi 12 được thọ Cụ túc giới, vì quen chịu nhà chồng sai khiến, nên chịu đựng nổi cái khổ của sinh hoạt xuất gia”.
Sự ghi chép của Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 đồng với Luật Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, nếu người nữ 10 tuổi đã có chồng, độ cho xuất gia thọ Sa di giới, sau khi đủ 2 năm được thọ Thức xoa ma ni giới, sau khi mãn 2 năm được thọ Cụ túc giới.
Còn có một vấn đề là trong luật chỉ nói người nữ đã có chồng hoặc chưa có chồng, từ 18 tuổi về trước, nếu muốn xuất gia trước phải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa ma ni, chứ chưa nói đến người nữ từ 20 trở lên xuất gia phải như thế nào? Căn cứ vào lý suy ra người nữ từ trên 20 tuổi đến dưới 58 tuổi, nếu đến trong Phật giáo cầu độ xuất gia cũng đều trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa. Bằng không thì hai vấn đề: Tập cho quen sinh họat xuất gia và xem có thai hay không, vẫn y nhiên tồn tại.
III. NHỮNG GÌ LÀ PHÁP THỨC XOA MA NI?
Thứ bậc của Thức xoa ma ni tuy ở trên Sa di và Sa di ni, nhưng giới phẩm của họ vẫn là Sa di ni giới. Tuy ở trong Ni tăng bạch nhị yết ma (ở trong Ni tăng đòan trước báo cáo một lần, rồi tuyên bố hai phen để trưng cầu đồng ý, gọi là nhất bạch nhị yết ma, gọi tắt là bạch nhị yết ma) truyền cho lục pháp, nhưng không có giới thể riêng để đắc. Vì thế, trong Nghiệp Sớ nói: “Học pháp nữ này không có giới luật, chỉ thọ biệt giáo thứ bậc hơn Sa di ni”. Nhân vì thọ Lục pháp nên thứ bậc hơn Sa di ni. Trong các thứ bậc của giới, đây là thứ bậc rất đặc thù, các thứ bậc giới khác đều có giới thể để đắc, duy có một thứ bậc này chỉ được thêm lục pháp mà thôi. Lục pháp này được gọi là pháp Thức xoa ma ni.
Những gì là pháp Thức xoa ma ni? Trừ nghiêm trì Sa di thập giới ra, còn có thêm lục pháp là:
1. Cùng với thân người nam (từ mí tóc trở xuống đầu gối trở lên) có tâm nhiễm ô xúc chạm người nam thành niên và biết người ấy đối với mình có tâm nhiễm ô.
2. Trộm của người 4 tiền trở xuống: Trị giá 4 tiền trở xuống cho đến một cây kim ngọn cỏ.
3. Cố giết mạng súc sinh: Cố ý giết hại dị loại chúng sinh khiến cho nó chết.
4. Tiểu vọng ngữ: Nói trái lại với điều mình thấy, nghe, hay, biết.
5. Ăn phi thời: Bóng mặt trời quá giữa ngọ mà ăn.
6. Uống rượu: Cho đến một giọt dính vào môi
Thức xoa ma ni phạm 4 giới trước của Sa di thập giới (4 tội căn bản) bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn (diệt tẩn). Phạm bất cứ một pháp nào trong lục pháp đã nêu trên phải bạch nhị yết ma lại và thọ lại lục pháp 2 năm. Nếu phạm các giới khác, chỉ gọi là khuyết hạnh, hối cải liền trừ.
Trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí sô Tỳ nạida quyển 8 có quy định về lục pháp hoặc lục tùy pháp của Thức xoa ma ni, nội dung cùng với Tứ PhầnLuật quy định có hơi bất đồng. Nay chép lại như sau:
A. Lục pháp
1. Không được đi đường một mình
2. Không được qua sông một mình
3. Không được chạm vào thân người nam
4. Không được ở chung với người nam
5. Không được làm mai mối cưới gả
6. Không được che giấu Tỳ kheo ni phạm tội trọng
B. Lục tùy pháp
1. Không được cầm vàng bạc thuộc về của mình.
2. Không được cạo lông chỗ kín (dưới nách và đường tiểu tiện).
3. Không được đào đất chỗ ẩm thấp hay sinh cỏ cây.
4. Không được cố ý nhổ cỏ chặt cây.
5. Không được do người đưa mà tự mình lấy thức ăn để ăn.
6. Không được ăn đồ ăn đã xúc chạm.
Trong Tăng Kỳ Luật quyển 39 nói:” Thức xoa ma ni 2 năm phải tùy thuận học 18 việc”. Nhưng trong Tăng KỳLuật chưa liệt kê lục pháp và cũng chưa liệt kê lục tùy pháp. Muời tám việc là:”Ăn uống dưới tất cả Tỳ kheo ni, trên tất cả Sa di ni. Đối với Thức xoa bất tịnh thực, Tỳ kheo ni tịnh. Đối với Tỳ kheo ni bất tịnh, đối với Thức xoa cũng bất tịnh. Được cùng Tỳ kheo ni ngủ đồng một phòng ba đêm, cùng Sa di ni cũng chỉ ba đêm. Được Tỳ kheo ni trao thức ăn, trừ hỏa tịnh năm thứ sanh chủng rồi, tự mình nhận thức ăn từ Sa di ni. Tỳ kheo ni không được nói với Thức xoa về Ba la đề mộc xoa (danh tự của giới ngũ thiên thất tụ) của Tỳ kheo ni, chỉ được nói không được dâm, không được trộm, không được giết người. Không được nghe trộm Bố tát, tự tứ. Đến ngày Bố tát, tự tứ, đến trước Thượng tọa, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, thưa như vầy: “Con…..thanh tịnh ức niệm trì”. Nói ba lần như vậy rồi lui ra. Bốn Ba la di sau (Tỳ kheo ni gồm có 8 Ba la di, so với Tỳ kheo ni thì còn có thêm 4 Ba la di sau) là:
1. Cùng với người nam có tâm nhiễm ô xúc chạm thân thể từ nách trở xuống, đầu gối trở lên.
2. Cùng với người nam có tâm nhiễm nắm tay nắm áo vào chỗ khuất, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện, cùng đi, thân dựa vào nhau, cùng hẹn hò.
3. Biết Tỳ kheo ni có tội trọng mà che giấu không nói cho người biết.
4. Thuận tòng cúng dường Tỳ kheo bị tăng cử tội mà không cho cộng trụ.
Nếu phạm một giới nào phải thọ lại lục pháp. Nếu phạm 19 Tăng già bà thi sa trở xuống (Tăng Kỳ Luật, Tỳ kheo ni có 19 giới Tăng tàn, Tứ Phần Luật chỉ có 17 điều ) tất cả làm pháp sám hối Đột kiết la. Nếu phá 5 giới: “Ăn phi thời, ăn vặt, thường nhận vàng bạc và tiền, uống rượu, đeo tràng hoa, tùy theo ngày phạm phải bắt đầu học giới lại”.
Chúng ta thấy trong ba bản luật dẫn ở trên đều có sự quy định bất đồng. Nhưng ở Trung Quốc chỉ hoằng dương Tứ Phần Luật, nếu lấy sự quy định của Tứ PhầnLuật làm pháp thức cơ bản của Thức xoa ma ni đương nhiên thích nghi hơn. Còn sự quy định của hai bản luật kia cũng không ngại gì tham khảo tuân hành, trì được thêm một vài giới đều là đáng mừng. Điều đáng tiếc là Phật giáo Trung Quốc trước mắt không có giai đọan Thức xoa ma ni, thời xưa có trải qua hay không, tôi chưa từng thấy tài liệu ghi chép. Nói theo luật chế, phái nữ xuất gia nếu trước không trải qua 2 năm Thức xoa ma ni thì không được thọ Tỳ kheo ni giới. Giả sử thọ Tỳ kheo ni giới cũng không đắc giới. Vì thế, tôi rất ước mong chị em Ni chúng đại tâm có chí nguyện, có tuân thủ, có thành tín, có năng lực, phải nên vì sự trùng hưng luật thống và luật chế, nỗ lực một phen, không nên cẩu thả lười biếng để vĩnh viễn làm đồ phụ thuộc không ra gì.
Nghi thức Thức xoa ma ni bạch nhị yết ma và thọ lục pháp cũng rất đơn giản, vì hiện nay Phật giáo Trung Quốc đã chẳng tuân hành nên không cần phải ghi ra. Nếu như một mai tuân hành, tự tìm trong luật bản ra ứng dụng cũng không khó.
IV. PHÁP HỐI TỘI
Sau cùng là hối tội, pháp sám hối của tội Đột kiết la. Tội Đột kiết la gồm có hai thứ: Một là cố ý phạm, hai là vô ý phạm. Vì thế, pháp sám hối cũng có hai thứ: Một là đối trước một vị Đại đức sám hối, hai là tự hối trách tâm sám.
Người sám phải đầy đủ oai nghi hướng về một vị Đại đức quỳ gối chấp tay bạch như vầy:”Đại đức ức niệm con là…sa di (ni) cố phạm tội Đột kiết la…nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối, xin Đại đức ức niệm xót thương”. Đại đức thọ sám liền nói: “Tự trách lấy tâm ngươi”. Đáp: “Vâng”.
Tự trách tâm sám cũng nên đầy đủ oai nghi đến trước Phật đốt hương lễ bái, quỳ gối chắp tay bạch: “Con là sa di (ni)…lầm phạm Đột kiết la. Nay phát lồ sám hối không dám làm nữa”. Cũng có người cho rằng lúc tự trách tâm sám không cần ở trước Phật, tùy lúc phạm tâm liền hối lỗi cũng được.
Thức xoa ma ni trừ việc phạm lục pháp có cách xử lý riêng, ngoài ra phạm các điều khác cũng chỉ có một tội Đột kiết la, phương pháp sám hối đồng với Sa di và sa di ni.
Tỳ kheo không được nhờ Tỳ kheo ni làm sám chủ để hướng về Tỳ kheo ni hối tội. Tỳ kheo ni phải hướng về Thượng tọa Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo thanh tịnh đồng học đồng pháp mà hối tội. Còn Sa di địa vị dưới Tỳ kheo ni, lý đáng có thể hướng Tỳ kheo ni hối tội, nhưng Sa di là người theo Tỳ kheo và trụ ở tự viện của Tỳ kheo, nên cũng không cần phải bỏ chỗ gần đến chỗ xa hướng về Tỳ kheo ni hối tội.
.........................................

THIÊN THỨ SÁU. Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu

Chương 1. Khởi Nguyên Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

LỜI MỞ ĐẦU
Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới là đại giới trọng yếu trong Phật giới, vì thế cũng là một thứ Phật giới phong phú nhất. Nhìn từ góc độ trụ thế của Phật pháp, Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới trọng yếu hơn Bồ tát giới. Thế nên trong Đại Tạng Kinh Hán dịch có Quảng bản Đại Luật của Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới đến bốn năm trăm quyển, đó là chưa kể đến phần chú sớ, trứ thuật của Lịch đại Tổ sư. Hai năm đầu tiên tôi duyệt Luật tạng ở Đài Nam, tôi cũng đặt trọng tâm chú ý vào trong Quảng Luật của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni; nhưng trong quyển sách này chỉ giới thiệu sơ lược về Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới. Nhân vì: Thứ nhất, đây là một quyển sách có tính cách phổ thông, độc giả phần đông là người tại gia, người tục vị tất tuyệt đối không được xem luật Tỳ kheo và Tỳ kheo ni; nhưng cũng không cần phải giới thiệu việc xuất gia một cách kỹ càng cho người thế tục. Thứ hai, nói một cách nghiêm chỉnh, trong hoàn cảnh Trung Quốc hiện đại, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đúng như luật đắc giới và đúng như luật trì giới, đó chẳng phải việc dễ dàng. Thật tâm mà nói, chính tôi cũng chưa thật xứng đáng là một “Tỳ kheo” của Tỳ kheo giới, thậm chí tôi cũng không phải là một Sa di đúng như pháp, tôi chỉ là một Ưu bà tắc hiện tướng xuất gia mà thôi, dẫu cho muốn thực hành đúng như luật cũng khó khăn biết bao! Vì thế, nội dung của thiên này tôi cũng không cổ động độc giả chưa đầy đủ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới đọc. Đương nhiên, tôi cũng không kịch liệt phản đối.
Đối với sự nghiên cứu Luật Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tôi gần như dốc hết toàn bộ tinh lực trong mấy năm, đó là vì tôi muốn từ trong luật tìm ra nguyên nhân suy đồi của Phật giáo Trung Quốc và nhờ đó mà tìm ra phương án chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Vì thế tôi vừa đọc vừa ghi, vừa làm bút ký, khiến cho mỗi một vấn đề quy nạp thành một trung tâm làm thành một thiên tâm đắc và thêm vào đó ý kiến của mình. Phân tích ý kiến những vấn đề ấy cũng chính là làm mới lạ những vấn đề đã “chết” từ nhiều thế kỷ thành ra vấn đề hiện thực của chúng ta. Tôi thử làm sống lại luật điển, không vì cố chấp vào cổ xưa mà không biết canh tân. Bằng không, cũng không cần tôi phải tốn hao giấy mực, vì những trứ tác về Luật xưa nay đã có nhiều người làm rồi. Tuy tôi có cách nhìn của riêng tôi, nhưng vẫn không trái với luật điển, và có thể nói mọi điều ghi ra đều có căn cứ, độc giả có thể tra cứu đối chiếu. Độc giả đọc thiên này rồi có thể tham duyệt hai quyển “Phật Giáo Chế Độ và Sinh Hoạt” và “Phật GiáoThật Dụng Pháp “cũng của tôi chuyên giới thiệu về các vấn đề trọng yếu của Luật chế.
I. VÌ SAO GỌI LÀ TỲ KHEO, TỲ KHEO NI?
Tỳ kheo là dịch âm của Phạn văn Bhiksu, ý nghĩa chủ yếu là “Khất sĩ”. Trên theo “Như Lai” khất cầu Phật pháp để dưỡng dục huệ mạng của pháp thân, dưới hướng về người tục khất cầu cơm áo để nuôi sống sinh mạng của sắc thân, vì thế gọi là Khất sĩ. Ngoài ra còn có các nghĩa: Bố ma, Phá ác, Tịnh mạng, Tịnh trì giới. Nhân vì xuất gia học Phật làm Tỳ kheo là muốn liễu thoát sinh tử, không còn bị sự khuấy nhiễu và chi phối của ma nghiệp cùng ma cảnh; ma vương bớt đi một ma dân để lợi dụng và chi phối; cho nên ma cảm thấy sợ hãi vì thế gọi là Bố ma. Tỳ kheo trì giới hay phá được phiền não ác nghiệp, vì thế gọi là Phá ác. Tỳ kheo không làm các nghề buôn bán, trồng trọt, thợ thuyền để mưu sinh, mà chỉ thanh tịnh khất thực để tự sống, vì thế gọi là Tịnh mạng. Tỳ kheo đem cả hình tướng, thọ mạng của suốt cuộc đời mình kiên trì giới luật thanh tịnh, vì thế gọi là Tịnh trì giới.
Đồng âm dịch khác của Tỳ kheo còn có Tỳ khưu, Bật sô, Bí sô. Trong chú sớ của Cổ đức Trung Quốc có người cho rằng Bí sô là tên của một lọai cỏ, căn cứ vào truyền thuyết, loại cỏ này có năm đức tính đăc biệt:
1. Thể tánh mềm mại.
2. Bò ra bên ngoài.
3. Hương thơm bay xa.
4. Trị được đau nhức.
5. Không tránh ánh sáng mặt trời.
Vì thế, lấy làm tên gọi của người xuất gia. Kỳ thật, theo sự nghiên cứu của các học giả thời gần đây, sự giải thích này chỉ là theo tưởng tượng, không chính xác. Bí sô là cựu dịch, Tỳ kheo là tân dịch, từ nguyên văn chữ Phạn dịch ra, chứ không có căn cứ vào tên lọai cỏ nào cả. Lại có người nói “Đức tỷ Khổng Khưu” nên gọi là “Tỳ khưu”, lại càng không đúng.
Tỳ kheo ni là dịch âm của Phạn văn Bhiksuni ý nghĩa của nó cùng Tỳ kheo tương đồng, chỉ dùng âm “ni” biểu thị nữ tánh. Tỳ kheo ni cũng có nghĩa là nữ Tỳ kheo hoặc nữ khất sĩ. Trên phương diện dịch âm khác còn có Tỳ khưu ni, Bật sô ni, Bí sô ni.
Trong Phật giáo nói ba đời chư Phật đều có 7 hoặc 9 chúng đệ tử tăng tục nam nữ. Tỳ kheo đứng đầu 7 chúng. Tỳ kheo ni kế Tỳ kheo, đây là hai bậc chủ lực cốt cán trong Phật giáo đồ. Thời Đức Phật tại thế, hoạt động của Phật giáo lấy Đức Phật làm trung tâm. Sau khi Phật diệt độ, hoạt động của Phật giáo lấy người xuất gia làm trung tâm. Đệ tử tại gia lấy Tăng đoàn xuất gia làm trung tâm. Nếu như không có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, sự trụ thế của Phật giáo sẽ mất đi giá trị của tôn giáo, mà chỉ có giá trị của triết học hoặc học thuyết văn hóa.
II. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI
Trên thế giới, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về sự xuất hiện của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni là do hơn 2.500 năm về trước, trong nhân loại xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là Đức Phật Thích Ca Thế Tôn cứu người, cứu đời và cứu tất cả chúng sinh.
Phật giáo có những danh từ dùng theo ngữ vựng sẵn có của Ấn Độ với nội dung mới mẻ, như tên gọi của bốn chúng đệ tử, có điều dường như lấy từ một phương thức giống nhau mà ra. Tỷ như trong Ngũ Phần Luật có 11 thứ Tỳ kheo; trong đó, Khất Tỳ kheo không phải là Tỳ kheo đúng như pháp của Phật giáo. Nhưng chúng ta có thể khẳng định nghĩa bao hàm của 7 chúng Phật tử hoàn toàn bất đồng với đồ chúng ngoại đạo. Chính ngoại đạo cũng chưa có thể đem thứ bậc của đồ chúng họ phân ra được kỹ lưỡng và cẩn thận như thế.
Căn cứ trong Ngũ Phần Luật quyển 15 nói: Sau khi Phật thành đạo, đầu tiên ngài nhận sự cúng dường của hai người lái buôn tên Ly Vị và Ba Ly, rồi dạy hai người này thọ nhị tự quy y: Quy y Phật, quy y Pháp. Phật lại cho con gái của Bà la môn Tư Na là nàng Tu Xà Đà thọ nhị tự quy y. Nhân vì lúc ấy Đức Phật chưa độ 5 thầy Tỳ kheo nên chưa có Tăng bảo để quy y. Đủ thấy sự xuất hiện của Tỳ kheo sau Ưu bà tắc và Ưu bà di. Nhưng căn cứ vào sự ghi chép của Tứ Phần Luật Thọ Giới Kiền Độ, 7 chúng đệ tử Phật lấy Tỳ kheo làm thượng thủ, cũng vì Tỳ kheo xuất hiện rất sớm. Đó là lần chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Dã. Trong lần đầu tiên truyền thánh giáo, Phật độ 5 người thị tùng theo Ngài xuất gia ở buổi đầu. Năm người thị tùng này do vua Tịnh Phạn phái đến vừa làm bạn với Thái tử vừa phục vụ Thái tử tu hành. Sau vì Thái tử bỏ sự khổ hạnh cực đoan, làm cho năm người thị tùng hiểu lầm cho rằng Thái tử thoái đạo tâm, vì thế họ khinh thị và ly khai Thái tử. Sau khi Thái tử thành đạo, Ngài nhớ lại năm Tỳ kheo này làm việc khổ nhọc, không kể lạnh nóng hầu hạ cúng dường, nên trước tiên độ năm người này. Đó là những Tỳ kheo được độ sớm nhất, cũng là năm vị Tỳ kheo có danh tiếng hơn hết.
Tỳ kheo ni trong 7 chúng Phật tử địa vị chỉ dưới Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo ni lại xuất hiện rất muộn. Ngày Đức Phật thành đạo cũng là ngày đản sanh của Tôn giả A Nan. Người nữ được xuất gia trong Phật giáo là do sự đồng tình của Tôn giả A Nan và Ngài đứng ra thỉnh cầu Đức Phật chấp nhận. Lúc ấy A Nan đã xuất gia thành Tỳ kheo đang làm thị giả theo bên cạnh Đức Phật. Sau khi thành đạo, Đức Phật thuyết pháp 49 năm, lúc Phật sắp nhập diệt, trong Căn Bản Tạp Sự quyển 37, A Nan cũng tự nói:“Tôi theo Phật hơn 20 năm”. Kinh Trường A Hàm quyển 5 cũng nói: “Sau khi Phật thành đạo 25 năm, Ngài A Nan mới làm thị giả”. Do đây suy ra dưới tòa của Đức Phật có sự hoạt động của Tỳ kheo ni ít nhất cũng trễ hơn sự xuất hiện của Tỳ kheo hơn 20 năm. Nhưng trong Tứ Phần Luật San BổTùy Cơ Yết Ma Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng Nhất ghi: “Sau khi Như Lai thành đạo 14 năm. Di mẫu Ái Đạo cầu xuất gia”. Rốt cuộc như thế nào, còn đợi khảo chứng. Nhưng không có gì phải nghi, là bà Đại Ái Đạo, Di mẫu của Đức Phật là một vị đại Tỳ kheo ni sớm nhất và cũng nổi tiếng hơn hết. Căn cứ theo kinh nói: “Đương thời theo bà Đại Ái Đạo xuất gia một lượt có đến 500 người nữ thuộc giai cấp quý tộc dòng họ Thích”.
II. TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI ĐẦU TIÊN Ở TRUNG QUỐC
Người Trung Quốc biết có Phật giáo, các sử gia tin rằng bắt đầu từ vua Minh Đế đời Đông Hán niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 8 (65 TL). Trong 200 năm đầu, công tác truyền giáo đã phát triển nhanh chóng và phổ cập khắp nhân dân, giáo sĩ truyền giới hầu hết là Phạn Tăng từ Tây Vức sang.Sau khi người Trung Quốc tin Phật rồi, tuy cũng có ghi chép về sự truyền giới và thọ giới. Nhưng người Trung Quốc thành Tỳ kheo chính thức đúng như luật là vào đời Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL), do sau khi Ngài Đàm Ma Ca La từ Trung Thiên Trúc đến Lạc Dương của Trung Quốc kiến lập pháp Yết ma thọ giới.
Trung Quốc có Tỳ kheo ni là vào đời Lưu Tống niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 7 (430 TL), có Sa môn của nước Kế Tân tên Cầu Na Bạt Ma đến Dương Châu. Lại, vào niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 10 có Tăng Già Bạt Ma đến Dương Châu, đương thời có hai Tỳ kheo ni người nước Sư Tử ( Tích Lan) trước sau đến, từ đó bắt đầu kiến lập luật thống của Ni giới Trung Quốc. Đủ thấy Tỳ kheo ni của Trung Quốc xuất hiện trễ hơn Tỳ kheo 180 năm của lịch sử. Lúc ấy có hai bộ Tăng để truyền thọ Tỳ kheo ni giới hay không cũng rất khó suy định.
Những tư liệu kể trên rút ra từ Hành Sự Sao của Luật sư Đạo Tuyên. Căn cứ vào sự nghiên cứu gần đây của Pháp sư Trúc Ma nói: “Tại Trung Quốc, người nữ học Phật xuất gia rất sớm, chiếu theo bốn quyển Tỳ kheo ni Truyện của Pháp sư Bảo Sướng đời Lương, trong ấy biên chép từ đời Tấn đến đời Lương có 74 ni được đưa vào truyện mà Thích Tịnh Kiểm là một Tỳ kheo ni đầu tiên ở Trung Quốc”. (Hải Triều Âm quyển 43, tháng 10). Chúng ta xem trong Tỳkheo ni Truyện thấy Tỳ kheo ni Tịnh Kiểm vào niên hiệu Kiến Hưng đời Tấn Mẫn Đế (313-316), nhân vào trong một ngôi chùa ở cửa Tây cung thành nghe Sa môn Phát Thỉ giảng kinh rồi phát tâm xuất gia.
Nhưng không lý tưởng cho lắm, vì vị Tỳ kheo ni đầu tiên của Trung Quốc trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ Tỳ kheo ni giới. Tịnh Kiểm trước thọ thập giới nơi Sa môn Trí Sơn ở Tây thành; sau đó, vào niên hiệu Thăng Bình nguyên niên đời Đông Tấn Mục Đế (357 TL): “Đi thuyền đến đất Tứ, bốn người là Tịnh Kiểm…đồng đăng đàn theo Đại Tăng để thọ Cụ túc giới”. Thời đại này so với Hành SựSao ghi chép sớm hơn 76 năm. Tịnh Kiểm phát tâm xuất gia, 40 năm sau mới thọ Cụ túc giới, đủ thấy sự khó khăn của việc cầu giới.
Nếu từ trong Cao Tăng Truyện tìm căn cứ lịch sử Cao Tăng Trung Quốc lại sớm hơn 70 năm. Vì trong Lương CaoTăng Truyện ghi vị Sa môn đầu tiên của Trung Quốc là Nghiêm Phật Điều. Trong Lương Cao Tăng Truyện quyển 1 nói: “Lúc ấy lại có Ưu bà tắc An Huyền, người nước An Tức”, “Cũng vào cuối đời Hán Linh Đế du lịch Lạc Dương”, “An Huyền và Sa môn Nghiêm Phật Điều cùng dịch Kinh Pháp Cảnh. An Huyền miệng dịch Phạn văn, Phật Điều bút thọ”, “Phật Điều vốn là người quê ở Lâm Hoài”.
Theo đoạn sử này chúng ta thấy Nghiêm Phật Điều là người Trung Quốc quê ở Lâm Hoài, nay thuộc Tây Bắc huyện Hu Di thuộc tỉnh An Huy. Vào cuối niên hiệu Hán Linh Đế, Phật Điều cùng với một cư sĩ tên An Huyền của nước An Tức cùng dịch Kinh Pháp Cảnh, thân phận của Nghiêm Phật Điều lúc ấy là Sa môn. Cuối niên hiệu Hán Linh Đế là năm 189 TL, vì thế so với Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL) sớm hơn 70 năm.
Nghiêm Phật Điều dù có sử khảo chứng là một vị Cao tăng đầu tiên của Trung Quốc, nhưng Phật Điều có phải là vị Tỳ kheo đầu tiên của Trung Quốc hay không, điều đó không được biết. Nhân vì Lương Cao Tăng Truyện khi đề cập đến Nghiêm Phật Điều vài câu trong truyện Chi Lâu Ca Sấm, chỉ nói Phật Điều là Sa môn, chưa nói có phải là Tỳ kheo hay không.
..........................................

Chương 2. Nguyên Do Và Chủng Loại Của Giới Luật Tăng Ni

I.NGUYÊN DO CỦA GIỚI LUẬT
Chúng ta đã nói giới luật của Phật giáo được chế định là do sự cần thiết thật sự. Việc hoàn thành của giới Tỳ kheo và Tỳ kheo ni cũng không phải là việc của một ngày. Trong Tăng đoàn Phật giáo buổi ban đầu vốn không có điều văn giới luật ghi thành văn, đệ tử xuất gia thời ấy đều có căn khí rất sâu, rất dày, thường thường đều ở ngay nơi hai ba lời khai thị của Đức Phật liền ngộ chứng được Thánh vị, thấp thì được pháp Nhãn tịnh, kiến đạo chứng Sơ quả, cao thì chứng thẳng Tứ quả A la hán. Như nói: “Sơ quả cày đất côn trùng lìa lưỡi cày 4 tấc”, đây là đạo cộng giới do đạo lực của Thánh vị mà ra. Trong Tăng đoàn phần nhiều là đệ tử chứng Thánh quả, vì thế dưới đạo lực của Đạo cộng giới tự nhiên hợp với yêu cầu của giới nên không phạm tội. Đã không phạm tội nên không cần phải chế giới.
Căn cứ trong luật ghi chép, Ngài Xá Lợi Phất trước tiên thỉnh Phật chế giới, Đức Phật nói không phạm không chế. Trong Ngũ Phần Luật quyển 1 Phật nói: “Này Xá Lợi Phất! Trong chúng của ta chưa từng có pháp hữu lậu. Trong chúng này của ta người nhỏ nhất đắc Tu đà hoàn. Các Đức Phật Như Lai không vì chưa có pháp hữu lậu mà kết giới cho các đệ tử”. Đây cùng với Bồ tát giới bất đồng. Bồ tát giới là “Chư Phật pháp nhĩ”. Ba đời chư Phật đều do Bồ tát giới mà thành Phật. Bồ tát giới không do một vị Phật nào chế ra mà là chư Phật đồng chế, bản lai như vậy. Tỳ kheo giới là căn cứ vào sự cần thiết của sự thật để chế định, Đức Phật tuy biết cần phải chế những giới nào nhưng Ngài quyết chẳng chế định trước. Điều này có lý do: Một là biểu thị dân chủ, hai là tôn trọng nhân cách của các đệ tử. Nếu như không phạm mà chế, các đệ tử đương nhiên phải tiếp thọ, nhưng đó không phải xuất phát từ ý tứ của các đệ tử mà lại xuất phát từ sự cưỡng chế của Đức Phật. Phạm tội mới chế giới, đây là xuất phát từ sự nhất trí của đại chúng trong Tăng đoàn. Từ trong luật chúng ta thấy Đức Phật chưa từng chủ động chế qua một điều giới, chẳng qua là vì do nơi người phạm lỗi lầm bị sự chê trách của người ngoài, rồi do các đệ tử thiểu dục, tri túc, thích hạnh đầu đà, biết hổ thẹn, trình bạch với Đức Phật. Đức Phật chế giới. Vì thuận theo yêu cầu của đại chúng, Đức Phật lại còn đem những điều giới Ngài đã chế ra tu chính hai ba phen, đây là biểu hiện tinh thần dân chủ một cách đầy đủ. Đức Phật tuyệt nhiên không muốn các đệ tử có lỗi lầm, các đệ tử hảo tâm xuất gia tự họ cũng không muốn trong Tăng đoàn có người phạm lỗi; đây là một thứ yêu cầu của tâm tự trọng. Nếu Đức Phật dự bị chế giới trước thì biểu thị sự khinh thường các đệ tử của Ngài và thấy chắc các đệ tử sẽ có lỗi lầm xuất hiện; đây là đối với Tăng đòan dường như có nhiều lo lắng, thậm chí làm cho người chưa phạm tội cảm thấy như bị chồng thêm một lớp xiềng xích, và như thế là coi rẻ nhân cách của các đệ tử. Phạm lỗi lầm rồi mới chế giới, đó là nguyên nhân từ nơi phạm giới mới chế giới, chứ không phải Đức Phật cưỡng chế.
Tinh thần của Đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của Đức Phật, nhìn từ thực tế là ý của đại chúng trong Tăng đoàn. Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng. Người ra toa hoặc hốt thuốc phòng ngừa sự hư đốn này là Đức Phật, người yêu cầu ra toa và xin hốt thuốc chính là đại chúng trong Tăng đoàn. Đức Phật là vị thầy thuốc khám bệnh cho chúng Tăng trong Tăng đoàn, đại chúng trong Tăng đoàn là người bệnh hoạn nhờ Phật chữa bệnh. Do đó, nếu người không bệnh mà ra toa hốt thuốc cho họ, họ sẽ nhất định mắng anh là xúc phạm đến họ. Người mắc bệnh nếu được trị liệu, người ấy sẽ cảm kích muôn phần, đây là tâm lý thông thường của chúng sinh.
Nhân đây chúng ta hiểu một cách sâu sắc rằng Đức Phật là một vị Đại Đạo Sư rất vĩ đại và từ bi. Phật cứu hộ tất cả chúng sinh, dụng tâm không có chỗ vi tế nào không đến; đã tôn trọng ý tứ đại chúng, lại luôn luôn hộ niệm đến khuyết điểm của chúng sinh. Nghĩ đến điều này khiến chúng ta cảm đông rơi nước mắt.
Trừ Đại thừa Bồ tát giới là chư Phật đồng chế; giới Tỳ kheo Tỳ kheo ni của chư Phật chế không đồng nhau hết, chỉ có bốn điều đại giới căn bản: Hành dâm, trộm cướp, giết người, đại vọng ngữ là chư Phật chế đồng nhau. Như trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà sa quyển 8 nói: “Tất cả chư Phật đối với tội Ba la di không kết khác nhau. Bốn Ba la di không thêm, không bớt”. Trừ bốn điều này ra, chẳng những chư Phật chế bất đồng, mà chúng ta cũng thấy trong các bộ Quảng Luật thu tập các điều giới khác cũng đều riêng có nhiều ít, thêm bớt.
Căn cứ vào sự ghi chép của Tăng Kỳ Luật, Đức Phật vì các Tỳ kheo chế một điều giới thứ nhất là giới dâm, đó là: “Đức Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, thành Phật 5 năm, nửa tháng thứ 5 của mùa Đông ngày 12 sau khi dùng bữa ăn giữa trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Đông một người rưỡi, Phật chế giới cho con trai của Trưởng giả Da Xá Ca Lan Đà.
Điều giới thứ hai là giới trộm cướp: Thế Tôn ở thành Vương Xá, thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 2 của mùa Đông ngày mùng 10 sau bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Đông hai người rưỡi, Phật chế giới cho con người thợ gốm tên Đạt Ni Ca, Bình Sa Vương và Tỳ kheo Phấn tảo y.
Điều giới thứ ba là giới sát sinh: Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 3 của mùa Đông, ngày mùng 9 trước bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Bắc, nhân Tỳ kheo tu tập bất tịnh quán đâm ra chán ghét sắc thân, nhờ ngoại đạo Lộc Trượng giết, mà chế giới.
Điều giới thứ tư là đại vọng ngữ: Thế Tôn ở thành Xá Vệ thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 4 của mùa Đông, ngày 13 sau bữa ăn trưa, bóng ngã về hướng Đông ba người rưỡi, vì nhiều Tỳ kheo đi vào xóm làng cùng nhau gọi là A la hán (để được tín thí cúng dường nhiều) và vì Tỳ kheo tăng thượng mạn mà chế giới”.
Trong các bộ Luật, chỉ có Tăng Kỳ Luật ghi rõ ràng ngày giờ tháng năm chế giới, mà cũng chỉ ghi được ngày giờ tháng năm chế giới của bốn điều giới Ba la di. Nhưng căn cứ vào Luật nói 12 năm đầu, chỉ có người phạm một giới chế một giới, chứ không có người tái phạm.
Như thế, chúng ta đã biết rõ Đức Phật vì Tỳ kheo chế giới là từ cuối mùa Đông của năm thứ 5 sau khi thành Phật. Điều này cũng nói lên cho chúng ta biết trong Tăng đoàn của Phật giáo đến năm thứ 5 trở về sau, phần tử dần dần phức tạp, có những người căn cơ hơi cạn tiến nhập vào Tăng đoàn Tỳ kheo phát sinh ra vấn đề, vì thế cần phải chế giới đề phòng sự hủ bại. Từ năm thứ 6 trở về sau, vấn đề càng nhiều, vì thế trong một thời gian ngắn không đầy 50 ngày trong cuối mùa Đông lại liên tiếp chế ra ba điều giới trọng. Do đó, sự chế ra Tỳ kheo giới có thể đứt đứt nối nối một mạch đến trước lúc Đức Phật nhập diệt mới đình chỉ. Dường như giới luật này hoàn toàn căn cứ vào nhu cầu của tình huống thực tế đương thời đương xứ mà chế thành, nhưng không cùng với giới luật của chư Phật chế hoàn toàn giống nhau, cho nên cũng không thể đem toàn bộ điều văn của giới luật này hoàn toàn thích ứng với sinh họat Tỳ kheo trong thời đại và địa phương bất đồng. Vì thế, Đức Phật trong Ngũ Phần Luật quyển 22 đã nói: “Tuy là giới của ta chế, nhưng ở phương khác không cho là thanh tịnh thì đều không được dùng. Tuy chẳng phải giới của ta chế, nhưng ở phương khác phải nên làm thì không được chẳng làm”. Đây là Thánh giáo sáng suốt biết bao!
Đến như Tỳ kheo ni giới, trừ bộ phận đặc biệt Phật chế riêng cho phái nữ ra, đa số giới tướng đồng và giới tướng Tỳ kheo. Sự xuất hiện của Tỳ kheo ni giới đương nhiên sau Tỳ kheo giới rất xa.
II.LÀM THẾ NÀO HOÀN THÀNH THÂN PHẬN TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI?
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni cố nhiên phải giữ gìn Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới. Nhưng thân phận và tư cách của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni không phải do sự thủ trì Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới mà ra. Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba (Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Diệp La) trong 7 Đức Phật quá khứ không có kiết giới cũng không thuyết giới. Các Ngài cũng có 7 chúng đệ tử (nhưng sau khi Phật diệt độ, Phật pháp cũng tiêu mất). Năm năm đầu tiên sau khi Thích Ca Thế Tôn thành Phật chưa có chế giới, nhưng đã có rất nhiều đệ tử Tỳ kheo, đủ biết Tỳ kheo và Tỳ kheo ni không phải có ra là do nơi giới luật; trái lại, sự có mặt của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới là do nhu yếu của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Như vậy, thân phận hoặc tư cách của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm sao hoàn thành? Ở đây cần phải nói đến chủng loại của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Trước hết là nói về chủng loại của Tỳ kheo. Điều này trong các bộ luật cũng có ít nhiều bất đồng.
A. Tứ Phần Luật có 11 thứ Tỳ kheo
1. Tỳ kheo xin ăn.
2. Tỳ kheo trì y hoại sắc có cắt rọc.
3. Tỳ kheo phá ác.
4. Tỳ kheo thật.
5. Tỳ kheo kiên cố.
6. Tỳ kheo thấy lỗi.
7. Tỳ kheo do một lời thọ giới.
8. Tỳ kheo do hai lời thọ giới.
9. Tỳ kheo do ba lời thọ giới.
10. Tỳ kheo thiện lai.
11. Tỳ kheo đúng như pháp bạch tứ yết ma thọ giới.
B. Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp có 10 thứ Cận viên:
1. Không có thầy, như Phật Thế Tôn.
2. Chứng trí, như trường hợp 5 vị Bí sô.
3. Vấn tấn, như trường hợp ông Ô Đà Bi.
4. Quy y như trường hợp Đại Ca Diếp.
5. Năm người, là trường hợp ở vùng biên địa, 5 vị Luật sư có thể truyền thọ giới cho người.
6. Mười người, là trường hợp tại nơi Phật pháp thịnh hành (trung phương) phải đủ 10 vị luật sư truyền giới cho người.
7. Thọ kinh pháp, như trường hợp Đại Thế Chủ.
8. Khiến sứ, như trường hợp cô Đạt Ma Trần Na.
9. Hai chúng, nghĩa là hai bộ tập hợp.
10. Thiện lai nghĩa là chính Đại sư (Phật) đích thân nói.
Trên đây, ba pháp: 7, 8, 9 là pháp thọ giới của Tỳ kheo ni, 7 pháp kia đều là pháp thọ giới của Tỳ kheo.
C. Thập Tụng Luật có 10 thứ pháp thọ Cụ túc giới:
1. Phật Thế Tôn tự nhiên không có thầy đắc Cụ túc giới.
2. Năm Tỳ kheo đắc đạo tức đắc Cụ túc giới.
3. Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp tự thệ liền đắc Cụ túc giới.
4. Ông Tô Đà vì tùy thuận đáp Phật luận nên đắc Cụ túc giới.
5. Biên địa do 5 vị tăng trì luật truyền được thọ Cụ túc giới.
6. Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề thọ Bát kỉnh pháp liền đắc Cụ túc giới.
7. Bán Ca Thi Na sai sứ được thọ Cụ túc giới.
8. Phật nói thiện lai Tỳ kheo đắc Cụ túc giới.
9. Quy mạng Tam bảo rồi, ba lần xướng tôi theo Phật xuất gia tức đắc Cụ túc giới.
10. Bạch tứ yết ma đắc Cụ túc giới.
Trên đây, hai pháp 6 và 7 là pháp thọ giới của Tỳ kheo ni, 8 pháp kia là pháp thọ giới của Tỳ kheo.
D. Kinh Tỳ Ni Mẫu có 5 thứ pháp thọ Cụ túc giới
1. Thiện lai Tỳ kheo liền được thọ Cụ túc giới.
2. Ba lời (tức tam quy ) liền được thọ Cụ túc giới.
3. Bạch tứ yết ma tức đắc Cụ túc giới.
4. Phật chấp nhận cho thọ Cụ túc giới (Bát kỉnh pháp) liền được thọ Cụ túc giới.
5. Thọ Cụ túc giới bậc thượng, lúc Phật tại thế không có người truyền giới mà chỉ trực tiếp ở bên Phật nghe pháp đắc quả A la hán.
E. Tứ Phần Luật có 8 thứ Tỳ kheo:
1. Danh tự Tỳ kheo.
2. Tương tự Tỳ kheo.
3. Tự xưng Tỳ kheo.
4. Thiện lai Tỳ kheo.
5. Khất cầu Tỳ kheo.
6. Tỳ kheo mặc y cắt rọc.
7. Tỳ kheo phá kiết sử (dứt bặt phiền não chứng A la hán).
8. Thọ đại giới bạch tứ yết ma, như pháp thành tựu được xứ sở Tỳ kheo.
Trên đây chỉ có ba thứ Tỳ kheo số 4, 7, 8 là thật Tỳ kheo đúng như pháp, năm thứ kia là giả chứ không phải là Tỳ kheo đúng như pháp. Tuy chủng loại Tỳ kheo trong năm bộ luật nêu trên đều có chút ít bất đồng, nhưng có thể quy nạp làm 10 lọai:
1. Không có thầy.
2. Một lời.
3. Hai lời.
4. Ba lời.
5. Phá kiết sử.
6. Tự thệ.
7. Thiện lai.
8. Vấn tấn.
9. Luận đáp.
10. Baïch tứ yết ma ( bao hàm cả biên địa 5 vị Tăng truyền giới và trung phương 10 vị Tăng truyền giới).
Tỳ kheo đắc Cụ túc giới đại khái chẳng ra ngoài mười phương pháp này. Nhưng lúc Phật còn tại thế, thông thường sử dụng chỉ có Thiện lai Tỳ kheo và Bạch tứ yết ma Tỳ kheo. Tám loại kia là hạn cuộc vào căn tánh đặc thù của nhân vật, so ra Tỳ kheo phá kiết sử có nhiều hơn 7 loại Tỳ kheo kia. Ngoài ra, như trường hợp không có thầy thọ giới, chỉ có một mình Đức Phật; tự thệ thọ giới, chỉ có một mình Ngài Đại Ca Diếp; vấn tấn thọ giới, chỉ có một mình Ngài Ô Đà Di (tức là Ca Lưu Đà Di); tùy thuận đáp Phật luận thọ giới, chỉ có một mình ông Tô Đà. Đến như Thiện lai Tỳ kheo chỉ dùng một mạch đến khi Đức Phật nhập diệt là dứt. Sau khi Phật diệt độ, chỉ có một phương pháp thọ giới của Bạch tứ yết ma thọ Tỳ kheo giới. Trong thời đại Đức Phật, Thiện lai và Bạch tứ yết ma đều dùng, đều làm, nhưng có một sự phân biệt: Đức Phật đích thân độ người xuất gia, Đức Phật chỉ nói một tiếng “Thiện lai Tỳ kheo”, người được độ nhờ túc căn của mình nương vào oai thân của Phật lập tức râu tóc tự rụng, ca sa hiện trên thân, bình bát nơi tay, nghiễm nhiên giống oai nghi Tỳ kheo của Thượng tọa lão tham. Nhưng đây cần phải là người túc căn sâu dày có thể lập tức chứng quả mới làm. Ý nghĩa của Thiện lai Tỳ kheo, căn cứ vào lý suy diễn phải có ba tầng:
1. Ông muốn xuất ly sinh tử, đến đây thật đúng thời cơ.
2. Ông đến làm Tỳ kheo thật là một việc rất tốt.
3. Ông đến xuất gia làm Tỳ kheo, Phật giáo vô cùng hoan nghinh ông.
Trong suốt cuộc đời Đức Phật, Ngài độ được bao nhiêu “Thiện lai Tỳ kheo”? Các vị đại đệ tử được Đức Phật độ ở thời kì đầu tiên gần như đều là Thiện lai Tỳ kheo, tỷ như năm người trong nhóm ông Kiều Trần Như, 30 người trong nhóm ông Mẫn Từ Tử, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp và 500 đệ tử. Dà Da Ca Diếp và 200 đệ tử, Ưu Ba Tư Na và 250 đệ tử, Đại Mục Kiền Liên và 250 đệ tử, con cháu dòng Vương thất Thích Ca 500 người, nhóm ông Bạt Độ Đế 500 người, nhóm quần tặc 500 người ( tư liệu này thấy trong Ma ha TăngKỳ Luật). Do đây đủ thấy Thiện lai Tỳ kheo ở trong Tăng đoàn đương thời là giai tầng lãnh đạo, cũng là thành phần chủ yếu.
Tỳ kheo của bạch tứ yết ma thọ Cụ túc giới, đó là các vị đệ tử Tỳ kheo của Đức Thích Ca độ cho các vị Tỳ kheo xuất gia đời thứ ba mới có. Nhân vì khu vực đất đai của Ấn Độ rất rộng, các đại đệ tử của Phật mỗi người giáo hóa một phương, mỗi phương đều có người cầu xin xuất gia, nếu phải lặn lội từ xa đến xin Phật độ thì quá phiền phức, thậm chí ở dọc đường phát sinh tai biến. Vì thế, Phật quy định các đệ tử Tỳ kheo cũng được độ người xuất gia thọ Cụ túc giới. Người thọ Cụ túc giới cần phải ở trong Tăng đoàn có 10 vị Tỳ kheo trở lên cầu được sự thông qua và thừa nhận nhất trí, mới được kể là Tỳ kheo hợp pháp. Bạch tứ yết ma nghĩa là một phen báo cáo, ba phen trưng cầu sự im lặng chấp thuận. Trong 10 người chỉ cần có một người phản đối là Tăng không hòa hợp bèn không thành yết ma thọ giới và người thọ giới không đắc Cụ túc giới. Đây là một nghi thức giản đơn mà thiêng liêng, mục đích là có được sự chấp thuận của Tăng chúng, chứ chẳng phải truyền thọ riêng tư. Tuy nhiên, trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế, thọ Cụ túc giới cũng là Phật sự bình thường, thông thường đều lấy cơ hội thuyết giới mỗi nửa tháng để cử hành, vì đây là ngày quy định chư Tăng tập họp. Ngoài ra, các ngày an cư và tự tứ cũng đều là cơ hội tốt để truyền thọ Cụ túc giới.
Như trong Ngũ Phần Luật quyển 16 nói, Phật nói “Cho phép nhân ngày Bố tát tự tứ, lúc Tăng tự tập họp, truyền thọ Cụ túc giới”. Hoàn toàn không giống như Phật giáo Trung Quốc phân thành Thiền tự, Giảng tự và Luật tự ; chỉ có Luật tự học luật, trì luật và truyền giới ; còn Thiền tự và Giảng tự không học, không trì, cũng không truyền giới. Điều này hình thành đương nhiên là do nhân tố của bối cảnh xã hội, chúng ta chẳng nên phiền trách, cho đến sự truyền giới của ngày nay lại cũng có chút lạm.
Chủng lọai thọ giới của Tỳ kheo ni:
A. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí Sô Tỳ Naïi Da có 5 thứ Bí Sô Ni:
1. Danh tự Bí sô ni.
2. Tự nói Bí sô ni.
3. Khất cầu Bí sô ni (người nữ thế tục vì mưu cầu sinh sống).
4. Phá phiền não Bí sô ni.
5. Bạch tứ yết ma Bí sô ni.
(Hai loại thứ 4, 5 hợp pháp, ba lọai kia đều phi pháp)
B. Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 1, Tỳ kheo ni có 5 cách thọ Cụ túc giới:
1. Theo lời thầy dạy thực hành (Bát kỉnh pháp) gọi là thọ Cụ túc giới.
2. Bạch tứ yết ma mà được thọ Cụ túc giới.
3. Sai sứ đại diện mà được thọ Cụ túc giới.
4. Thiện lai mà được thọ Cụ túc giới.
5. Thượng thọ Cụ túc giới (phá kiết sử).
Thật ra trong hai bản luật liệt kê Tỳ kheo ni hợp pháp chỉ có bốn loại: Phá kiết sử, Bát kỉnh pháp, Sai sứ, Bạch tứ yết ma. Thiện lai Tỳ kheo ni, nếu chiếu theo lệ Đức Phật không đích thân tự độ ni (Luận Tát Bà Đa quyển 2); đây không phải Đức Phật đích thân độ mà là do đại đệ tử Tỳ kheo ni độ. Nhưng theo sự xuất hiện của Tỳ kheo ni sau Tỳ kheo 14 năm hoặc hơn 20 năm, Tăng đoàn Tỳ kheo lúc ấy đã có nghi thức bạch tứ yết ma độ người xuất gia, Tỳ kheo ni sao không làm theo? Không lẽ còn học theo phương pháp Phật độ Tỳ kheo mà dùng thiện lai độ Tỳ kheo ni? Vì thế, đây là một vấn đề còn đợi khảo chứng.
Ai là Tỳ kheo ni phá kiết sử? Chưa thấy văn tự ghi chép. Tỳ kheo ni dùng Bát kỉnh pháp thọ Cụ túc giới chỉ có bà Đại Ái Đạo cùng 500 người nữ dòng học Thích. Sai sứ thọ, trên Phật giáo sử chỉ có một người là Đạt Ma Trần Na (Tạp Sự quyển 32 dịch là Pháp Dự), hoặc Bán Ca Thi Ni, vì cô rất đẹp nhiều người nam nghe nói cô xuất gia muốn chặn đường phá cô, nếu cô từ chùa Ni đích thân đi đến chùa Tăng thọ giới thì không thể xuất gia được. Vì thế, Đức Phật đặc biệt cho người nữ đẹp tuyệt trần khi xuất gia nếu ngại dọc dường bị phá, có thể phái đại biểu đi qua chùa Tăng cầu được yết ma cũng đắc giới. Ngoài ra, các Tỳ kheo khác thọ Cụ túc giới đều ở trong hai bộ Tăng bạch tứ yết ma thọ. Trong hai bộ Tăng thọ là trước ở trong Tăng 10 Tỳ kheo ni bạch tứ yết ma mà thọ giới. Đắc giới là tại trong Tỳ kheo Tăng đắc. Nếu không tác bổn pháp mà trực tiếp qua Tỳ kheo Tăng thọ Cụ túc giới, có thể đắc giới nhưng Giới sư đắc tội. Tỳ kheo ni giới Trung Quốc có từng kiến lập qua chế độ ở trong hai bộ Tăng thọ hay không, đến nay không làm sao tra cứu. Có sử để kê cứu đều là trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ. Giới sư Trung Quốc tuy trải qua nhiều đời do vì truyền Tỳ kheo ni giới mà đắc tội, nhưng cũng cam chịu, vì chưa có thể làm đúng pháp như luật.
Thọ Cụ túc giới là nói tiếp thọ toàn bộ Tỳ kheo giới hoặc Tỳ kheo ni giới. Sau khi thọ trì toàn bộ có thể bước lên Thánh vị thẳng đến quả A la hán và liễu thoát sinh tử. Không giống như thọ ngũ giới, bát giới, thập giới, chỉ là một bộ phận của giới chứ chưa đầy đủ toàn bộ giới như trong luật điển của Tân dịch không gọi là Cụ Túc giới mà gọi là Cận viên. Viên là viên mãn tịch diệt, cũng là viên tịch, cũng là Niết bàn, cũng là liễu sinh thoát tử, cũng là bất sinh bất tử, cũng là chỉ cho cảnh giới của quả A la hán. Chữ “Cận” có thể giải theo hình dung từ, nghĩa là ranh giới của viên tịch, cũng có thể giải theo động từ, nghĩa là đi đến gần cảnh giới viên tịch. Nếu nói về công năng của Tỳ kheo ni giới, thì chữ cận của cận viên, dùng động từ giải thích lại đúng hơn.
Chúng ta có thể nhờ sự thọ trì và kiên trì Tỳ kheo giới hoặc Tỳ kheo ni giới để dần dần tiếp cận với viên tịch, và cũng từ tiếp cận với viên tịch sau cùng tiếp nhập vào viên tịch. Do đây, Tỳ kheo giới là cây cầu đưa chúng ta đến cảnh Niết Bàn. Viên tịch vốn là nghĩa của Niết bàn, nhưng mà sau này Tăng tử vong đều gọi là viên tịch, nếu nói theo luật thì đó là thay thế người chết vọng ngữ!
...........................................

Chương 3. Nội Dung Và Sự Đồng Dị Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni Giới

I. CHỈ TRÌ VÀ TÁC TRÌ
Giới luật là tiếng gọi chung của hai thứ loại biệt. Nói theo nghĩa rộng, Tỳ kheo giới cũng bao quát Tỳ kheo luật. Nói theo nghĩa hẹp, giới là giới, luật là luật; trong luật có bao hàm giới, nhưng trong giới không bao hàm luật. Vì trong Tỳ ni (luật) tạng có Ba la đề mộc xoa (Biệt giải thoát giới), còn Ba la đề mộc xoa không thể nhiếp hết Tỳ ni tạng.
Nói rõ hơn một chút, Tỳ ni bao gồm cả chỉ trì và tác trì, ba la đề mộc xoa duy chỉ có chỉ trì. Vì thế trì luật bao hàm trì giới, trì giới không bao hàm trì luật. Vì trì luật là việc cộng đồng của đại chúng trong Tăng đoàn, còn trì giới là việc của mỗi cá nhân Tỳ kheo. Trì giới gọi là chỉ trì không làm ác. Trì luật gọi là tác trì vì hay làm thiện. Việc của Tăng đoàn phải do đại chúng trong Tăng đoàn cùng chung giải quyết, cùng chung suy triển, cùng chung trợ thành, vì thế cần phải hòa hợp ý kiến của đại chúng. Tổng hợp ý kiến của đại chúng hành sự tác pháp, đây là tinh thần của trì luật, gọi là tác trì.
Trong Luật tạng quy định điều văn giới tướng là giới, là chỉ trì; quy định các pháp yết ma là luật, là tác trì. Luật là giúp cho sự tiến hành của giới, luật còn là người giám đốc của sự thực hành giới. Tỷ như người muốn xuất gia trì giới, trước tiên phải cần pháp yết ma chứng minh, cấp cho tư cách và thân phận của Tỳ kheo xuất gia. Điều văn của giới, nếu trên sự thực hành gặp phải khó khăn cũng có thể dùng pháp yết ma để nghiên cứu giải quyết. Nếu như phát hiện một Tỳ kheo nào hoặc sinh hoạt của những Tỳ kheo nào vượt ra ngoài phạm vi của giới, liền phải làm yết ma cử tội, chiết phục đuổi đi, cho đến diệt tẩn (trục xuất ra ngoài Tăng đoàn). Vì thế, giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của sinh hoạt Tỳ kheo, luật lại là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của giới. Sinh hoạt của người Phật tử phải lấy giới làm chủ yếu, muốn giải thoát sinh tử cần phải trì giới. Phật giáo muốn tồn tại lâu dài với thời gian cần phải trì luật. Một Tỳ kheo chân chánh không thể không trì giới. Một Tăng đoàn có triển vọng không thể không trì luật. Nếu như Tăng đoàn không trì luật được thì Tỳ kheo trì giới cũng không được bảo hộ. Theo nội dung của Tứ Phần Luật phân phối, 250 giới của Tỳ kheo và 348 giới của Tỳ kheo ni là chỉ trì, 20 thứ Kiền độ là tác trì. Trước là giới, sau là luật; trong giới cũng có luật, trong luật cũng có giới; đây là lấy điểm trọng yếu của nó, mà phân biệt.
Trên đây là điều mà Phật giáo Trung Quốc cần phải hiểu rõ, nhưng đáng tiếc là rất ít người hiểu được điều này.
II. TỲ KHEO GIỚI CÓ BAO NHIÊU?
Điều văn của Tỳ kheo giới trong các bộ Luật đều có thêm bớt, sự thêm bớt chủ yếu là những giới thuộc về oai nghi; đến điều văn của giới trọng và giới trọng bậc thứ, văn tự tuy có rộng nhiều hoặc sơ lược bất đồng, song điều lệ của giới mục đại khái tương đồng, vì thế đều nói Tỳ kheo 250 giới.
Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới thông thường phân làm ngũ thiên, thất tụ, cũng là 7 hạng tội danh của 5 thứ tội hạnh. Thật ra, 250 điều giới tướng của Tỳ kheo lại có 8 loại điều văn, 5 thứ tội hạnh, 7 hạnh tội danh, 6 thứ quả báo. Nay liệt kê trong biểu đồ như sau:
Vì những điều này là danh từ chuyên môn nên cần phải giải thích. Trên biểu đồ này có dịch âm của Phạn văn cũng có dịch nghĩa của Phạn văn, vì thế trước tiên cần phải đem âm nghĩa giới thiệu:
1. Ba la di, là dịch âm của Phạn ngữ: Pàràjika, cũng có người dịch là Ba la thi ca, nghĩa là tội khí (bỏ ra ngoài Phật pháp), là tội đoạn đầu (cắt đứt đầu), là tội thuốc không thể cứu.
2.Tăng già bà thi sa, là dịch âm của Phạn ngữ: Sanghàvasésa, dịch là tội Tăng tàn, là người bị tàn phế, là người bị tàn phế trong tịnh pháp của Tăng đoàn, tuy tàn phế mà còn có thể sám trừ để cứu.
3. Bất tịnh: Đây là không nhất định phạm tội danh của thứ tội danh nào, có thể phạm Ba la di, có thể phạm Tăng tàn, có thể phạm Ba dật đề,vì thế gọi là Bất định.
4. Ni tát kỳ ba dật đề: Đây là phức hợp ngữ của Phạn ngữ. Ni tát kỳ nghĩa là tận xả, Ba dật đề nghĩa là đọa, hợp lại gọi là Xả đọa. Đây là do giữ chứa đồ vật chẳng nên giữ, chẳng nên chứa, quên mang đồ vật chẳng nên chẳng mang, trước phải đem món đồ ấy xả cho trong Tăng, sau đó dùng phương pháp sám tội để sám hối Ba dật đề.
5. Ba dật đề, là dịch âm của Phạn ngữ: Pàyattika, lại có người dịch là Ba dật đế ca và Ba dạ đề, có nghĩa là đọa, là chỉ cho tội đọa địa ngục, vì ở đây không có vật để xả vì thế thông thường gọi là Đơn đọa.
6. Ba la đề đề xá ni, là dịch âm của Phạn ngữ: Pràtidésaniya, có người dịch là Ba la xá ni, hoặc gọi tắt là Đề xá ni, nghĩa là “Hướng bỉ hối”. Tỳ kheo có 4 điều giới đặc định, sau khi phạm phải lập tức đối diện một người khác nói rõ lỗi lầm, vì thế còn gọi là pháp Hối quá.
7. Thi sa ca la ni, là dịch âm của Phạn ngữ: Siksàkàrani, cũng có người dịch là Thức xoa ca la ni, dị danh của Đột kiết la, nghĩa là nên học hoặc phải học, vì thế thông thường gọi là Ưng đương học.
8. Diệt tránh: Ở trong Tăng đoàn có sự phân tranh, cho đến đối với một vấn đề nào đó lúc hình thành hai phái bất đồng, ý kiến đối lập, thì dùng pháp Diệt tránh để giải quyết. Sự diệt tránh trong Tăng đoàn gồm có 7 phương pháp, chỉ có trong pháp Diệt tránh mới có chế hai phái yết ma của Tăng đoàn và lấy ý kiến của phái đa số làm ý kiến quyết định.
9. Thâu lan giá, là dịch âm của Phạn ngữ: Sthùlàayas,có thể dịch là Đại chướng thiện đạo, đại tội, thô ác, thô quá (lỗi thô), hoặc gọi là Trược trọng phạm; chủ yếu là do tội chưa thành của tội Ba la di và Tăng tàn sinh ra, nhưng cũng có độc lập sinh ra, vì thế phân ra hai loại: Tòng (Tha) sinh thâu lan giá và Độc đầu thâu lan giá; đẳng cấp khinh trọng xem ở chương thứ 5 của thiên này.
10. Đột kiết la, là dịch âm của Phạn ngữ: Duskrta, còn có người dịch là Đột sắc cơ lý đa, Đột tất kiết lật đa, Độc kha đa. Trong đây gồm có hai thứ tội danh là Ác tác của thân nghiệp và Ác thuyết của khẩu nghiệp. Đây là những sơ suất lỗi lầm nhỏ trên cử chỉ và ngôn ngữ. Phạm vi của nó rất rộng, trong giới bổn gọi là Chúng học giới.
Trong 10 thứ danh xưng của 8 loại điều văn, tội Ba la di không có pháp hối trừ, còn bản thân của pháp Diệt tránh là một thứ phương pháp giải quyết sự phân tranh. Nếu như nói giới là phương thuốc đề phòng sự hư đốn của đạo Giải thoát, thì pháp sám hối là phương thuốc làm thanh khiết của đạo Giải thoát. Chưa từng nhiễm ô hư đốn, phải nên ngăn ngừa; nhiễm ô hư đốn rồi phải lập tức xử lý làm cho thanh khiết; đây là công dụng của pháp sám hối. Nhưng không nên hiểu lầm, pháp sám hối không phải là toàn năng hoặc vạn năng. Pháp sám hối đối với 4 tội Ba la di của giới căn bản là thương mà không thể giúp, pháp sám hối đối với tánh tội (bản lai là tội) cũng không có năng lực. Pháp sám hối chỉ có thể hối trừ giới tội của sự phân giới, hoặc gọi là giá tội hoặc gọi là chế tội. Tỷ như giết súc sinh là tánh tội trong Tỳ kheo giới, không được giết súc sinh là giá tội. Tỳ kheo giết một súc sinh bị hai lớp tội, pháp sám hối chỉ có thể trừ được giá tội, tánh tội vẫn phải bị quả báo bồi thường sinh mạng. Điều này giống như một người vừa là đảng viên của một chính đảng, đồng thời lại là quan chức của chính phủ, nếu ông ta phạm pháp quốc gia, đương nhiên bị sự chế tài của kỷ luật đảng đồng thời cũng bị sự chế tài của luật pháp quốc gia. Sự chế tài của kỷ luật đảng không thay thế được cho sự chế tài của luật pháp quốc gia. Điều này đồng một lý với pháp sám hối của Phật giới, vì thế chúng ta tuyệt đối không nên cho rằng vì có pháp sám hối nên có thể mặc tình to gan lớn mật dám phạm giới. Tuy nhiên, trong Tỳ kheo giới có những điều giới đồng có cả hai tánh tội và giá tội, cũng có những điều giới chỉ có giới tội. Tánh tội ắt có giá tội, song giá tội chưa hẳn có tánh tội. Đến như, những tội nào là tội song trùng? Những tội nào là tội đơn nhất? Không phải là chỗ của sách này tường thuật. Đại khái phạm các giới dâm dục trộm cướp, sát sinh, vọng ngữ, hủy báng, đều gồm có tội song trùng của tánh tội và giá tội, phạm giới thuộc về oai nghi chỉ có một thứ giá tội.
Đến số giới điều của Tỳ kheo giới, thông thường nói là 250 điều. Tứ Phần Luật và Căn Bản Thuyết NhấtThiết Hữu Bộ Luật đích xác điều là 250, và sự sắp xếp thiên tụ cũng giống nhau, đều là : 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 tội Xả đọa, 90 tội Đơn đọa, 4 pháp Hối quá, 100 pháp Ưng đương học (chúng học pháp của Căn Bản Hữu Bộ Luật hợp làm 43 điều, phân thành 100 điều), 7 pháp Diệt tránh.
Nhưng trong Ngũ Phần Luật có hơi bất đồng, cộng chung tính 259 giới: 4 tội khí, 3 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 Xả đọa, 91 Đơn đọa (so với Tứ Phần Luật thêm một điều giới khinh thầy, nhưng trong giới Bổn chỉ có 90 điều), 4 pháp Hối quá, 108 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt tránh.
Thập Tụng Luật có 257 giới : 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 xả đọa, 90 Đơn đọa, 4 pháp Hối quá, 107 (Giới Bổn là 113) Ựng đương học, 7 pháp Diệt tránh.
Tăng Kỳ Luật có 218 giới: 4 tội khí 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 xả đọa, 92 đơn đọa, 4 pháp Hối quá, 67 Ưng đương học, 7 pháp Diệt tránh.
Giải Thoát Giới Kinh có: 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 Xả đọa, 90 Đơn đọa, 4 pháp Hối quá 96 Ưng đương học, 7 pháp diệt tránh, cộng chung 246 giới.
Đến như văn tự của giới bổn lại có chỗ khác nhau, như Tứ Phần Giới Bổn có đến 6 bổn do kiết tập giới pháp bất đồng. Trong bổn luật này, giới điều của NgũPhần Luật nhiều hơn hết, giới điều của Tăng Kỳ Luật ít hơn hết, con số sai biệt của nó phần nhiều tại trong giới oai nghi của Ưng đương học, còn 7 hạng mục kia thêm bớt rất ít. Nhưng trừ 4 tội khí và 13 Tăng tàn ra, thứ tự điều văn của các bổn sắp xếp trước sau cũng không nhất trí. Đây là do cách nhìn của người biên tập các bộ mà ra. Đến như thứ tự trước sau của Đức Phật chế giới, trừ 4 tội khí thấy nói rõ trong Tăng Kỳ Luật,ngoài ra điều nào chế trước, điều nào chế sau, ngày nay cũng không thể nào tra cứu được; thật ra, đây cũng không phải là vấn đề trọng yếu.
Tỳ kheo giới rốt cuộc có bao nhiêu điều? Đây là vấn đề rất khó giải đáp. Nhân vì trong luật chép là do sự thật đã từng phát sinh ở đương thời mà chế, hễ có một sự kiện thì có một điều giới. Ngay trong đại hội kiết tập Luật tạng (biên tập và tụng ca), căn cứ vào giới luật Ngài Ưu Ba Ly đã từng nghe và nhớ được và biên tập ra Luật tạng thành văn lưu truyền hậu thế. Về sau, trải qua sự phân chia các bộ phái của Phật giáo, Luật tạng lại phân làm 5 bộ, tông chỉ tương đồng, nhưng nội dung có sự chọn lựa lấy bỏ bất đồng. Nói tóm lại, Tỳ kheo giới chưa chắc nhất định phải có đầy đủ 250 giới điều như trong Luật tạng, nhưng cũng chưa chắc chỉ có 250 điều này, thậm chí có thể nói Tỳ kheo giới là vô lượng vô số, vì tất cả oai nghi hành trì không có điều nào không thể không nằm trong phạm vi của Tỳ kheo giới. Nhân đây cũng có người đem 250 giới gồm hết 8 vạn 4 ngàn tế hạnh, vì 4 oai nghi đi, đứng, nằm,ngồi, mỗi oai nghi bao hàm 250 giới, thành 1.000 giới, qua lại ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại mỗi đời có 1.000 giới thành ra 3.000 giới. Đem 3.000 giới phối với 3 nghiệp của thân (sát sinh, trộm cướp, dâm dục) và 4 nghiệp của miệng (nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, ác khẩu) thành 2 vạn 1 ngàn giới. Lại phối với 4 thứ phiền não: tham sân, si và đẳng phần, thành ra 8 vạn 4 ngàn giới.
Đây là một số lý toán pháp của huyền học, trên sự thật, tuy không dùng phương pháp kế toán cố định này, nhưng điều có thể phát hiện để đem sát nhập vào Tỳ kheo giới vẫn còn rất nhiều, thật ra có thể nói số của oai nghi nhiều như cát bụi.
Ngược lại, trong 250 điều giới này lại có biết bao điều giới không phổ biến, không thích ứng được với mọi thời mọi nơi. Thật ra, ngay trong Đại Luật, Đột kiết la rất nhiều, mỗi một điều giới đều gồm có Đột kiết la, cho đến ở trong một điều giới có mấy thứ Đột kiết la. Trong Giới Bổn nêu ra Đột kiết la của Ưng đương học bất quá là liệt kê những điều lớn mà thôi; ngoài ra, Đột kiết la chưa xuất hiện trong luật còn rất nhiều.
III. SỰ ĐỒNG DỊ CỦA TỲ KHEO GIỚI VÀ TỲ KHEO NI GIỚI
Đã giảng qua số điều giới của Tỳ kheo, bây giờ giảng đến Tỳ kheo ni giới. Đoạn trên đã nói đại bộ phận của Tỳ kheo ni giới bổn đồng với Tỳ kheo giới, nhưng vì sinh lý và tâm lý của người nữ và người nam có chút bất đồng nên có những điều giới Tỳ kheo không thích ứng với Tỳ kheo ni và Tỳ kheo ni cũng không thể không có những quy định đặc thù cho họ. Vì thế, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới đã có đồng, cũng có khác.
Thông thường nói Tỳ kheo ni 500 giới, đây là một con số ước lượng. Thật ra, điều văn trong 5 bộ luật bổn đều không đủ 500 giới, song căn cứ vào trạng huống và nhu cầu thực tế đâu phải chỉ có 500 giới?
Tỳ kheo ni giới của Tứ Phần Luật gồm có 348 điều: 8 tội khí (4 giới trước đồng với Tỳ kheo), 17 Tăng tàn (trong đó có 7 giới đồng với Tỳ kheo), 30 Xả đọa (trong đó có 18 giới đồng với Tỳ kheo), 178 Đơn đọa(trong đó có 69 giới đồng với Tỳ kheo), 8 pháp Hối quá (hoàn toàn khác Tỳ kheo), 100 pháp Ưng đương học (2 giới đi lắc thân và tiểu tiện trên rau cỏ tươi, đối với Tỳ kheo phạm Đột kiết la, Ni thì phạm Ba dật đề, ngoài ra hoàn toàn đồng nhau), 7 pháp Diệt tránh (hoàn toàn đồng với Tỳ kheo). Tính chung, đồng với Tỳ kheo giới 198 điều, khác Tỳ kheo giới 150 điều.
Tỳ kheo ni giới của Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu BộLuật gồm có 354 điều: 8 tội khí, 20 Tăng tàn, 33 Xả đọa, 180 Đơn đọa, 11 pháp Hối quá, 95 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt tránh. Sự đồng dị của nó với Tỳ kheo giới đại khái cũng gần như Tứ Phần Luật và có chút thêm bớt.
Tỳ kheo ni giới của Ngũ Phần Luật gồm có 377 giới (trong Giới Bổn liệt kê 381 điều): 8 tội khi ( 4 giới trước đồng với Tỳ kheo)17 Tăng tàn ( trong đó có 5 giới đồng với Tỳ kheo), 30 Xả đọa ( trong đó có 18 giới đồng với Tỳ kheo), 207 Đơn đọa (Giới Bổn liệt kê 210, trong đó có 68 giới đồng Tỳ kheo),8 pháp Hối quá hoàn toàn khác Tỳ kheo, 100 pháp Ưng đương học (đại tiểu tiện trên rau cỏ tươi, Ni phạm Ba dật đề, ngoài ra đều đồng với Tỳ kheo), 7 pháp Diệt tránh ( hoàn toàn đồng Tỳ kheo). Tính chung đồng với Tỳ kheo 210 giới, khác với Tỳ kheo 176 giới.
Tỳ kheo ni giới của Thập Tụng Luật gồm có 354 điều: 8 tội khí (4 giới trước đồng Tỳ kheo), 17 Tăng tàn (có 7 giới đồng Tỳ kheo), 30 Xả đọa ( có 19 giới đồng Tỳ kheo), 178 Đơn đọa (có 71 giới đồng Tỳ kheo), 8 pháp Hối quá (hoàn toàn khác Tỳ kheo), 106 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt tránh.
Tỳ kheo ni giới của Tăng Kỳ Luật gồm có 290 điều: 8 tội khí, 19 Tăng tàn, 30 Xả đọa, 141 Đơn đọa, 8 pháp Hối quá, 77 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt tránh.
Giải Thoát Giới Kinh chỉ có một quyển, trong đó chỉ cóTỳ kheo giới, không có Tỳ kheo ni giới. Nhưng trong Ni giới của 5 quyển luật nêu ra cũng lấy số điều giới của Ngũ Phần Luật nhiều hơn hết, số điều giới của Tăng Kỳ Luật ít hơn hết. Nhưng tối đa chỉ có 377 điều, chỗ gọi Tỳ kheo ni 500 giới bất quá là con số ước lược đại khái mà thôi!
Hành Sự Sao quyển 1, trung, căn cứ Luận Minh Liễunói: “Bốn vạn hai ngàn phước hằng hà sa chảy”, có nghĩa là giới có 4 vạn 2 ngàn. Nhưng cũng đem hai bộ Tăng Ni chia riêng ra theo thống kê: “Tỳ kheo giới ước lược 250, bậc trung thì có 3 ngàn oai nghi, 6 vạn tế hạnh, rộng nhiều thì vô lượng. Tỳ kheo ni giới 348 giới, bậc trung thì 8 vạn oai nghi, 12 vạn tế hạnh, rộng nhiều cũng vô lượng”. Đây đều là pháp thống kê theo số lý huyền học, trên thực tế cũng chưa hẳn cố định như thế.
Ba la di và Tăng già bà thi sa của Tỳ kheo giới, trong các bộ luật đều đồng là 4 tội khí, 13 Tăng tàn, Tỳ kheo ni giới từ Tăng già bà thi sa, các bộ luật bổn có chỗ bất đồng. Tứ Phần Luật là 17 Tăng tàn, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật là 20 Tăng tàn, Ngũ Phần Luật cũng là 17 Tăng tàn. Tăng Kỳ Luật có 19 Tăng tàn. Đây là chỗ bất đồng của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới.
Tỳ kheo giới cộng phân ngũ thiện, thất tụ; Tỳ kheo ni giới không có pháp bất định; chỉ có ngũ thiên, lục tụ. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ: Tỳ kheo cùng người nữ, thân xúc chạm nhau bất luận là lớn nhỏ, chết sống, bất luận phần trên thân phần dưới thân, hễ cố ý để thịt da xúc chạm nhau đều phạm Tăng tàn. Tỳ kheo ni cùng người nam thân xúc chạm nhau phải là người thành niên biết rõ đối với mình có tâm nhiễm ô, từ đầu gối trở lên, từ mắt trở xuống; cổ tay trở lên, cố ý xúc phạm, phạm tội Ba la di. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo biết Tỳ kheo kia có tội thô ác như 4 tội khí, 13 Tăng tàn, mà vì người kia che dấu không cử tội phạm Ba dật đề. Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni kia phạm Ba la di không tự trình bày, chẳng ở trước Tăng đoàn cử tội thì phạm Ba la di. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo cố chọc âm (như ngày nay người ta nói là thủ dâm) xuất tinh, phạm tội Tăng già bà thi sa, Tỳ kheo ni cố chọc âm xuất tinh (là chỉ cho chất nước nhờn ở trong âm đạo. Người nữ khởi niệm dâm, làm việc dâm, âm đạo bị vật xúc chạm đều có hiện tượng chảy nước. Luận Tát Bà Đa quyển 3 nói: “Người nữ xuất tinh không dễ như người nam”), phạm tội Ba dật đề. Ngũ Phần Luật quyển 12 nói: “Tỳ kheo ni lấy tay vỗ âm hộ, phạm Ba dật đề; chảy đồ bất tịnh, phạm Thâu lan giá. Tăng Kỳ Luật quyển 40 cũng nói: Tỳ kheo ni dùng nước tống vào âm đạo, dùng vật đút vào âm đạo vì thỏa dục, phạm Thâu lan giá, xuất tinh cũng phạm Thâu lan giá. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ (chú ý: Người nam thủ dâm quá nhiều sẽ thành bệnh lao, hoặc thần kinh suy nhược, di tinh. Người nữ chọc âm quá nhiều sẽ sinh bệnh bạch đái, bướu tử cung, sa tử cung, kinh nguyệt không đều).
Tỳ kheo ăn ngũ tân như tỏi…phạm tội Đột kiết la, Tỳ kheo ni phạm Ba dật đề. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo dùng hương xoa chà thân, phạm tội Đột kiết la, tỳ kheo ni phạm Ba dật đề. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo đi lắc thân phạm tội Đột kiết la. Tỳ kheo ni phạm tội Ba dật đề. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Những chỗ đồng dị tương tợ như thế còn rất nhiều, còn có biết bao nhiêu điều chế riêng cho mỗi bộ của 2 bộ Tăng Ni, ở đây không thể nêu ra hết.
Chỗ bất đồng lớn hơn hết của Tỳ kheo ni giới là Bát kỉnh pháp. Bát kỉnh pháp là pháp Tỳ kheo ni xuất hiện sớm hơn hết; bà Đại Ái Đạo cùng 500 phụ nữ dòng họ Thích xuất gia là tiếp thọ Bát kỉnh pháp của Phật chế mà thành Tỳ kheo ni. Về sau tuy có 500 điều Tỳ kheo ni giới, Tỳ kheo ni ngoài việc thọ 500 giới còn phải trì Bát kỉnh pháp và lấy Bát kỉnh pháp làm giới trọng tâm của Tỳ kheo ni giới. Tứ Phần Luật gọi là Bát kỉnh pháp là tám pháp không được vượt qua, lại có người gọi là tám pháp không được vượt qua, lại có người gọi là tám pháp không được vi phạm. Đây là pháp Tỳ kheo ni không được không trì, cũng không thể không trì. Nay đem Bát kỉnh pháp ghi trong Tứ Phần Luật Tỳ Kheo niKiền Độ, sao lục như sau:
1. Tuy là Tỳ kheo ni trăm tuổi, thấy Tỳ kheo mới thọ giới phải đứng dậy đón rước lễ bái và trải tòa sạch sẽ mời ngồi. Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
2. Tỳ kheo ni không nên mạ lỵ, quở trách Tỳ kheo, không nên nói lời phỉ báng là phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
3. Tỳ kheo ni không nên cử tội, tác ức niệm, tác tự ngôn cho Tỳ kheo, không nên ngăn người khác tìm tội, ngăn thuyết giới, ngăn tự tự. Tỳ kheo ni không được quở Tỳ kheo, Tỳ kheo được quở Tỳ kheo ni. Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
4. Thức xoa ma na học giới rồi, đến Tỳ kheo Tăng xin thọ đại giới. Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
5. Tỳ kheo ni phạm tội Tăng tàn, phải ở trong 2 bộ Tăng nửa tháng hành ma na đỏa (nghĩa là ý hỷ, hoặc duyệt chúng). Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
6. Tỳ kheo ni mỗi nửa tháng phải cầu xin Tỳ kheo mà kiết hạ an cư. Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
7. Tỳ kheo ni không nên ở chỗ không có Tỳ kheo mà kiết hạ an cư. Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
8. Tỳ kheo ni tăng an cư xong phải qua trong Tăng cầu 3 việc tự tứ, Tỳ kheo Tăng đối với Ni tùng hạ thấy, nghe, nghi (tội hạnh được biết từ ba tình hình thấy, nghe, nghi này đâu có thể tùy ý nói ra, gọi là Tam sự tự tứ). Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
Trên thực tế, Tỳ kheo ni Trung Quốc ngày nay, dẫu cho người có đạo tâm lắm đi nữa cũng chỉ trì được hai ba điều trong Bát kỉnh pháp mà thôi. Ngoài ra đều là có quan hệ đến vấn đề của pháp yết ma hoặc pháp tác trì, vốn không làm sao tuân hành đúng như luật, do vì Bát kỉnh pháp trên Phật giáo sử Trung Quốc đến nay còn không tìm ra căn cứ xác thật của sự thực hành đúng như luật.
Thức xoa ma ni Trung Quốc dường như chưa từng có. Mỗi nửa tháng qua trong Tỳ kheo Tăng cầu giáo thọ, ngay từ đời Đường, Luật sư Nam Sơn Đạo Tuyên cũng đã nói: “Trong thời gần đây, phần nhiều chỉ thực hành pháp lược, bởi do pháp quảng bậc Thượng tọa có đức khó đủ”. Ni xin Tỳ kheo giáo thọ có hai phương pháp quảng và lược. Pháp quảng là sau khi nhận lời Tỳ kheo ni tăng thỉnh, trong Tỳ kheo tăng phải sai một vị Thượng tọa có đức sang chùa Ni giáo giới. Pháp lược là Ni tăng sai người đến thỉnh, trong Tỳ kheo Tăng chỉ nói: “Trong chúng đây không có người giáo hóa Ni, Ni chỉ tự cẩn thận chớ phóng dật”. Nói một lần là như thế, Ni đáp: “Y giáo phụng hành”, kế là xong pháp lược. Đời Đường đã chưa thực hành pháp quảng, đến đời Tống, Luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu nói: “Ngày nay hai pháp quảng lược đều bỏ, chỉ có thể nghe biết, dùng để tương lai học tập thôi”.
Đến như Tỳ kheo Ni phải ở trong hai bộ tăng Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni xuất tội Tăng tàn, nhân vì Tỳ kheo Ni Trung Quốc thọ Cụ túc giới luôn luôn đều trực tiếp từ trong một bộ tăngTỳ kheo cầu, thì trong 2 bộ tăng xuất tội Tăng tàn đương nhiên sẽ là điều không thể thấy. Kiết hạ, an cư và giải hạ, tự tứ ngày nay ở Đài Loan đã có Đại Đức tiến hành, song đáng tiếc là Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đồng an cư tại một chùa, đồng tại một chùa tác pháp vẫn không phải là điều luật chế chấp thuận? Tỳ kheo Ni không được ở chỗ không có Tỳ kheo an cư, nhưng cũng không được cùng Tỳ kheo đồng ở một chùa an cư mà là ở gần chỗ Tỳ kheo an cư, đó là để tiện cho mỗi nửa tháng qua trong Tỳ kheo Tăng thỉnh người giáo thọ. Do đây kiểm thảo lại, các chị em Tỳ kheo Ni có đại tâm, phát đại nguyện có cảm tưởng thế nào? Cứ để nó hỗn loạn như thế, hay là ngẩng đầu lên nỗ lực chấn hưng? Điều này có quan hệ với mạng mạch của Phật giáo; lại là sự nghiệp lớn và vấn đề lớn có quan hệ đến tiền đồ của chị em Tỳ kheo Ni nữa!
...........................................

Chương 4. Giới Trọng Yếu Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

I.NHỮNG GÌ LÀ GIỚI TRỌNG YẾU?
Vì nội dung của quyển sách có giới hạn nên không thể đem in toàn bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni giới mỗi mỗi giới thiệu, ở đây chỉ đề xuất cương yếu, nêu ra đại khái, nếu độc giả có chí học giới, trì giới, tự có thể xem trong các Đại Luật.
Phật giới đều là trọng yếu, nhưng những giới nào so ra trọng yếu hơn? Đại sư Hoằng Nhất có khai thị trong bộ TứPhần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục của Ngài như vầy: “Nói theo tiêu chuan thấp nhất, trong chỉ trì, 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định đều phải tịnh trì. Trong tác trì, kiết tăng giới, thọ giới, sám tội thuyết giới, an cư, tự tứ cũng dễ hành”. Lại nói: “Trong oai nghi như tánh tội (giới giết súc sinh, giới vọng ngữ) và những điều nước ta (Trung Quốc) chê trách hơn hết (các giới uống rượu, ăn phi thời và quan hệ với nữ Ni) đều phải trì, ngoài ra đều có phải tùy sức”. Đây là ý kiến rất quý báu. Về giới sát sinh và tiểu vọng ngữ trong oai nghi đã được giới thiệu qua trong thiên ngũ giới. Đến các vấn đề oai nghi của uống rượu, ăn phi thời, và nữ Ni, trong quyển “Phật giáo Chế Độ và Sinh Hoạt”, tôi đã viết 2 thiên “Quy chế ăn uống của Phật giáo” và “Nam nữ quan của Phật giáo” chuyên thảo luận những vấn đề này, ở đây không lặp lại. Nay cần phải giới thiệu là 4 pháp khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định.
II. BỐN PHÁP KHÍ
Pháp Ba la di của Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni tuy có nhiều ít bất đồng, nhưng chủ yếu là 4 giới căn bản:
1. Giới dâm, phân làm 2 thứ: Một là tự mình dâm người khác, hễ có tâm dâm dục nơi miệng và đường đại tiện của nam tánh, nơi âm đạo, đại tiện đạo và miệng của nữ tánh, cho đến ba chỗ của súc sinh và thây chết hơn phân nửa chưa loại, nhập vào như đầu sợi lông, bèn phạm Ba la di. Hai là người khác dâm mình, bị oan gia hoặc cường bạo bức hiếp, hoặc trong khi ngủ người khác đến hành dâm, ngay lúc nhập vào, đã nhập, lúc ra, trong ba thời có một niệm cảm thọ khoái lạc, phạm tội Ba la di. Tỳ kheo Ni thì đổi làm ba chỗ chủ động nhận người khác hành dâm nhập vào như đầu sợi lông thì phạm Ba la di. Bị người khác hiếp dâm, trong ba thời có một niệm cảm thọ khoái lạc cũng phạm Ba la di.
Nhưng tội nghiệp Ba la di của giới dâm cũng có chia ra khinh trọng. Đại sư Hiền Thủ Pháp Tạng trong Bồ tát GiớiBổn Sớ phân thành 6 vị: Ước cảnh (cao thấp), ước tâm (mạnh yếu), hợp biện (tâm cảnh), ước số (nhiều ít), ước xu hướng (ẩn hiện), ước tổn (đức của mình, của người) để nói về sự sai biệt khinh trọng cảu giới dâm. Ở đây chỉ lấy một vị ước cảnh để giới thiệu, các vị khác có thể theo đây suy ra mà biết. Cảnh có 10 thứ:
1. Thây chưa chết chưa loại.
2. Cùng quỷ giao thông.
3. Súc sinh.
4. Người.
5. Các người thân thuộc.
6. Chị em (anh em).
7. Hai chúng tại gia trì ngũ giới, bát giới.
8. Hai chúng xuất gia trì Đại giới.
9. Cha mẹ.
10. Thánh nhân như phạm La hán hoặc La hán Ni.
Đồng là phạm giới dâm Ba la di, nhưng trước khinh sau trọng, như dâm thây chết là tội khinh, dâm Thánh nhân là tội trọng, đây là ngay lúc thọ quả báo sẽ thấy rõ ràng.
1. Giới trộm cướp: Biết là vật có chủ mà khởi tâm trộm cướp, trộm lấy đồ vật trị giá 5 tiền trở lên rời khỏi chỗ cũ phạm tội Ba la di. Giới trộm cướp là một giới phức tạp hơn hết trong 4 giới Ba la di, trong các bộ luật đều có phân tích nhiều, đặc biệt ở trong Tăng Ky Luật phân tích kỹ càng. Giới trộm cướp gọi chung là “Không cho mà lấy”, nhưng có nhiều trường hợp bất đồng như: Tự tay mình lấy, đưa mắt ra hiệu cho người khác lấy, bảo người lấy. Chủng loại, xứ sở, phương thức lấy đồ vật có đến 26 hạng mục: Mặt đất, trên mặt đất, nơi xe, nơi gánh, nơi trống không, ở chỗ trên, nơi thôn làng, nơi A lan nhã, nơi ruộng, xứ sở, nơi thuyền, nơi nước, qua đò, qua ải, không đóng thuế, lấy vật của người khác gửi, nước, nhành dương (dùng đánh răng), trái cây, cỏ cây trong vườn, chúng sinh không có chân, chúng sinh 2 chân, chúng sinh 4 chân, chúng sinh nhiều chân, của cải chung, đồng khế ước, hầu hạ, giữ gìn, canh giữ đường trọng yếu. Ba la di của giới trộm cướp tuy đồng phạm, không cho mà lấy 5 tiền trở lên, nếu do sự bất đồng của vật chủ và vật thể thì nghiệp báo cũng riêng có khinh trọng bất đồng. Tỷ như trộm cướp của nhà giàu 5 tiền, người giàu sẽ không đau khổ quá nhiều; nếu trộm của người nghèo 5 tiền có thể làm cho người nghèo bị vô cùng khốn khổ. Tâm của người bị trộm buông xả, hay tham lam keo kiết cũng khiến cho tội của người trộm có khinh trọng bất đồng.
2. Giới giết người: Cố ý giết người, biết rõ là người bị giết đã chết thì phạm tội Ba la di. Phương thức giết người phân ra có: chính mình đích thân giết, bảo người giết, hiện tướng (tỷ như gật đầu, ra dấu bằng tay hoặc bằng mắt) giết, khen ngợi giết, viết thư sai giết, dùng công cụ giết (như đào hầm ám khí, bùa chú giết).
Tội ba la di giết người, nghiệp báo cũng có khinh trọng. Do vì đẳng vị cao thấp của người bị giết, phẩm cấp mạnh yếu của tâm người giết và trình độ của cách giết (thân, khẩu, ý nghiệp) được sử dụng bất đồng, nghiệp báo cũng có khinh trọng bất đồng, tỷ như đồng là giết người, tội giết người phổ thông nhẹ hơn giết người đã phát Bồ đề tâm. Nếu như giết cha mẹ, Sư trưởng, cho tới Thánh nhân, tội nghiệp còn nặng hơn giết người đã phát Bồ đề tâm. Như vì tâm tham mà giết người tội nhẹ hơn, do tâm sân giết người tội nặng hơn, do tâm tà kiến giết người (cho rằng giết người được phước, được sinh lên trời, hoặc cho rằng giết người không có quả báo) tội nghiệp lại càng nặng hơn.
3. Giới đại vọng ngữ: Dùng tâm dối gạt khiến người hiểu lời nói dối là chính mình được pháp hơn người như thánh nhân, như thiền định; lời lẽ, ý tứ rõ ràng; người nghe tin rằng thật và bị dối gạt, phạm tội Ba la di. Nếu dùng văn tự vọng ngữ, hoặc sai người khác thay mình vọng ngữ, hoặc hiện ra tướng để vọng ngữ, chỉ cần đạt được mục đích như thế, tức thành tội đại vọng ngữ.
Ba la di của đại vọng ngữ tội nghiệp cũng có khinh trọng. Dối gạt người ân và bậc tôn trưởng, phạm tội trọng.Dối gạt người bình thường, phạm tội khinh. Dối gạt vài người cho đến một người thì tội khinh. Người bị gạt cực kỳ đau khổ thì tội khinh. Nếu vì danh dự cung kính mà đại vọng ngữ, rồi lại cho rằng đây là công đức và thường làm không dứt, phạm tội trọng. Vì lánh nạn khổ bức bách mà đại vọng ngữ thì tội khinh. Đương nhiên, Ba la di là mất Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni giới. Chỗ này gọi khinh là so sánh khinh ở trong quả báo của tội trọng, chứ không phải có nghĩa là ly khai giới trọng nhập vào giới khinh.
Bốn điều kể trên là 4 pháp khí, nếu phạm phá một điều nào trong 4 điều trên tức là bị bỏ ra ngoài biển lớn Phật pháp, suốt đời không được làm Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni nửa. Song, mỗi giới cũng có khai duyên:
1. Giới dâm: Nếu ngu không hay biết gì hết, người khác ở trên thân mình hành dâm, nếu bị cưỡng hiếp hành dâm mà không cảm thọ khoái lạc, nếu hoàn toàn không có ý dâm dục, nếu bị suy cuồng tâm loạn, đau khổ ràng buộc, đều không kể là phạm.
2. Giới trộm cướp: Nếu tưởng là vật cho mình là vật phấn tảo (ném bỏ), nếu tưởng là của người thân (thân thiết không có phân biệt mình người), như thế không cho mà lấy đều không kể là phạm.
3. Giới sát: Nếu lúc ném dao, gậy, ngói, đã lỡ trúng nhằm người khác chết; hoặc lúc xây cất phòng nhà lỡ làm rớt cây, đá, gạch, ngói làm cho người ở dưới chết; nếu có lòng tốt xốc đỡ người bệnh đi đứng ngồi nằm, người bệnh nhân đó mà chết; nếu không có tâm làm hại làm cho người khác chết đều không kể là phạm.
4. Giới đại vọng ngữ: Nếu người tăng thượng mạn (chính mình không có tâm dối gạt nhưng do sự hiểu lầm về thiền định) tự cho mình thật chứng pháp Thánh nhân, nếu là nhân duyên nghiệp báo, không nói là do tu mà đắc, hoặc nói đùa, hoặc nói trong chiêm bao, hoặc nói lầm, đều không kể là có tội.
III. MƯỜI BA PHÁP TĂNG TÀN
Mười ba pháp Tăng tàn:
1. Cố chọc âm xuất tinh.
2. Xúc chạm người nữ.
3. Nói lời thô tục với người nữ.
4. Ngợi khen mình đòi cúng dường.
5. Làm mai mối cưới gả.
6. Không có thí chủ, tăng không xử phân mà làm nhà quá lượng (quá chiều dài 12 gang tay, chiều rộng 7 gang tay Phật).
7. Có thí chủ, tăng không xử phân mà làm nhà.
8. Vu báng người không phạm là phạm giới trọng một cách không căn cứ.
9. Lấy chút tội khác vu báng người là phạm trọng giới không căn cứ.
10. Phá hòa hợp Tăng và còn chống lại lời khuyên can của Tăng đoàn.
11. Lập bè đảng, giúp phá tăng và chống lại lời khuyên can.
12. Làm nhơ nhà người (mang lễ vật tặng biếu cho người cư sĩ) đến nỗi bị Tăng đoàn đuổi đi, rời chỗ này đi đến chỗ khác, tâm còn không phục, phỉ báng Tăng đoàn, chống lại sự khuyên can của Tăng đoàn.
13. Tánh xấu cự tuyệt lời dạy bảo của Tăng đoàn và chống lại lời khuyên can của Tăng đoàn.
Trên thực tế, trong 13 pháp tăng tàn, tại Phật giáo Trung Quốc ngày nay chỉ có giới chạm xúc người nữ, nói lời thô tục với người nữ, và làm mai mối cưới gả là trọng yếu. Đến như cố chọc âm xuất tinh là việc cá nhân, ngừời xụất gia phạm thủ dâm là điều không nên, nhưng không đến nỗi nhân đây bị sự chê bai của người bên ngoài. Phương pháp cố chọc âm xuất tinh tuy nhiều, nhưng không ai dám công khai làm như thế cho người khác xem. Đương thời nếu không cố ý chọc âm, dù là xuất tinh, cũng không phạm giới. Phàm phu khó khỏi xuất tinh, dầu cho tâm dục sinh khởi xuất tinh, nếu không phải do có tâm làm cho xuất tinh cũng không phạm giới. Đến như người nữ chảy nước trong âm đạo, tình hình cũng giống như vậy. Đến như tự khen mình có đức mà đòi cúng dường dâm dục, tôi nghĩ là việc rất khó phát sinh vì đây là ý kiến quá điên đảo, rất ít người dám mở miệng nói ra. Đến như làm phòng nhà, hiện nay không bị sự hạn chế này nữa. Còn như vu báng phạm tội trọng cũng có thể xảy ra, nhưng trong xã hội hiện nay, nếu không có nhân chứng và vật chứng xác thật thì dễ gì làm cho người khác tin! Đến như phá Tăng và lập phe đảng phá Tăng, ở Phật giáo Trung Quốc không có thực hành pháp yết ma thì không có chuyện đó xảy ra. Đến như làm nhơ nhà người, người xuất gia đem lễ vật tặng biếu cho tín đồ, tại Trung Quốc thời đại mạt pháp, đã là Trụ trì của của một đạo tràng thật khó tuyệt đối không đi trên con đường này. Tuy phải coi trọng một điều giới này, nhưng người Trụ trì của tự viện Trung Quốc nếu tặng biếu lễ vật cho người tục thì ai sẽ đuổi họ đi chỗ khác? Đến như tánh xấu chẳng nhận lời của Tăng đoàn can gián, ở trong hoàn cảnh không cử hành pháp yết ma, tự nhiên dùng cũng không được. Thật ra, trong 13 pháp Tăng tàn, hai điều số 6 và 7 cần phải dùng pháp yết ma cầu được Tăng chúng đồng ý xử phân. Bốn điều số 10,11,12,13 cần phải ở trong Tăng chúng ba lần can gián, ba phen yết ma mới thành lập được. Trong hoàn cảnh không cử hành pháp yết ma, 13 pháp Tăng tàn nhiều nhất chỉ có thể thực hiện được 7 điều mà thôi.
Như thế, chúng ta chỉ giới thiệu sơ lược ba điều giới: Chạm xúc người khác phái, nói lời thô tục với người nữ, làm mai mối cưới gả như sau:
A. Giới xúc chạm người khác phái
Xúc chạm người nữ là giới của Tỳ kheo, nhận sự xúc chạm của người nam là giới của Tỳ kheo Ni. Sự nguy hiểm của việc xúc chạm người khác phái đặc biệt trọng đại, do vì sự cảm thọ của xúc chạm khiến cho tình dục nổi dậy, có thể sinh ra phản ứng không tốt cho sinh lý. Theo sự nghiên cứu, các bộ phận mẫn cảm hơn hết của thân thể của con người là: môi, vú, nách, eo, âm hộ, bộ phận trì độn là: lưng, lông, tóc: bộ phận trì độn hơn hết là móng, răng; ngoài ra như bắp vế, hông, bụng, cánh tay, gò má thuộc về bộ phận mẫn cảm loại kế. Nếu như người nữ tình cảm yếu đuối, một khi bị người khác phái vuốt ve các bộ phận mẫn cảm nhất, thường bị kích thích mất đi tất cả năng lực phản kháng. Nhân vì phàm phu chưa có thể ly dục, đối với người khác phái đều có một khao khát tình dục một cách bẩm sinh, một khi hai nhục thể tiếp xúc nhau sẽ có một sự cảm thọ lạ. Hiển nhiên đây là thuộc tác dụng phân biệt của tâm lý, người nữ cùng người nữ chạm xúc nhau thấy cũng bình thường, người nam với người nam chạm xúc nhau thấy cũng bình thường. Nếu như lúc mắt không thấy, hoặc lúc vô ý bị người khác phái xúc chạm mà cũng không biết là bị người khác phái xúc chạm, cũng thấy bình thường. Nếu như tôi là người nam biết rõ đối phương là người nữ ngày đêm tôi ái mộ, phản ứng tâm lý lúc xúc chạm sẽ đặc biệt mãnh liệt cho đến chỉ chạm một chút áo cũng sinh ra vọng tưởng mộng mơ. Cũng giống như thế, nếu tôi là người nữ gặp được một chàng đẹp trai của lòng tôi luyến mộ, thì phản ứng tâm lý khi tiếp xúc chạm cũng sẽ đặc biệt mãnh liệt.
Người xuất gia cấm ngăn dâm dục, mục đích của sự cấm ngăn dâm dục vì giải thoát sự ràng buộc do dâm dục mà phải chịu sinh tử lâu dài này. Cấm ngăn dâm dục là công tác huấn luyện đoạn dục, ly dục. Từ sự cấm chỉ dâm dục, dần dần xa được dục sự, tiến lên một bước dần dần xa được dục niệm. Sau cùng có thể xa lìa cái lưới mê sinh tử do dâm dục cấu thành. Ngoài ra, người xuất gia cùng với người khác phái xúc chạm, dẫu cho tâm không có tà niệm cũng là việc dễ bị người bên ngoài chê bai.
Trước người giới nha phiến, không nên cho người ấy nghe đến mùi nha phiến; trước người giới rượu, không nên cho người ấy ngửi đến mùi rượu; trước một người giới cờ bạc, không nên cho người ấy vào sòng bạc. Bằng không rất khó giới trừ. Cũng như vậy, một người xuất gia đang giới dâm cũng không nên cho người ấy chạm xúc người khác phái hoặc bị người khác phái chạm xúc. Bằng không, công phu giới dâm có thể nhân đây bị sự khảo nghiệm mảnh liệt, người bị khảo nghiệm qua không nổi, có thể nhân sự uy hiếp này mà đưa đến phá phạm giới dâm căn bản. Vì thế, hành vi nhục thể của người xuất gia cùng người khác phái chạm xúc tuy chẳng phải là sự thật của dâm dục, nhưng do sự phản ứng của sự chạm xúc rất có thể đưa đến sự thật của dâm dục. Nguyên nhân người xuất gia không được xúc chạm người khác phái là như vậy. Nhân vì người nữ tâm chí yếu đuối, thể lực bạc nhược, không dễ gì kháng cự được sự uy hiếp và dụ dỗ của sức mạnh bên ngoài, cho nên đối với một giới xúc chạm này chế định rất nghiêm khắc. Tỳ kheo chạm xúc người nữ, phạm Tăng tàn. Tỳ kheo ni cùng người nam chạm xúc, phạm Ba la di. Đây không phải thiên vị Tỳ kheo, khinh rẻ Tỳ kheo ni, mà là bảo hộ giới thể Tỳ kheo ni an toàn. Vì thế, ngăn cấm rất nghiêm khắc. Nhưng bộ phận chạm xúc của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni cũng có thêm bớt: Tỳ kheo ni từ đầu gối trở lên, từ mắt trở xuống, từ cổ tay trở lên, để trần nhận sự xúc chạm của người nam phạm Ba la di; vì từ đầu gối trở lên chính là bao quát hết tất cả bộ phận mẫn cảm. Sự chỉ định một bộ phận này là do tôi tham khảo các bổn luật mà tổ hợp thành. Nhân vì, Tứ Phần Luật là từ đầu gối trởlên, từ nách trở xuống, cổ tay trở lên;Hữu Bộ Luậtthì từ mắt trở xuống, từ đầu gối trở lên. Thập TụngLuật nói:Từ mí tóc trở xuống, cổ tay trở lên, ở y phục nhận sự xúc chạm phạm Ba la di”. Tứ Phần Luật“Từ nách trở xuống không bao quát được gò má và miệng”. Thập Tụng Luật: “Từ mí tóc trở xuống”, so sánh ra là thích đáng hơn hết. Trong Thiện Kiến Luật quyển 7, đối với Tỳ kheo có quy định: “Cảm thọ sự khoái lạc của xúc chạm giữa miệng với miệng, phạm Tăng già bà thi sa”. Nếu chuẩn theo Tỳ kheo ni giới, hai miệng nam nữ hôn nhau, ít nhất là tội (chưa toại) Thâu lan giá của Ba la di.
Thập Tụng Luật quyển 42, đối với Tỳ kheo ni thọ nhận sự xúc chạm, nói có 4 hạng:
1. Từ mí tóc trở lên, cổ tay trở xuống, đầu gối trở xuống, không có ý phục che, thọ nhận người nam chạm xúc, phạm Thâu lan giá; có y phục thọ nhận người nam xúc chạm, có khoái lạc, phạm Đột kiết la.
2. Mí tóc trở xuống, cổ tay trở lên, đầu gối trở lên, cởi y phục thọ nhận chạm xúc, phạm Thâu lan giá.
3. Tỳ kheo ni có tâm dục nhiễm cho người nam có tâm dục nhiễm vuốt ve, ôm, đè, xốc, kéo, đều phạm tội Ba la di.
4. Mặt, cổ, ngực, hông, sống lưng, bụng, rún, chỗ đại tiểu tiện, đùi vế cho đến đầu gối, cởi y phục thọ nhận sự chạm xúc, phạm tội Ba la di; có y phục thọ nhận sự chạm xúc, phạm Thâu lan giá.
Trong Tỳ kheo ni Hội Nghĩa nói: “Theo Tăng Kỳ Luật: Nếu Tỳ kheo ni tâm nhiễm ô muốn nhìn người nam, phạm tội trách tâm Đột kiết la. Nếu mắt thấy nghe tiếng, phạm đối thú Đột kiết la. Nếu thân thể hướng vào nhau, phạm Thâu lan giá”.
Đối với Tỳ kheo, trong Tăng Kỳ Luật quyển 28 nói: “Có tâm dục đi theo sau người nữ, mỗi bước đi phạm tội Việt Tỳ ni. Chân đạp người nữ, phạm Thâu lan giá. Nổi giận đánh người nữ, phạm tội Việt tỳ ni”.
Thiện Kiến Luật nói:Tóc với tóc chạm nhau, móng với móng chạm nhau, phạm Thâu lan giá; nếu giác biết lẫn nhau, phạm Tăng già bà thi sa”.
Nhưng trong luật có chế, có khai, chẳng phải một khi xúc chạm với người khác phái đều kẻ là phạm tội trọng, tội tăng tàn. Biết rõ là người nữ, đem thân xúc chạm, chạm thân, thân động và cảm thọ khoái lạc, Tỳ kheo phạm Tăng tàn; thân động mà không cảm thọ khoái lạc, phạm tội Thâu lan giá. Dùng y phục chạm thân, đem thân chạm y phục, thân động, thọ khoái lạc hay không thọ khoái lạc đều phạm Thâu lan giá. Nghi là người nữ đem thân chạm thân, phạm Thâu lan giá; đem thân chạm y phục, phạm Đột kiết la.
Biết rõ là người nam thành niên đối với mình có tâm nhiễm ô từ đầu gối trở lên, mắt trở xuống, cổ tay trở lên, dùng thân chạm thân, Tỳ kheo Ni động thân cảm thọ khoái lạc, phạm Ba la di; không cảm thọ khoái lạc, thân động, phạm Thâu lan giá. Đem thân chạm y phục, dùng y phục chạm thân, ni đến xúc chạm vào người nam, phạm Thâu lan giá; người nam đến xúc chạm ni, ni cảm thọ khoái lạc, phạm Thâu lan giá. Nghi là nam đem thân chạm thân, phạm Thâu lan giá; đem thân chạm y, dùng y chạm thân, phạm Đột kiết la.
Không vì tâm dâm dục trao đồ vật cho nhau mà đụng chạm nhau không kể là phạm. Nếu lúc cởi trói cho nhau, đụng chạm nhau cũng không phạm; đùa giỡn đụng chạm nhau cũng không kể là phạm. Luật sư Linh Chi nói răng: “Đùa giỡn đụng chạm nhau trái oai nghi, phải kết tội Đột kiết la”.
Trong Thập Tụng Luật quyển 3 nói: “Nếu tưởng là mẹ, tưởng là chị em, tưởng là con gái, đụng chạm vào thân người nữ không phạm. Nếu cứu nguy nữ bị lửa đốt, nước cuốn, đao binh, hoặc té từ chỗ cao xuống, nan ác trùng, ác quỷ thì không phạm; không có tâm nhiễm xúc chạm, không phạm; người nữ bị nước cuốn, phải cứu, tuy tâm dâm khởi lên nhưng nắm một chỗ không buông, đến bờ rồi không nên chạm xúc nữa, chạm xúc nữa, đắc tội”. Trong Căn Bản Thuyết Nhất ThiếtHữu Bộ Luật Bí sô Tỳ nại da quyển 5 nói:Nếu Bí sô ni tự có tâm nhiễm cùng người nam có tâm nhiễm từ mắt trở xuống, đầu gối trở lên có tâm cảm thọ, thọ khoái lạc hai thân chạm xúc nhau nếu chạm xúc nhau cực độ, làm như thế Bí sô ni này cũng đắc tội Ba la thi ca (Ba la di) không được cộng trụ”. Song lại nói: “Nếu bí sô ni không có nhiễm tâm, người nam hoặc có nhiễm tâm hoặc không nhiễm tâm, ni xúc chạm, phòng ngừa tâm thì không phạm. Nếu ni có bệnh, người xoa thân, ni khởi tâm nhiễm đắc tội ác tác; không có tâm nhiễm, không phạm; và bị bệnh khổ làm bức ngặt thì không phạm.
Thập Tụng Luật cùng Hữu Bộ Luật đối với yêu cầu của giới chạm xúc rất rộng, Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp quyển 3 nói: “Mẹ con, chị em có tâm cảm thọ khoái lạc xúc chạm vào thân của những người ấy, cũng đắc tội thô (Thâu lan giá); nếu không biết hổ thẹn, đắc tội Tăng tàn”.
Tăng Kỳ Luật cũng nói:Nếu người nữ té xuống nước kêu cứu, tỳ kheo quán tưởng là đất vớt lên, không phạm”. Lại nói: “Nếu nói biết cô khổ, nhưng cứ để mặc cho số mệnh của cô, cũng không phạm tội”.
Thập Tụng Luật vì cứu người, tuy có tâm dâm dục khởi,vẫn không kể là phạm. Tăng Kỳ Luật vì ngăn ngừa phá giới dâm, tuy thấy chết mà không cứu vẫn được vô tội. Đây là chỗ thêm bớt rất lớn. Nếu nói theo tinh thần Đại thừa, chúng ta nên nhận lấy quan điểm của Thập Tụng Luật và Hữu Bộ Luật. Nhưng nếu không cần yếu thì vẫn phải ngăn ngừa nghiêm khắc. Nhà Nho chủ trương giữa nam nữ phải “thọ thọ bất thân” (qua lại không thân) hiện nay đã phá sản, giữa người nam nữ xuất gia có đưa đồ vật qua lại cũng chẳng được quá thân cận; nếu do đưa đồ vật qua lại mà thân cận, do thân cận đi đến thân mật, từ thân mật sẽ sinh ra hậu quả đối với người xuất gia không thể tưởng tượng! Tuy nhiên như thế, nếu gặp bệnh đau, tại nạn Đức Phật cũng dạy các Tỳ kheo nam nữ phải cứu giúp lẫn nhau (Hữu Bộ Luật quyển 33).
Điều giới này dễ trì, da thịt tiếp xúc nhau sinh ra cảm thọ khoái lạc, Tỳ kheo phạm Tăng tàn, Tỳ kheo ni phạm Ba la di, chỉ cần có một tầng y phục vật dụng ngăn cách là không phạm tội này. Nhưng ở Trung Quốc ngày nay rất khó nói, trường hợp lên xe, xuống xe, mọi người chen lấn, người xuất gia ở trường hợp này khó tránh khỏi sự xúc chạm với người khác phái. Vào mùa hạ, người nam mặc áo sơ sài, người nữ phần nhiều mặc áo hở vai, hở lưng, người xuất gia cũng khó tránh khỏi sự xúc chạm với da thịt. Trong hoàn cảnh này, nếu muốn giữ gìn nội tâm tuyệt đối bình tĩnh cũng không phải là điều thanh niên nam nữ xuất gia của chúng ta phổ thông làm được! Người xuất gia Trung Quốc (ở nước Thái Lan người nữ tránh, nhường Tỳ kheo), chỉ có thể biểu thị sự không vừa ý, trừ phi mỗi người tự đề cao cảnh giác không nên cố ý đi tìm sự xúc chạm với người khác phái ra, cũng không có biện pháp nào tốt hơn.
B. Giới nói lời thô tục
Bây giờ nói về giới nói về thô tục với người nữ. Điều này rất ít có cơ hội phạm, người xuất gia có tâm tự trọng, tâm hổ thẹn, sẽ không mở miệng thốt ra lời thô tục. Đồng thời, Tỳ kheo xúc chạm người nữ không hạn cuộc là sống chết, già trẻ, hoặc ngủ hoặc thức, một điều giới này phải là một người nữ hiểu biết được nghĩa vị của lời nói mà nói, mới thành tội Tăng tàn; và chủ yếu là nơi hai đường ở phần dưới thân thể mới phạm tội này. Nếu nơi các bộ phận khác của thân thể, chỉ phạm Thâu lan giá. Nhưng trong Tăng Kỳ Luật quyển 5 nói: “Nếu dùng các phương thức: Khen, chê, nói, hỏi, cầu thỉnh, nhìn, mắng, nói thẳng để nói về dâm sự; dùng lời khen chê để nói về 14 chỗ là: hai môi,hai nách, hai vú, hai bên hông, bụng, rốn, hai đùi, hai đường đại tiểu tiện, đều phạm tội Tăng tàn. Nhưng phương thức nói lời thô tục theo tôi thấy, người có tri thức cao phần nhiều dùng cách gián tiếp và cách nói nghĩa bóng, người tri thức thấp mới dùng cách nói trực tiếp và thô tục. Bất luận là dùng phương pháp nào nói, chỉ cần đối phương là người nữ và hiểu được nghĩa của lời nói, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Tăng tàn. Hiểu nghĩa mà không hiểu ý vị thì đắc tội Đột kiết la. Tỳ kheo ni nói lời thô tục phạm Thâu lan giá. Nếu dùng văn tự viết ra, hoặc sai người thay thế nói, hoặc dùng văn tự viết ra, hoặc sai người thay thế nói, hoặc dùng tư thế và tay ra dấu nói, đạt thành dồng một mục đích, phạm tội Tăng tàn.
Thật ra điều giới này dễ trì, song phải cần thực hiện đến chỗ đã không nói với người nữ, cũng không nói với người nam; không nói với người khác phái, cũng không nói với người đồng phái. Nếu nói lời thô tục với người đồng phái, mỗi lời phạm một tội Đột kiết la, cho đến phải thực hiện đến điều được luật quy định là Tỳ kheo không được hỏi việc riêng kín của nữ ni.
Giới này cũng có khai duyên: Nếu vì người nữ nó bất định quán, nói đến 9 lỗ của thân thể con người thường chảy đồ bất tịnh thì không phạm. Hoặc lúc thuyết giới, nói đến hai đường đại tiểu tiện, không phạm. Hoặc người nữ không phải vì tâm dâm hỏi mà nói, không phạm, hoặc đùa giỡn nói, một mình nói, mau mau nói, trong chiêm bao nói, muốn nói lời này lầm qua lời kia, đều không phạm.
Một giới này phải đủ 7 điều kiện mới phạm tội Tăng tàn, đó là đối với người nữ, tưởng là nữ, có tâm nhiễm, lời thô tục, tưởng là lời thô tục (cho răng đây là lời thô tục), ngôn ngữ rõ ràng phân minh, người nghe hiểu rõ. Vì thế tôi cho rằng giới này dễ trì, nếu không trì được tốt giới này, bị chê bai cũng là một vấn đề nghiêm trọng, vì thế ở đây phải giới thiệu.
C. Giới làm mai mối cưới gả
Giới làm mai mối cưới gả là một giới Tăng tàn hết sức phiền phức trong 13 pháp Tăng tàn này. Trong giới Tăng tàn của Tăng Kỳ Luật có một thiên nói về giới này rất dài. Ở đây nói người làm mai mối là chỉ cho người qua lại hai bên làm mai mối cưới gả, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, nếu thành vợ chồng hoặc tư thông với nhau, cho đến trong khoảng chốc lát thì phạm Tăng già bà thi sa. Giới này phải đủ 6 điều kiện mới kể là phạm tội Tăng tàn: Là nam nữ của loài người, cho là nam nữ của loài người, làm mai mối cưới gả, cho là làm mai mối cưới gả, lời nói rõ ràng phân minh, tiếp nhận lời của nam nữ cả hai bên qua lại truyền đạt. Nếu thiếu một bên không phạm tội Tăng tàn, chỉ phạm tội Thâu lan giá. Một giới này Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đồng phạm tội Tăng tàn.
Trong Tứ Phần Luật Sớ nói: “ Lễ cưới gả hòa hợp sinh tử, thật trái với xuất ly, người xuất gia làm mai mối là trái với pháp thức; lại làm bận rộn, chướng ngại sự tu hành, bị sự chê bai, không khỏi thế gian trách móc, vì thế Phật chế giới”. Thời Phật tại thế có một vị Tỳ kheo tên Ca La, đối với việc mai mối cưới gả đặc biệt có phương pháp khéo léo, hễ ai được Ngài làm mai mối đều được thành công. Nhưng các nam nữ sau khi kết hôn, nếu cảm tình của vợ chồng đầm ấm thì nói tốt cho Tỳ kheo Ca La. Nếu vợ chồng bất hòa, gia đình không thuận, chồng chịu sự vất vả, vợ con bị ngược đãi, cả nhà tức giận mắng Tỳ kheo Ca La. Nhân đây Ngài bị người đời chê bai. Vì thế Đức Phật chế giới đệ tử xuất gia không được vì người tục làm mai mối cưới gả, nếu làm mai mối phạm tội Tăng tàn. Đồng thời, nếu vì cư sĩ mang thư tín, phải xem nội dung rồi mới mang đi để phòng trong thư có ý của nam nữ qua lại thông tin về việc mai mối, cũng không được làm tay sai qua lại cho cư sĩ, bằng không cũng phạm Đột kiết la.
Nhưng giới này cũng có khai duyên: Nếu nam nữ trước đã kết hôn sau lại chia lìa, khuyên họ nên hòa hợp, thì không phạm. Nếu vì cha mẹ hoặc Ưu bà tắc, Ưu bà di dốc lòng tin Phật pháp, hoặc người bệnh, hoặc người bị giam trong ngục, xem nội dung của thư tín, biết không quan hệ đến việc mai mối cưới gả, vì họ mang thư đi không phạm. Nếu vì Phật, Pháp, Tăng, tháp, hoặc vì Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) bệnh, xem nội dung thư tín xong, mang thư đi dùm cho họ không phạm.
Về một giới này, thời gần đây đến nay cần phải nghiên cứu, nhân vì tôn giáo không thể vượt ra ngoài sinh hoạt hằng ngày của quần chúng, bằng không, thì có thể bị gạt bỏ ra ngoài quần chúng. Đến trong sinh hoạt hằng ngày của quần chúng, hai điều được xem trọng là việc lớn hôn nhân và việc lớn sinh tử. Hình thái của Phật giáo luôn luôn thiên trọng vấn đề sinh tử, cho đến chỉ thiên về vấn đề độ người chết, đến nỗi bị người gần đây là La Gia Luân chê là tôn giáo của “Nhân tử quan”. Nghiên cứu bản chất của Phật giáo, quyết chẳng phải hạn cuộc ở việc độ người chết. Đức Phật ứng hóa ở nhân gian là vì cứu độ tất cả chúng sinh. Pháp môn độ người chết chỉ là phần phụ thuộc, chứ không phải chủ yếu. Phật giáo Trung Quốc đời sau lại làm đảo lộn gốc ngọn! Vì thế, mấy mươi năm gần đây cho đến nay, có một số Phật giáo đồ đề xướng cử hành nghi thức Phật hóa kết hôn. Từ trên yêu cầu hiện thực mà nói, đây là gặp được phong trào của sự đề xướng. Trên nguyên tắc mà nói, Phật hóa kết hôn không trái với tinh thần Phật giáo, thậm chí còn hợp với tông chỉ của Phật giáo Đại thừa, từ trên cảm quan tôi cũng tán thành thanh niên nam nữ Phật giáo đồ, phải nên cử hành Phật hóa kết hôn. Phật hóa kết hôn là cơ sở của Phật hóa gia đình, cũng là mở đầu của sự Phật hóa gia đình. Có kiện tòan Phật hóa gia đình mới có sự Phật hóa con cái ưu tú. Có Phật hóa con cái ưu tú mới có thanh niên Phật giáo ưu tú. Nhân đó, Phật giáo mới có được sự tôn sùng và quy hướng của xã hội, mới đem được nghĩa lý và tinh thần của Phật giáo phổ biến đến mọi nơi trong xã hội. Đây cũng là tông chỉ của Phật giáo Đại thừa.
Nhưng nghi thức Phật giáo kết hôn cũng không phải không có người phản đối, lý do phản đối là vì điều này không hợp với điều kiện Phật chế, còn có tội là làm trái với điều Phật chế nữa, do vì điều thứ 5 của 13 pháp Tăng tàn là giới làm mai mối cưới gả, cho rằng tất cả có quan hệ đến dâm sự giữa nam nữ, người xuất gia đều không được tham dự. Trong sự Phật hóa hôn lễ ngày nay lại lấy Tỳ kheo làm người chứng hôn, vì thế bị kết tội là hành vi trái với Phật chế.
Điều này đúng lắm, vì trong Phật điển chúng ta không tìm được căn cư cho phép Tỳ kheo làm người chứng hôn và cũng không tìm được cái tục lệ Phật hóa kết hôn.
Nhưng chúng ta phải nghiên cứu Tỳ kheo làm người chứng hôn có kể là làm mai mối hay không? Nếu nói theo nguyên tắc của Luật Tiểu thừa, Tỳ kheo lấy xuất ly sinh tử làm động cơ chủ yếu của sự giáo hóa. Hôn nhân là môi giới tăng trưởng sinh tử cũng là môi giới đưa đến dâm hạnh, vì thế cũng nên xa lìa, trường hợp này cũng không được tham dự thành người chứng minh hôn nhân.
Tỳ kheo làm người chứng hôn có phạm giới hay không? Nếu muốn tìm ra điều văn căn cứ của sư phạm giới thì cũng không tìm được, trong Luật vốn không có quy định điều nay. Vì người chứng hôn là chỉ chứng minh sự kết hôn song phương của nam nữ thành vợ chồng, trừ phi người chứng hôn kiêm nhiệm người giới thiệu, mới cấu thành tội Tăng tàn của người làm mai mối, hai bên về sau dù kết hôn, ty kheo cũng không phạm tội làm mai mối.
Trong luật chỉ ghi một trường hợp về vấn đề quan hệ với Tỳ kheo có thể tham dự vào sự kết hợp vợ chồng: “Nếu nam nữ trước đã kết hôn với nhau, sau ly biệt, nên khuyên họ hòa hợp trở lại. Điều này không phải cho phép Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm người chứng hôn, mà là cho phép Tỳ kheo, Tỳ kheo ni làm cho nam nư ly biệt hòa hợp trở lại như thuở ban đầu khiến cho gia đình của họ không vì sự gây gổ đến nỗi tan nát. Việc làm người chứng hôn cũng không thể viện dẫn một điều quy định này làm căn cứ.
Nhưng tôi tin rằng nếu cân nhắc khinh trọng theo Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới, làm người chứng hôn tuy không phạm tội Tăng tàn, nhưng ít nhất cũng phạm tội Đột kiết la. Nếu cân nhấc theo Đại thừa Bồ tát hạnh, làm người chứng hôn chỉ cần mục đích là thiện. Dẫu cho làm người chứng hôn là có tội, nhưng nếu tông chỉ của sự chứng hôn này là đạt thành mục đích Phật hóa xã hội tiến đến độ khắp chúng sinh thì vì độ chúng sinh mà chính mình tạo tội đọa xuống địa ngục, há chẳng phải là tinh thần của đạo Bồ tát sao! Vì vấn đề là Tỳ kheo dẫu không vì người tục chứng hôn, nam nữ muốn kết hôn họ vẫn cứ kết hôn.
Nhân đây lối nhìn của tôi như vậy:
1. Nếu người xuất gia vì gấp cầu giải thoát sinh tử thì không nên làm người chứng hôn.
2. Nếu người xuất gia vì thật tâm thực hành đạo Bồ tát thì không ngại làm người chứng hôn.
3. Nếu người xuất gia vì đã sợ tội ác của sinh tử lại nguyện Phật hóa nhân gian thì nên có một biện pháp chiết trung: Trong Phật hóa hôn lễ, mời một người tục làm người chứng minh trước khi hôn lễ tiến hành, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni vì tân lang tân nương thuyết pháp thọ tam quy y và làm thầy quy y nữa, quy y Tam bảo nhiều lần càng tốt.
IV. HAI PHÁP BẤT ĐỊNH
Hai pháp bất định là hai điều của Tỳ kheo giới không thể phán đoán nhất định. Điều thứ nhất là Tỳ kheo đơn độc cùng một người nữ ngồi tại chỗ khuất có ngăn che có thể làm việc dâm dục và nói những lời Phật pháp không cho nói. Điều thứ hai là Tỳ kheo đơn độc cùng một người nữ ngồi tại chỗ trống trải không thể làm việc dâm dục và nói những lời Phật pháp không cho nói. Hai trường hợp này nếu bị một nữ cư sĩ tuyệt đối đáng tin (chứng Sơ quả trở lên) phát hiện, người ấy nói là phạm tội gì thì kể là phạm tội ấy. Tỳ kheo phạm tội cũng nên thật tình thừa nhận tự mình phạm tội gì nói phạm tội đó.
Trong điều thứ nhất, vì ở tại chỗ khuất có ngăn che có thể làm việc dâm dục, vì thế có thể phạm tội hành dâm Ba la di, có thể phạm tội Ba dật đề một mình ngồi với người nữ, vì thế gọi là pháp Bất định. Trong điều thứ hai, nhân vì ở chỗ trống trải không có thể làm việc dâm dục, vì thế có thể phạm một tội nào trong 2 tội xúc chạm của Tăng tàn và một mình ngồi cùng với người nữ của Ba dật đề, vì thế gọi là pháp Bất định.
Tóm lại, người xuất gia phải nên đặc bịệt nhận chân về giới hạn giữa nam nữ, người xuất gia đơn độc ở một chỗ với người khác phái dù không phạm giới cũng bị chê bai.. Giống như quả phụ thanh xuân và xử nử lớn tuổi có trinh tiết hay không thường là đối tượng của người nhiều chuyện, Tăng Ni có thanh khiết hay không cũng rất bị sự chú mục của người khác. Vì thế, trong luật quy định Tỳ kheo một mình ngồi với người nữ cách nhau ít nhất phải hai tầm (18 thước Tàu ), nếu có bạn thì không phạm.
Trọng tâm của giới xuất gia là giới dâm, những giới trọng yếu tôi giới thiệu cũng chú trọng vào giới dâm. Trong 13 pháp tăng tàn, có 5 điều quan hệ đến giới dâm, phân làm 3 lọai:
1. Chọc âm là tự mình đối với mình phạm
2. Xúc chạm, nói lời thô tục, tự khen mình, là tự mình đối với người khác mà phạm.
3. Làm mai mối là tự mình trợ giúp người khác mà phạm.
Năm thứ hành vi của giới dâm Tăng tàn tuy chưa cấu thành Ba la di của tự hành dâm dục, nhưng lại có sức mạnh đưa đến việc dâm dục. Vì thế, cả hai pháp bất định đều là giới vòng ngoài của giới dâm căn bản. Tác dụng của những giới dâm vòng ngoài là bảo vệ an toàn cho giới dâm căn bản. Giới dâm vòng ngoài được hình thành gồm có 3 lớp phòng tuyến bảo vệ giới dâm căn bản: Lớp thứ nhất là Đột kíết la, lớp thứ hai là Ba dật đề, lớp thứ ba là Tăng tàn. Trọng điểm của chương này giới thiệu là nghiêng về giới Tăng tàn của phòng tuyến thứ ba.
Như đột phá phòng tuyến thứ ba thì công kích vào đại bản doanh Ba la di.Đương nhiên chỉ cần người xuất gia có đạo tâm hoặc tâm cảnh giác, người ấy rất khó phá ba lớp phòng tuyến. Nhưng nếu người không có chút lòng hổ thẹn công kích thẳng vào đại bản doanh của Ba la di, cũng là việc chỉ trong khoảnh khắc mà thôi!
.......................................

Chương 5. Pháp Yết Ma Và Pháp Sám Hối

I. PHÁP YẾT MA LÀ GÌ?
Yết ma là dịch âm chữ Phạn: Karma, dịch ý là “Nghiệp”, nghĩa là thọ giới, thuyết giới, sám tội, và các thứ xử lý của Tăng sự; vì thế còn được giải là “Biện sự” hoặc “Tác sự”. Đây thuộc về giới tác trì.
Hành Sự Sao quyển I, thượng, nói: “Minh Liễu Luận Sớ phiên dịch Sở tác là nghiệp, cũng phiên dịch là tác sự. Bách Luận gọi là sự, nếu tìm theo nghĩa, phiên dịch là “Biện sự”.
Huyền Ưng Âm Nghĩa quyển 14 nói: “Yết ma Trung Hoa dịch là Tác pháp biện sự”.
Nếu giải thích theo thuật ngữ hiện đại, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ pháp nghị sự hoặc pháp hội nghị riêng của Phật giáo. Tính trọng yếu của pháp yết ma trong Phật giáo tương tự như tính trọng yếu của dân quyền được kiến thiết ở bước đầu của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Không có pháp nghị sự kiện tòan chắc chắn sẽ khó sinh ra chế độ dân chủ lý tưởng, tăng đoàn Phật giáo hoàn toàn hợp được với tinh thần dân chủ là do công hiệu của pháp yết ma.Nội dung của chế độ dân chủ hiện đại là dân trị, dân hữu, dân hưởng. Mục đích của pháp yết ma trong Phật giáo là tạo thành lục chủng hòa kính: Thân hòa ở chung, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng chia đều. Từ trên nguyên tắc mà nói: Lục hòa kính của Phật giáo là sinh hoạt dân chủ của dân chủ tuyệt đối. Sự duy trì và bảo hộ một tinh thần dân chủ này là trách nhiệm và công năng của pháp yết ma. Thông thường nói: “Tăng sự, tăng đoán” cũng là lấy ý kiến và lực lượng của đại chúng trong tăng đoàn để giải quyết các việc trong đại chúng tăng đoàn, đoàn kết được đại chúng trong tăng đoàn là nhờ pháp yết ma, trừ khử ác nghiệp cũng phải nhờ pháp yết ma. Chủ tể của sự thành thiện khử ác tuy là đại chúng trong tăng đoàn, nhưng đại chúng trong Tăng đoàn thành thiện khử ác được là nhờ pháp yết ma mà thành. Vì thế, một đoàn thể không có hội nghị quyết chắc không phải là đoàn thể của dân chủ, một Tăng đoàn không cử hành pháp yết ma không thể là Tăng đoàn của lục hòa kính. Tòng lâm của Trung Quốc, thanh chúng có thể bình dầu ngã không cần đỡ dậy, mọi việc đều có các vị chấp sự của thường trụ phụ trách. Nhìn ở mặt thô, thì đây là vì thành tựu sự chuyên tâm tu hành của thanh chúng, thanh chúng của tòng lâm là người an ổn, là người có phước. Song nhìn ở một góc độ khác, tất cả sự vụ của Tăng đoàn, hoàn toàn do một thiểu số chấp sự bao biện mà không cho thanh chúng tham dự, thậm chí chỉ do trung ương tập quyền của phương trượng giám viện, đó là điều không phù hợp với tinh thần lục hòa kính.
II. PHÁP YẾT MA CÓ MẤY THỨ?
Chủng loại của pháp yết ma, phân ra có 101 thứ của 3 loại lớn:
1. Đơn bạch yết ma: Hoặc gọi là Bạch nhất yết ma, nghĩa là “Xướng ngôn”, đây là đối với việc không cần trưng cầu đồng ý, hướng về đại chúng tuyên cáo việc thường làm, quen làm và cần phải làm, nói lên một lần là thành. Gồm có 24 thứ.
2. Bạch nhị yết ma: Đây là tuyên cáo một lần, rồi nói lại một lần nửa để trưng cầu sự đồng ý của đại chúng. Gồm có 47 thứ.
3. Bạch tứ yết ma: Đây là trước tiên tuyên cáo một lần, ba lần trưng cầu đồng ý. Nếu như nhất bạch tam yết ma xong, trong đại chúng im lặng là biểu thị không có dị nghị mà tuyên bố yết ma đúng như pháp, nghị án thành lập nhất trí thông qua. Gồm có 30 thứ (chủng số danh mục xin tự tham duyệt yết ma của Luật Bộ).
Tinh thần của pháp yết ma so với trình tự nghị hội của hiện đại thì trang nghiêm và thiêng liêng hơn. Đề án nghị hội của hiện đại thông thường là 2 phần 3 số phiếu tán thành thì được thông qua, có khi chỉ cần có quá phân nữa là chuẩn, có khi chỉ cần hơn 3 phần 4 là chuẩn, nhưng rất ít khi nào yêu cầu nhất trí thông qua. Trong Tăng, chỉ cần có một người dị nghị là tăng không hòa hợp thì yết ma không thành. Chỉ có pháp yết ma Diệt tránh là đầu phiếu (bỏ thăm) lấy đa số biểu quyết.
Nhưng trong pháp yết ma cũng có quy định: Phàm, pháp yết ma đúng như pháp, như luật, không cho phép vô lý kình chống mà phá hoại. Nếu một người vô lý kình chống, phá hoại yết ma đúng như pháp, như luật, thì Tăng đoàn có thể làm pháp yết ma đối với một người ấy. Như có một tập đoàn nhỏ 4 người trở lên kình chống làm yết ma riêng thì phạm tội phá yết ma tăng. Vì thế, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ pháp nghị sự cực kỳ thiêng liêng và lại rất chu đáo tỏ tường. Tăng già Trung Quốc ngày nay không cử hành pháp yết ma, thật là một điều đáng than tiếc.
Sự quy định của pháp yết ma là dùng để phán đoán pháp yết ma có hợp với sự yêu cầu hay không. Sự quy định ấy phải đủ bốn điều kiện yết ma mới thành lập được. Bốn điều kiện ấy là:
1. Pháp: Tức là bản thân của pháp yết ma phải là xuất từ trong chủng loại của pháp yết ma. Pháp có ba loại: Tâm niệm pháp, đối thú pháp, chúng pháp.
2. Sự: Hoặc sự của phạm tội, hoặc sự của sám hối, hoặc sự của thọ giới, đó là những điều cần phải cử hành pháp yết ma. Sự có ba loại: Hữu tình sự, phi tình sự, tình phi tình hợp sự.
3. Nhân: Nhân số tham sự phải được quy định trong khi cử hành pháp yết ma nào đó, tức là số người. Người có 6 đại loại: Một người, 2 người, 4 người, 5 người, 10 người, 20 người.
4. Xứ: Cử hành yết ma cần phải có xứ sở, một xứ sở này gọi là giới. Giới có phân làm hai đại loại: Tác pháp giới và Tự nhiên giới. Tác pháp giới lại phân ra ba thứ: Đại giới, giới tràng, tiểu giới. Tự nhiên giới cũng phân ra có bốn thứ: Tụ lạc (xóm làng), lan nhã, đạo hành, thủy giới. Làm một chủng loại yết ma nào cũng điều có giới riêng dùng để quy định.
Bốn điều kiện này tôi hợp lại đưa ra một thí dụ. Tỷ như thọ giới: Bản thân của thọ giới là sự, nghi thức truyền giới là pháp, Hòa thượng là A xà lê, tham dự là nhân (người), giới tràng thọ giới là xứ. Nói về số người tham gia yết ma gồm có 6 loại:
1. Một người: Đây là Tâm niệm pháp, tỷ như Tỳ kheo tâm niệm tự trách, sám trừ lở phạm tội Đột kiết la. Thật ra, trường hợp này chưa nhập vào pháp yết ma.
2. Hai người: Đây là Đối thú pháp, một Tỳ kheo đối với một Tỳ kheo thanh tịnh khác nhau làm, như sám trừ tội Ba dật đề. Nói một cách nghiêm khắc thì trường hợp này cũng chưa nhập vào pháp yết ma.
3. Bốn người: Trừ không thể xuất tội tăng tàn thọ giới, biên địa thọ giới tự tứ ra, tất cả yết ma đều có thể bốn người thành tựu.
4. Năm người: Đây là số người tối thiểu của tự tứ yết ma và biên địa thọ giới yết ma. Trừ không thể xuất tội Tăng tàn và thọ giới ra, tất cả yết ma đều có năm người thành tựu.
5. Mười người: Trừ không thể xuất tội Tăng tàn ra, tất cả yết ma đều có thể thành tựu, chủ yếu là số người cần thiết để truyền giới Cụ túc.
6. Hai mươi người: Đây là số người tối thiểu để xuất tội Tăng tàn, và là số người có thể thành tựu tất cả yết ma.
Nhưng, phần tử được tham gia yết ma, trong Tỳ kheo tăng phải là Tỳ kheo thanh tịnh. Tỳ kheo phạm mà chưa sám trừ, không đủ số cũng không được tham dự. Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni,Sa di ni, cho đến tất cả người tục, dù không đủ số, cũng không được tham gia. Yết ma của Tỳ kheo ni, Tỳ kheo cũng không được tham dự.
Nhưng hai bộ Tăng Ni đều riêng có ba thứ yết ma tương đối thực hành:
1. Tỳ kheo có thể vì Ni chúng làm thọ giới yết ma, Ma na đỏa (Ni phạm tội Tăng tàn, làm 35 điều Tùy chúng ý) yết ma, xuất tội (Tăng tàn) yết ma.
2. Tỳ kheo ni có thể làm ba pháp yết ma đối với Tỳ kheo là không lễ bái, không cùng nói chuyện, không kính sợ. Giả như Tỳ kheo vô lý xúc não Tỳ kheo ni, Tỳ kheo ni có thể dùng ba pháp yết ma này đối phó Tỳ kheo.
Chỗ bất đồng là: Tỳ kheo vì Tỳ kheo ni làm ba thứ yết ma, Tỳ kheo ni phải hiện diện trước Tỳ kheo; Tỳ kheo ni vì Tỳ kheo làm ba thứ yết ma, Tỳ kheo không cần phải hiện diện trước Tỳ kheo ni.
III. PHÁP SÁM HỐI
Đại thừa giới chưa đến Phật quả, không thể tuyệt đối không phạm, không thể tuyệt đối thanh tịnh. Tiểu thừa giới chưa đến quả A la hán, không thể tuyệt đối thanh tịnh. Vì thế, phàm là Phật giới, trừ tội trọng ra, đều có phương pháp hối tội. Đây là phương tiện từ bi của Phật, nếu như tất cả giới chỉ có pháp phạm mà không có pháp hối thì không có một chúng sinh nào có khả năng học Phật, thành Phật.
Hai chữ Sám hối, Thiên Thai Chỉ Quán quyển 7 giải thích: “Sám là trình bày tội ác đã làm, hối là sửa đổi lỗi trước, từ nay về sau không làm nữa”. Trên thực tế, bốn ý của Sám hối cùng với sự giải thích trên có chút thêm bớt. Vì hai chữ Sám hối là hợp dịch âm nghĩa của Phạn ngữ: Ksamayati, dịch âm là Sám ma, dịch nghĩa là Hối quá, hợp thành Sám hối. Đã giữ âm lại thêm vào nghĩa.
Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Ký quển 3: hai chữ Sám hối là cùng nêu lên hai âm. Phạn ngữ Sám ma, Trung Hoa gọi là Hối quá”.
Nam Sơn Giới Sớ quyển 1, hạ: “Sám hối, hối là tiếng Trung Hoa, sám là nói tắt của tiếng Ấn Độ, như tiếng Phạn vốn nói là Sám ma”.
Nam Hải Ký Quy Truyện quyển 2: “Cựu dịch là Sám hối, không quan hệ đến thuyết tội. Vì sao? Sám ma là âm tiếng Ấn Độ, nghĩa là tự phải nhẫn; Hối là chữ Trung Hoa nghĩa là truy hối; không có can hệ gì với nhau”.
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 15, chú thích: “Nói sám ma, Trung Hoa định nghĩa là: Xin tha thứ, xin cho sửa lỗi, đối diện xin lỗi. Nếu lỡ phạm người hiện diện, muốn xin người hoan hỷ, đều nói sám; bất luận lớn nhỏ đều đồng như thế. Nếu hối tội gọi là A bát đề xá na (Apati-désanà), A bát để là tội, đề xá na là thuyết, đáng lẽ dịch là thuyết tội. Nói sám hối, sám là tiếng Ấn Độ, hối là Tiếng Trung hoa, chẳng phải xin tha thứ tội, cũng chẳng phải là thuyết tội, thật là khó phân biệt rõ”.
Nói theo nguyên ý, sám ma (xin dung thứ) cùng A bát để đề xá na (thuyết tội) không thể hỗn hợp giải thích, cũng không thể hỗn hợp ứng dụng, nhưng ở Trung Quốc đã đem giới hạn của hai thứ này hỗn hợp lại một khối. Vì thế, nói đến sám tội cũng hàm có hối tội, nói đến hối tội cũng hàm có sám tội. Như tác pháp sám, thủ tướng sám, vô sanh sám đã được gọi là ba thứ hối pháp, cũng có thể gọi là ba thứ sám pháp.
Nhưng trong luật phần nhiều dùng pháp hối tội đại biểu cho hai chữ sám hối.
Pháp sám tội, trên thực tế cũng là một pháp yết ma. Pháp yết ma 101 thứ, địa phận thiết yếu không ra ngoài hai loại lớn là thành thiện và khử ác: Tỷ như thọ giới, thuyết giới, tự tứ, kiết tịnh địa, thọ y ca hy na, phân tọa cụv.v… đều là yết ma thành thiện. Lại như Khổ thiết, Khu tẩn, Biệt trụ, Ma na đỏa, hướng bạch y sám hối (Tỳ kheo vô lý xúc não bạch y phải ở trong Tăng bạch nhị yết ma, do một Tỳ kheo khác làm bạn đồng đi qua chỗ của bạch y sám hối), cử tội Tỳ kheo…, đều là yết ma khử ác.
Pháp sám hối gồm có ba thứ và có thể hợp thành hai loại theo biểu đồ như sau:
Tác pháp sám diệt được giới tội mà không diệt được phiền não tánh tội. Thủ tướng sám diệt được phiền não tánh tội nhưng không diệt được vô minh chướng ngại trung đạo quán. Vô sanh sám diệt được vô thỉ vô minh. Tác pháp sám là pháp hối tội của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni mà chương này cần phải giới thiệu, là tác pháp y theo sự quy định mà thuyết tội, hối tội. Thủ tướng sám tức là như trong Phạm Võng Bồ tát Giới Bổn nói: “Phải dạy sám hối, ở trước hình tượng Phật, Bồt tát ngày đêm sáu thời tụng 10 giới trọng, 48 giới khinh, khẩn thiết lễ tam thế ngàn Phật, được thấy hảo tướng”. “Hảo tướng là thấy Phật đến xoa đảnh, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các thứ tướng lạ, liền được diệt tội”. Hai pháp hối tội này đều là dùng sự thông đạt thành mục đích hối tội, vì thế gọi là sự sám. Vô sanh sám là chánh tâm ngồi ngay thẳng, thầm quán vạn pháp “Không, Như” mà lại tức tục, trung đạo hiện tiền, mở Phật nhãn, phá vô minh. Một sám pháp này nếu tu hành tối thiểu là từ cảnh giới Sơ địa trở lên. Vì thế, Thủ tướng sám đã khó quán thành công, Vô sanh sám càng khó quán thành công hơn. Thủ tướng sám và Vô sanh sám là pháp sám phổ thông của Hóa giáo, là thông dụng của Đại thừa, Tiểu thừa, cũng thông dụng cho cả hai chúng tăng tục. Tác pháp là sám pháp của thế giáo, là hạn cuộc nơi Tiểu thừa, chủ yếu đối với Tăng Ni, phụ đối với người tục. Nếu chỉ y theo sám pháp tội của Hóa giáo, tuy diệt tánh tội mà giới tội vẫn còn. Nếu chỉ y theo sám pháp sám tội của thế giáo, giới tội hiện tiền tuy diệt nhưng nghiệp đạo tánh tội từ vô thỉ đến nay vẫn còn. Vì thế, tốt nhất là hỗ tương ứng dụng cả ba thứ sám pháp: Thủ tướng, Tác pháp, Vô sanh; hiện tại chúng tôi muốn nói chính là Tác pháp sám, đây cũng là một pháp sám tội dễ được thành công nhất. Nay xin giới thiệu về Tác pháp sám.
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới gồm có 6 thứ tội danh. Bởi vì tội Ba la di không thể dùng Tác pháp sám để hối trừ, vì thế tội danh năng hối chỉ có 5 thứ. Nhưng lại không phải là phương thức một thứ tội danh đối với một thứ hối tội, mà trong đó có một thứ tội danh phải dùng 2 thứ cho đến 5 thứ phương thức hối trừ. Hiện tại liệt kê theo biểu đồ như sau:
Tội Ba la di, vốn chỉ có pháp phạm mà không có pháp hối, nhưng người lần thứ nhất phạm căn bản giới dâm, lập tức phát lồ, hướng Tăng đoàn lập tức tự thú tự bạch thống thiết cải hối, tuy mất giới Tỳ kheo và cũng mất thân phận Tỳ kheo mà không bị diệt tẩn. Sau khi ở trong 20 vị Tăng cầu hối, phải thọ trì 35 việc, thành Dự học Tỳ kheo (Thập Tụng Luật gọi là Dự học Sa di), suốt đời ở dưới Tỳ kheo thanh tịnh và trên tất cả Sa di, suốt đời mất hết tất cả Tăng quyền, không được tham gia bất cứ pháp yết ma nào, suốt đời hầu hạ phục dịch đại chúng Tỳ kheo.
Tội Tăng tàn có thể hối trừ, song cần phải ở trong 20 vị Tỳ kheo thanh tịnh xuất tội. Tỳ kheo Ni phải ở trong hai bộ Tăng và Ni tăng và Tỳ kheo tăng mỗi bộ 20 người xuất tội. Tỳ kheo phạm Tăng tàn nếu phú tàng (che dấu) một ngày, phải làm yết ma 6 đêm Ma na đỏa, hành pháp Biệt trụ, trong thời gian này bị tước đoạt tất cả Tăng quyền, tùy thuận đại chúng, phục dịch đại chúng, hành 35 việc. Sáu đêm hoàn tất, được ở trong 20 vị Tỳ kheo tăng thanh tịnh xuất tội Tăng tàn rồi trở lại thành Tỳ kheo thanh tịnh. Tỳ kheo ni phạm Tăng tàn, trước tiên làm nửa tháng Ma na đỏa, sau đó mới hướng vào trong hai bộ Tăng mỗi bộ 20 người để xuất tội. Đây là vì sự tiện lợi của mỗi nửa tháng Bồ tát, không đến nửa tháng, bất tiện qua trong Tỳ kheo tăng cầu hối xuất tội, vì thế cần phải nửa tháng Ma na đỏa.
Theo sự quy định này, hiện thời ở Trung Quốc đã không cử hành yết ma, phạm tội Tăng tàn cũng không làm sao sám trừ. Về sám hối tội Tăng tàn, không thể nói một cách đại khái như nhau được. Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp quyển 4 nói: “Có sáu loại người phạm tội chúng giáo (tức Tăng tàn) đối trước một Bí sô thuyết trừ tội ấy được gọi là thanh tịnh.
1. Người trì khắpKinh tạng.
2. Người trì khắp Luật tạng.
3. Người trì khắp Luận tạng.
4. Người tánh rất hổ thẹn, nếu nói lỗi của người ấy, người ấy ôm lòng hổ thẹn đến chết.
5. Bậc Thượng tọa già nhất trong chúng.
6. Người có đại phước đức”.
Hành Sự Sao quyển 4 nói: “Có 6 loại người phạm tội Tăng tàn được tâm niệm hối:
1. Thượng tọa phạm Tăng tàn, e bị mọi người sinh khinh mạn. Phật dạy: Nếu nhất tâm sinh niệm: Từ nay về sau không làm nửa, liền được thanh tịnh.
2. Bậc đại đức được nhiều người quen biết.
3. Người nhiều hổ thẹn, nếu bắt làm pháp ở trong 20 vị tăng xuất tội, người ấy thà xả giới.
4. Bệnh nặng không thể quỳ, không có sức lực để sám.
5. Trụ xứ không đủ 20 vị Tỳ kheo thanh tịnh, lúc đi qua nơi khác cầu hối tội, dọc đường bị giặc hại mà chết.
6. Chúng không thanh tịnh, qua nơi khác cầu chúng thanh tịnh hối tội, dọc đường gặp giặc hại mà chết.
Sáu loại người này, Phật nói: “Nhất tâm sinh niệm, sám hối đúng như pháp là người được sinh lên trời”.
Người xuất gia ở Trung Quốc ngày nay, nếu đoàn thể sinh hoạt trên 20 người, tốt nhất là dùng pháp yết ma để hối trừ tội Tăng tàn. Nếu như số người không đủ, không có cách nào cử hành pháp yết ma đúng như luật, thì cũng nên theo pháp đối một người sám hối hoặc dùng pháp tâm niệm, hối trừ tội Tăng tàn. Trên thực tế, Tăng Ni Trung Quốc đã không biết dùng pháp yết ma để hối tội.
Thâu lan giá là một thứ tội phức tạp hơn hết. Hành Sự Sao quyển 1, trung, nói: “Một tụ Thâu lan giá, tội thông cả chánh và tòng, thể gồm cả khinh trọng. Luật nêu 7 tụ mà 6 tụ đều hàm Thâu lan giá”. Đây là nói Thâu lan giá chia làm hai môn chánh và tòng: Chánh gọi là Độc đầu Thâu lan giá, Tòng gọi là Tòng sinh Thâu lan giá. Độc đầu là đơn độc thành lập. Tòng sinh là phụ thuộc vào 6 tụ kia mà thành lập, tội chưa thành của 6 tụ kia đều gọi là Tòng sinh Thâu lan giá. Trong 7 tụ, trừ 2 pháp Bất định không định phạm tội nên không có Thâu lan giá, 6 tụ kia đều có Thâu lan giá. Nhưng chánh có trọng cũng có khinh, tòng sinh cũng có trọng có khinh. Tòng sinh Thâu lan giá tuy trùm khắp 6 tụ, nhưng vẫn chủ yếu là Ba la di của thiên đầu và Tăng tàn của thiên thứ hai. Nhưng bất luận chánh tòng đều có thể phân làm ba phẩm: thượng, trung, hạ. Hiện tại đem số người đối hối của ba phẩm chánh tòng liệt kê biểu đồ như sau:
Biểu đồ này là do tham khảo từ các luật bổn nêu ra, chính xác hay không chờ hỏi bậc cao minh, vì trong các bộ luật đối với vấn đề này đều có ý kiến khác nhau, thật khó tìm sự hoàn hảo nhất trí.
Phẩm vị phân pháp của Tòng sinh Thâu lan giá là căn cứ vào trình độ của tội chưa tội mà định: Tỷ như hành dâm là phải hai thân giao hợp với nhau mới thành tội Ba la di của thiên đầu; nếu khởi thân chuẩn bị hành dâm liền đình chỉ, là viễn phương tiện của thiên đầu, thành hạ phẩm tội. Nếu đã dùng tay vuốt ve đối phương chuẩn bị cởi y phục hành dâm rồi đình chỉ, là thứ phương tiện của thiên đầu, thành trung phẩm tội. Nếu đã cỡi áo trong hai thân chạm nhau, nam căn sắp nhập vào nữ căn, lúc chưa nhập liền đình chỉ, là cận phương tiện của thiên đầu, thành thượng phẩm tội. Ba phẩm thượng, trung, hạ của tội Tăng tàn chưa tội có thể so với trên mà biết được, ở đây không cần nêu ra.
Đến Thâu lan giá của tự tánh chánh tội, hoặc Độc đầu Thâu lan giá cũng phân làm ba phẩm: thượng, trung, hạ; nội dung như sau:
- Thượng phẩm độc đầu: Trộm 4 tiền, giết phi nhân (quỷ thân biến hóa thành người), trộm đồ vật của phi nhân trị giá 5 tiền trở lên, ở phi đạo (trừ âm đạo, đại tiện đạo và miệng ra, các bộ phận khác trên thân thể) hành dâm.
- Trung phẩm độc đầu: phá yết ma tăng, trộm 3 tiền trở lên, chạm xúc người hai hình và huỳnh môn; cùng với tóc, móng của người nữ chạm xúc; cùng với người nữ, một người có y phục, một người không y phục chạm xúc; làm cho người khác chảy đồ bất tịnh (thủ dâm).
- Hạ phẩm độc đầu: Chứa lược dùng chảy tóc, cạo lông ba chỗ (nách và đại tiểu tiện), dùng dầu tô thoa láng âm hộ, trần truồng đi, chứa bát bằng gỗ, mặc y ngoại đạo.
Sám tội Ba dật đề thông thường đối với một vị Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) thanh tịnh thuyết tội, hối lỗi, tùy phạm có thể tùy hối. Nếu không có phương tiện nên đợi lúc nửa tháng thuyết giới sám hối.
Pháp hối quá là tùy phạm tùy hối, đối trước một người nói một lần liền được hối quá.
Pháp hối tội là Đột kiết la và Ba dật đề giống nhau. Nếu lỡ phạm tội Đột kiết la, tự trách tâm thống thiết, hối cải tội liền trừ diệt.
Còn có một điều quy định rất quan trọng là Tỳ kheo và Tỳ kheo ni không được nói tội ác của mình đã phạm với nhau đế sám hối. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật Tạp Sự quyển 32: “Phật nói Bí sô không được nói tội của mình với Bí sô ni, phải đối trước bí sô thanh tịnh đồng kiến giải phát lồ thuyết đối”.
Lại nói: “Bí sô ni không nên đến bên Bí sô phát lồ phải ở bên Bí sô ni thuyết tội”. Đến như Tỳ kheo ni phạm tội Tăng tàn phải ở trong hai bộ tăng xuất tội; ở trước Tỳ kheo Tăng, chỉ xuất tội mà không phải phát lồ thuyết tội”.
Các pháp yết ma và các pháp sám tội đều có nghi thức nhất định và lời tác bạch nhất định, vì giới hạn của tạp sách nên không thể biên chép lại đầy đủ.
Ở đây đem các loại địa ngục và số năm bị đọa do tội phạm giới ghi lại như sau:
1. Tội Ba la di: Đọa địa ngục Diệm Nhiệt 92 vạn 1 ngàn 6 trăm vạn năm.
2. Tội Tăng tàn: Đọa địa ngục Đại Hào Khiếu 23 vạn lẻ 4 trăm vạn năm.
3. Tội Thâu lan giá: Đọa địa ngục Hào Khiếu 5 vạn 7 ngàn 6 trăm vạn năm.
4. Tội Ba dật đề: Đọa địa ngục Chúng Hợp 1 vạn 4 ngàn 4 trăm vạn năm.
5. Tội Đề xá ni (Hối quá pháp): Đọa địa ngục Hắc Thằng 3 ngàn 6 trăm vạn năm.
6. Tội Đột kiết la: Đọa địa ngục Đẳng Hoạt 9 trăm vạn năm.
Đương nhiên các loại địa ngục này là nhất định, song số năm đọa địa ngục không nhất định, số năm ghi ra ở đây cũng chỉ là đại khái mà thôi. Nhân vì đồng là một thứ tội danh lại có rất nhiều cấp bậc của tội nghiệp, tỷ như Thâu lan giá phân có ba phẩm thượng, trung, hạ; pháp hối tội có 5 phương thức, nếu như không hối thì số năm cảm thọ tội báo đương nhiên cũng không nhất định.
Thiên này đến đây đã xong, đọc giả nếu muốn hiểu sâu xin mời tự nghiên cứu các bộ Quảng Luật. Nếu không nghiên cứu Quảng Luật, tôi xin giới thiệu 4 bộ sách luật: Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu của Đại sư Ngẫu Ích, Tứ Phần Luật Tỳ kheo Giới Tướng Biểu Ký của Đại sư Hoằng Nhất, Tứ Phần Luật Tỳ kheo ni Giới Tướng Biểu Ký của Tỳ kheo ni Thắng Vũ, Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới Bổn Chú Giải của Tỳ kheo ni Phật Oánh. Tỳ kheo tốt nhất nên xem cả bốn bộ; Tỳ kheo ni nên xem 2 bộ sau, ít nhất cũng xem 1 bộ sau chót, vì Ni sư Phật Oánh là bác si y khoa nên đối với phương diện vệ sinh về sinh lý của Ni chúng có sự hướng dẫn tận tường. Chị em Ni chúng của Phật giáo, nếu như đồng trinh xuất gia, đối với vấn đề vệ sinh sinh lý phần nhiều không hiểu, có người bệnh, mắc cỡ không đến y sĩ điều trị. Vì thế, tôi chủ trương người xuất gia nam nữ đều phải hiểu về vệ sinh sinh lý học. Vấn đề sinh lý không phải là bí mật, chỉ có người cho rằng cấu tạo của sinh lý là bí mật, nên đối với vấn đề sinh lý mới càng cảm thấy quyến rũ làm mê người mà đến nỗi thành bệnh cho đến tạo thành tội ác. Do đó, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cần xem bộ Tứ Phần Luật Tỳ kheo ni Giới Bổn Chú Giải của Tỳ kheo ni Phật Oánh biên soạn.

HT. Thánh Nghiêm .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.9/6/2012.

No comments:

Post a Comment