Sa Di Luật Giải
SA-DI LUẬT NGHI, Yếu Lược, Tăng Chú, Quyển
Hạ.
Luật nghi của Sa
-di, lời yếu lược, lời tăng chú, cuốn
hạ.
Bồ-TáT GIớI, Đệ Tử, Vân Thê Tự, Sa-Môn Châu Hoằng Tập.
Thụ giới Bồ -tát, đệ tử, chùa Vân Thê, Sa-môn Châu Hoằng
chép.
Bồ-Đề Tâm, Tỳ-Kheo, Đảnh Hồ Sơn, Sa-Môn Hoằng Tán
Chú.
Thụ
giới Bồ -đề
tâm,
Tỳ-kheo,
núi Đảnh Hồ,
Sa-môn
Hoằng Tán chú giải.
Thiên Sau Môn Uy Nghi
Uy nghi
ấy, nghĩa là có uy khá
sợ, có nghi khá kính. Do giữ
giới thanh tịnh, mà phạm
hạnh đầy đủ, sáng rỡ tướng
mạo nhà tăng, đức hạnh uy
nghiêm, nên khiến người ta
khá sợ; khi cử
động, lúc yên
tịnh, đều hợp quỹ
tắc, nghiêm trang khá
trông, dung nghi
đoan, biểu tượng chính nên
khiến người ta khá kính. Đấy, thực là cái đạo phẩm xuất
gia, cũng là sư phạm giữa
cõi người cõi trời.
Chính chỗ gọi rằng
hạnh thanh tịnh thành nơi đạo nghi, ngọc trong trắng tròn nơi giới
phẩm, khí tượng như tinh
hán, uy nghiêm như phong
vân. Trong tâm hoài bảo đức sư tử, ngoài thân hiển hiện uy tượng vương. Hai
chúng người, trời khen
vâng, tám bộ
rồng, thần kính
nép.
Nên kinh Hoa
Nghiêm nói: “Với uy nghi và
giáo pháp, mà thụ trì trọn
vẹn, thì hay khiến ngôi Tam
bảo chẳng dứt”, thực
thế.
Nay đây quyển
hạ, cọng có 24
bài, đồng liệt ra trong một
môn uy nghi, là cái lằn
đường rầy xe của Sa -di, và cái ngõ để noi ra khỏi thế
gian.
Phật
dạy: Sa-di tuổi đủ 20, đến cái thời mà muốn thụ giới cụ
túc, nếu thầy hỏi mà Sa
-di chẳng thể đủ đối đáp sự
của mình, thì chẳng nên cho
thụ giới cụ túc. Thầy phải bảo rằng: Khanh làm Sa -di, mà chẳng biết chỗ bổn phận của Sa
-di ra làm, huống với Sa -môn là việc lớn khó làm! Khanh nên lui về học lại cho
thuộc, sẽ mỗi đều nghe biết
đã, mới nên thụ giới cụ
túc, chứ nay trao khanh giới
cụ túc, thì người ta cho là
với Phật pháp dễ học hành,
mà với Sa -môn cũng dễ nhậm
tác! Nên chi phải cần hỏi
trước.
Sa-di muốn thụ giới cụ túc, Thầy hỏi những sự trong 10
giới, và các thiên uy
nghi, mà Sa -di không thể đủ lời đối đáp
được, thì chẳng nên trao cho
cụ giới.
Khanh: Là xưng hô có nghĩa sang, dường quân chủ hô quần thần.
Chẳng biết chỗ Sa
-di ra làm đó, nghĩa là chẳng am hiểu luật nghi của Sa
-di chỗ nên ra làm sự này
việc nọ gì cả.
Sa-môn việc lớn khó làm đó, nghĩa là với 250 giới của Tỳ
-kheo, rất khó giữ và làm!
Học thuộc
ấy, nghĩa là chuyên tinh học
tập 10 giới, và các thiên uy
nghi.
Phải đều nghe biết
đó, nghe là rộng hỏi bực
tiên tri. Biết là tự tâm mình lão thông.
Người ta cho là dễ
hành Phật pháp, dễ làm Sa
-môn đó, là bởi chẳng biết đạo Phật là chí
diệu, nên nói là dễ
hành; không hiểu sự vần đi
của tội phước, điều giao lẫn
của pháp luật, nên nói là dễ
làm. Vậy, phàm là người làm
thầy, nên phải lấy đây để
hỏi trước.
Nhẫn xuống các
điều tắc, là đối trong Sa
-di uy nghi, các kinh, và cổ thanh quy, kim Sa-di Thành Phạm mà rút ra mỗi đoạn
(tiết). Lại, với Hành Hộ luật nghi của tổ Đạo Tuyên
luật sư, dù để răn dạy lớp
tân học Tỳ -kheo, có chỗ thông dụng được cũng rút ra mỗi
tiết (đoạn).
Bởi vì thời kỳ
mạt pháp, tánh người phần
nhiều giải đãi, nghe văn
nhiều thì chán; bởi
thế, nên bớt nhiều dùng
dón, nhân phân từ
loại, để dễ đọc học. Trong
đó, có chỗ nào chưa đủ
ý, thì theo nghĩa thêm vào
một hai lời.
Nhẫn xuống các
điều tắc ấy, nghĩa là pháp
tắc cả 24 uy nghi dưới kia.
Sa-di uy nghi, chư kinh ấy, là Sa -di uy nghi, và thập giới pháp, sự sư pháp, nghi tắc kinh...
Cổ Thanh
Quy: Bách Trượng Thanh
Quy, và các lời châm quy của
Cổ đức soạn ra.
Sa-di Thành Phạm là Tiếu Nham Tâm Nguyệt
Thiền sư đối với Thập Giới Pháp... rút soạn ra.
Hành Hộ Luật
Nghi: Đời Đường, Tổ Đạo Tuyên Luật sư soạn ra.
Song, cũng chưa rõ được chắc
chắn, sao thế? Là vì ở trong đó có một, hai chỗ chẳng hợp với luậõt
văn.
Tiết
xuất: rút mỗi đoạn
ra, nghĩa là với giữa
kinh, luật, thanh quy trên đó, lược rút ra cái nghĩa dón. Nên một chữ
“tiết” đây, chính là
cái tông trí của bộ “Yếu Lược” này.
Bớt nhiều dùng
dón, phiền là
nhiều, nghĩa là bởi thời đại
nay đương đời mạt pháp, nên
Sa -di phần nhiều tánh tình
giải đãi, vì trễ
nãi, nên nghe nhiềõu thì đâm
chán. Do đó, bớt bỏ văn
nhiều, mà dùng lời câu cốt
dón, lại chia ra làm 24 loại
nghi pháp, để cho dễ lớp mới
tiến tu tập học.
Bổ
nhập: thêm vào, là do nơi thủ bút của Vân Thê đại
sư, với trong Uy Nghi Hành
Sự, có chỗ nào chưa đủ
ý, bèn theo nghĩa loại của
nó, mà bổ vào cho
đủ.
Vị nào muốn xem
hiểu rộng, thì tự phải kiểm
duyệt trọn bộ sách kia.
Trong bộ sách “Sa
-di Thập Giới Pháp” có cả 72
điều uy nghi,
Sa-di nào muốn biết rộng sự
nghĩa ấy, thì chính mình cần
phải kiểm duyệt toàn văn của sách kia, và sách “Sa -di Chư Luật Nghi...”
Chú THích
Đường
đường: rỡ rỡ. Nghĩa là
dung mạo rất thạnh. Sách Luận Ngữ nói “đường đường hồ trương dã”: rỡ rỡ ôi phô trương vậy.
Ngung
ngung: cái bộ dạng ôn hòa. Kinh Thi nói ngung
ngung ngang ngang.
Nghi đoan
biểu chánh: nghi biểu, cũng như pháp tắc mình là chỗ để cho
người ta bắt chước lấy pháp tắc. Sách Sử Ký chép: Điều thị điều phi gì trong 242 năm
qua, để làm nghi biểu cho
thiên hạ.
Sư
phạm: là nói có thể sư
pháp để làm mô phạm.
Đạo
nghi: cũng như đạo
hạnh, là nết na dung nghi ra
người có đạo pháp.
Giới
phẩm: với giới cấm mà mình đã thụ, giữ được hoàn toàn thanh tịnh sẽ kết
tinh thành giới. Châu: trong
trắng như giá tuyết.
Tinh
Hán: Tinh: các tinh -tú; Hán: vân hán, tức sao Thiên Hà. Luật nói: Khí tượng đức hạnh, trác tuyệt cao khiết, trông đạo hạnh như thấu đến Tinh
Hán, kêu là “siêu hồ
loại, bạt hồ
tụy”.
Phong
vân: gió mây, là nói uy nghi nghiêm túc, như gió thổi như mây bay, người yếu thường khiếp gió ghê mây.
Người có uy nghi chúng nhát sợ, kêu là uy phong lẫm liệt.
Sư-tử đức: Sư-tử là một mãnh thú mạnh hung nhất giữa
bách thú, sanh sản ở Châu
Phi, và nước Ba Tây bên Nam
Mỹ. Thân dài bảy, tám thước
đàng đầu tròn bỏ đàng đuôi nhỏ dài, lông màu vàng xám, con đực có râu tóc gáy, con cái giống cọp. Rống tiếng nghe đến
vài dặm. Bầy thú nghe đến đều kinh khiếp cả, nên gọi nó là chúa giữa các thú. Nhà
Tăng có uy đức tinh tiến,
dũng mãnh, tu
chứng, hoằng
hóa, nên gọi sư tử đức. Phật
hiện uy thần thuyết pháp,
phát âm thanh lớn, chấn động
thế giới, nên gọi sư tử hẩu.
Phật là sư tử giữa nhân loại, phàm chỗ Phật ngồi hoặc
sàng, hoặc đất, hoặc ghế, đều gọi là sư tử tọa.
Tượng vương
oai: Vua giữa loài
tượng, tức là con voi chúa
đoàn. Dụ tỷ Phật. Kinh Niết Bàn dụ Phật là đại tượng vương. Sách Pháp Uyển Châu
Lâm nói: Phật có đủ 80 tướng
tốt, nên khi tấn khi chỉ như
tượng vương, đi bước như
ngỗng chúa, dung nghi như sư
tử vương. Kinh Hoa Nghiêm chép: Sư tử hẩu thời phương thảo
lục, tượng vương hồi cố lạc
hoa hồng...
Khanh: xưng gọi vậy. Từ đời Tần, Hán về sau, vua kêu tôi là khanh. Trật vị ngang nhau
cũng gọi là khanh; từ đời
Tùy, Đường về
sau, quan lớn kêu quan nhỏ
là khanh, chồng gọi vợ bằng
khanh, vợ kêu chồng cũng
bằng khanh; “Vương An Phong
phụ, thường khanh An
Phong, Phong
viết: Phụ nhân khanh
tế, ư lễ vi bất
kỉnh, hậu vật phục nhĩ . Phụ
viết: Thê khanh, ái Khanh, thị dĩ khanh khanh, ngã bất Khanh khanh, thùy đương khanh khanh.
Dịch: Vợ ông Vương An
Phong, thường gọi An Phong
bằng khanh. An Phong không bằng lòng quở rằng: “người vợ mà gọi chồng bằng
khanh, là nghĩa chẳng kính
đối với lễ, vậy sau nầy đừng
gọi thế nữa”. Vợ giải thích rằng: “Thiếp thân gần khanh, ái yêu khanh, sở dĩ gọi khanh khanh, thôi chẳng gọi khanh khanh, còn ai đáng gọi khanh khanh?” Chữ khanh sau nghĩa như chữ
nhĩ, chữ nhữ. Nghĩa là thiếp
không gọi khanh chàng, chứ
ai đáng gọi khanh chàng?
Mạt
Pháp: Kinh Đại Bi chép: Thời Chánh Pháp 1000 năm. Thời Tượng
Pháp 1000 năm. Thời Mạt Pháp 1 vạn năm (10.000) Nghĩa là, từ năm Phật vào Niết -bàn về sau 1000 năm, gọi là thời Chánh Pháp. Từ đây về sau
1000 năm nữa, gọi là thời
Tượng Pháp. Từ đây về sau 1 vạn năm (10.000), gọi là thời Mạt Pháp. Chỉ có kinh Đại Bi
nói có thời Mạt Pháp mà thôi, chứ các kinh khác đều không nói đến Mạt
Pháp. Chí như, với hai thời
Chánh Pháp, Tượng
Pháp, các kinh, luận nói chẳng phù hợp với nhau về số
năm.
Thanh
quy: Là nghi quỹ thanh
tịnh vậy. Lập ra Thanh Quy là để thanh tịnh đại chúng, nên gọi là thanh quy. Đời
Đường, hiệu Đức
Hòa, năm thứ 9, núi Bách Trượng, Hoài Hải thiền sư ban đầu lập quy thức
cho thiên hạ Thiền lâm, tức
là Bách Trượng Thanh Quy. Đời sau xưng là cổ thanh quy. Có các nghị luận cho là
chẳng tuân Phật chế, dường
như lễ nhạc chinh phạt do nơi chư hầu đưa ra. Sau, Tổ sư của một gia phái, y theo thời đại, xứ sơ, ỷ chế ra lời tự quy, cũng gọi là thanh quy.
Châm
Quy: Quy giới, nghĩa là lời khuôn phép để răn bảo tự
chúng.
Tông
trí: Như nói Tông thú.
Nghĩa là chủ nghĩa đến chỗ tột, gọi là “Trí”; kinh Pháp Hoa Văn Cú Ký cuốn 4 nói “ấy
là Tông trí của Pháp Hoa”. Tông: tổ, bổn; Trí: rất, tột.
Sa-di Chư Luật Nghi: Tức là Sa -di Luật Nghi, Tỳ-ni Nhật Dụng, hiệp thêm 3 quyển; Sa-di thập giới nghi tắc kinh 1
quyển; Sa-di thập giới uy nghi lục yếu 1
quyển; Sa-di luật nghi yếu lược thuật nghĩa 2
quyển.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/6/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment