Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam
Tăng-già
thời Đức PhậtThích Chơn
ThiệnSài Gòn, 1991
[01]
Chương mộtBối cảnh
-ooOoo-
Ấ
n Ðộ là một trong những vùng đất có nền văn minh cổ nhất
của lịch sử loài người. Ðấy là nền văn minh ở thượng lưu sông Indus (sông Ấn),
trải xuống cả thượng lưu sông Gange (sông Hằng). Trong một thời gian dài, ít ra
là từ năm 4000 đến năm 1000 trước Tây lịch, nơi đây đã là nơi tập trung của
những sắc dân định cư như Mundian, Samerian...., và đông nhất, nổi bật nhất là
dân Dravidian. Có thể nói trung tâm và linh hồn của nền văn minh tương đối thuần
chất và cổ nhất Ấn Ðộ đã tập trung ở vùng Punjab (Ngũ Hà), thượng lưu sông Indus
đã nói trên. Ðây là một nền văn minh nông nghiệp, ở thời đại đồ đồng. Các khai
quật khảo cổ học đã xác minh nơi đây có một thành phố lớn được xây dựng vào
khoảng hai, ba nghìn năm trước Tây lịch.
Ðến thế kỷ XIII trước Tây lịch, một
nhữngánh dân Aryan từ vùng Caucasia, giữa Lý Hải và Hắc Hải (thuộc Aménia, Liên
bang Xô viết (cũ) giáp giới châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ, tràn xuống vượt qua rặng núi
Hindu-Kush mà vào Tây Bắc Ấn Ðộ, xuống vùng Punjab. Nơi đây họ gặp sức kháng cự
mãnh liệt và khá bền bỉ của dân Dravidian. Nhưng người Aryan vốn là dân du mục,
rất thiện chiến, đã đánh thắng sắc dân bản địa. Người Dravidian một phần chuyển
xuống phía Nam và Ðông nam, hoặc giữ thuần chủng hoặc hợp chủng cùng một số sắc
dân khác, lập thành các nước nhỏ; một phần khác ở lại vùng Punjab, chung sống và
chịu sự thống trị của dân Aryan.
Có lẽ Punjab là mảnh đất thuận tiện,
khí hậu không đến nỗi quá khắt khe; thung lũng rộng rãi đã được khai phá trồng
trọt; thành phố to lớn, quy củ; mức sống điều hòa, gồm nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và thương nghiệp sơ khởi, biểu hiện một nền văn minh, văn hóa vững
chãi. Do đó mà một bộ tộc du mục quen săn bắn, quen vó ngựa đường trường với
gươm giáo, cung tên là những người Aryan, đã dừng chân lại nơi đây, áp đặt sự
cai trị của họ vào dân bản xứ. Nhưng người bị trị lại là kẻ có nền văn minh cao
hơn, nên người cai trị mặc dầu tự coi là có đẳng cấp cao, có quyền áp đặt, cai
trị, tổ chức chính quyền... lại nhuốm tư tưởng của kẻ mình cai trị. Hai nền văn
hóa đã dung hợp với nhau, quốc gia có tiến bộ, mở mang công, nông nghiệp, thương
nghiệp và kỹ thuật phát triển. Văn minh chuyển sang thời đại đồ sắt. Tư tưởng,
tôn giáo phong phú, đa dạng hơn.
Các bộ kinh Vedas (Phệ-đà) đặc biệt
là bộ Rig-Veda (Câu-thi Vệ-đà) của người Aryan được hình thành khi chính quyền
vùng Punjab đã hoàn toàn lọt vào tay người Aryan. Tư tưởng cốt lõi của bộ Kinh
tất nhiên nhuốm màu sắc của dân Aryan, cơ hồ như từ thời xa xưa, ở vùng Caucasia
hay ở đâu đó từ trước nữa, hay từ những trạm dừng chân, sau khi qua nhiều rừng
núi, sa mạc hoang vu hay vùng thảo nguyên rộng lớn, dưới ánh mặt trời gay gắt,
dưới mưa lũ, gió táp bão bùng, băng tuyết lạnh lẽo, hay bên ánh lửa bập bùng đêm
thâu... một vũ trụ lồng lộng đầy quyền uy nhưng có liên hệ mật thiết với con
người, một cái gì vĩ đại, rộng cao khó miêu tả, ca ngợi bao nhiêu cũng không đủ,
đó là Brahman. Vũ trụ quan này lại trở nên gần gũi hơn, cụ thể hơn qua hình bóng
của thần Ðất, thần Cây, thần Bò của dân Dravidian, của văn minh nông nghiệp cổ
đại.
Tư tưởng Brahman và có lẽ cả một số
lớn lời thơ vốn có từ trước rất lâu, bấy giờ, khoảng 1200 năm đến 1000 năm trước
Tây lịch đã được thể hiện, sắp xếp, sáng tạo thêm, thành những bài tán ca phong
phú, đẹp đẽ. Trong khoảng hơn hai trăm năm, 1017 bài tán ca, sau bổ túc thêm 11
bài đã được sắp xếp hình thành; nói đúng hơn, một số đã hình thành từ trước đó
rất lâu và một số đã được thêm thắt vào sau đó rất lâu. Các bộ Vedas khác như
Samma-Vedas (Sa-ma Phệ-đà), Yajur-Vedas (Gia-du Phệ-đà) và Athar-Veda (A-thát
Phệ-đà, sau này được kể là một Phệ-đà) đã được hình thành sau đó có thể cả hàng
thế kỷ. Các bộ này thiên trọng quá nhiều về sự cầu đảo tế lễ.
Sau vài ba thế kỷ của chiến đấu, áp
bức, đấu tranh, pha trộn, dung hóa...., vùng Punjab đã trở thành những quốc gia
phồn vinh, có nền văn minh khá rực rỡ và người ta thường gọi là Trung Quốc hay
Trung Ương (Medhyadesa). Các quốc gia ở đây thuộc hệ thống văn minh đô thị, càng
lúc càng hưng thịnh. Kuruksetna (Câu-lư), Pancàla (Bá-ca-la), Matsya (Ma-dã),
Yuracena (Tú-ma-sắc-na)... Ðấy là vào thế kỷ thứ X, thứ IX trước Tây lịch. Văn
minh Trung Ương bắt đầu tràn xuống phía Nam và Ðông Nam, xuôi theo sông Gange
(Hằng Hà), theo vết chân của những cuộc di dân, chủ yếu là của người Aryan; đôi
khi có thể là bằng vó ngựa trường chinh, nhưng phần lớn là bằng sự thân hữu,
bằng những trao đổi buôn bán, bằng sự truyền bá tôn giáo, tư tưởng, học thuật...
Các quốc gia phía Nam và Ðông Nam, ban đầu bị xem là những vùng bán khai hay man
dã, đã tìm cách vươn lên khi chung sống với những người ở phương Bắc tràn xuống.
Các quốc gia này cũng đã học hỏi Trung Ương qua những lần tham gia chiến tranh
theo tính cách chư hầu được các quốc gia Trung Ương gọi đến nhờ giúp đỡ, hoặc tự
tìm lên phía Bắc buôn bán, học tập... Với tinh thần tự cường, các quốc gia phía
Nam và Ðông Nam đã lớn mạnhững dần, và trong vài thế kỷ, đến thế kỷ thứ VII
trước Tây lịch, đã trở nên phồn thịnh: Kosala (Câu-tát-la), Kasi (Ca-thi),
Videba (Vi-đê-bà), Magadha (Ma-kiệt-đà) với những thành phố lớn gồm lâu đài,
dinh thự, công viên, chợ búa... Sàvathi (Xá-vệ) của Kosala, Ràjagaha (Vương Xá)
của Magadha, Kosambi (Kiều-thướng-di) của Vamsa (Vam-di), Vesali (Phệ-xá-ly) của
Vajji (Bạt-kỳ)...
Văn minh văn hóa ở các quốc gia Trung
Ương đã phát triển rực rỡ, kết quả của sự hòa hợp của hai nền văn minh Dravidian
và Aryan qua tổ chức theo hệ thống tư tưởng Vedas, nhưng đến thế kỷ thứ VII, VI
trước Tây lịch thì có vẻ như khựng lại. Bà-la-môn giáo lấy Vedas làm căn bản, đã
thiết lập một trật tự chặt chẽ gồm bốn đẳng cấp: Bà-la-môn (Brahmana - lễ sư),
Sát-đế-lợi (Shastriya - vương tộc, chiến sĩ), Tỳ-xá-da (Vaisya - thứ dân, nông
công thương) và Thủ-đà-la (Sudra - nô lệ, lao động cấp thấp). Bốn đẳng cấp trên
tuy nhằm phân chia chặt chẽ ở mặt thực hiện tôn giáo nhưng rõ ràng có ảnh hưởng
đến mọi lãnh vực, bình diện: kinh tế, chính trị, xã hội... nhất là ở thời điểm
mà ý thức tư tưởng, tôn giáo đang phát triển cao độ. Quyền lãnh đạo tinh thần,
đặc biệt trong việc thực hành tôn giáo, tế lễ là đặc quyền của đẳng cấp
Bà-la-môn; kế đến là sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quốc gia của đẳng cấp
Sát-đế-lợi là động lực đẩy mạnh sự phát triển quốc gia lúc khởi đầu và huy động
mọi hoạt động trong quá trình phát triển quốc gia. Sự phân chia đẳng cấp như
thế, đương nhiên đã ngăn cản sức vươn lên của số đông lao động là hai đẳng cấp
Tỳ-xá-đa và Thủ-đà-la vốn bị coi là thấp kém hơn,thậm chí đẳng cấp sau cùng là
Thủ-đà-la hầu như bị tước hết mọi quyền lợi. Từ đó, dần dần hình thành tư tưởng
đấu tranh bất bình và về lâu về dài, việc tổ chức lại xã hội đương nhiên phải
được thực hiện.
Tổ chức xã hội theo hệ thống
Bà-la-môn, do trí tuệ, do kỹ năng lãnh đạo, do quyền lực, đã ổn định đời sống,
nâng cao sản xuất, tạo một bước tiến dài, một bước ngoặt mới trong lịch sử Ấn
Ðộ. Nhưng khi quốc gia đã lớn mạnhững, cơ sở hạ tầng đã phát triển cao thì cái
kiến trúc thượng tầng đã có dấu hiệu không kham nổi vai trò của mình, khởi đầu
làm trở ngại việc phát triểu của quốc gia. Có thể nói, cái sinh khí của quốc gia
bấy giờ hầu như đã suy giảm. Các tế lễ, nghi thức tôn giáo, và sự lệ thuộc về
tinh thần và về sinh hoạt hằng ngày của người dân vào Bà-la-môn giáo quá nhiều.
Tất cả thành ra gò bó, đơn điệu, buồn tẻ. Ðã đến lúc các quốc gia muốn tiến hơn
nữa, phải đón nhận một tư tưởng lãnh đạo khác, hoặc đã đến lúc Bà-la-môn giáo
muốn tiếp tục đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, phải chuyển biến thành một hệ thống
mới.
Các quốc gia phía Nam và Ðông Nam
đang phát triển, ý thức tự do đang nẩy nở, tinh thần thực dụng đã đậm đà theo
với sự chuyển đổi sang văn minh đồ sắt song song với phát triển kỹ thuật, thủ
công nghiệp và thương nghiệp. Tất cả tạo nên một khí thế mới, thực tiễn mang
tính chất nhân bản hơn.
Các kinh Vedas từ chỗ phản ảnhững
bóng dáng của các bậc thấu thị (Rsi-Risi), ca ngợi đấng tối cao, ca ngợi một Ðại
ngã vũ trụ rộng lớn đầy quyền năng là Brahman, sau đó đã đưa Brahman gần gũi với
con người hơn bằng các hình thức cầu đảo, tế lễ. Nhưng một khi văn minh đã cao,
tư tưởng đã phát triển khai phóng thì các mẫu thức hình nhi thượng, dù đã được
kéo thấp xuống trong nếp sinh hoạt qua giới cấm, nghi lễ.... vẫn là những gò bó,
xa vời, trái với lòng yêu tự do, yêu thực tiễn lúc bấy giờ.
Chuyển biến đầu tiên của Bà-la-môn
giáo là việc giải thích kinh Vedas theo nhiều cách khác nhau theo từng hệ phái
Vedanga. Sau đó, nét đặc sắc nổi bật, đánh dấu một bước tiến, một nét mới thoát
thai từ các Vedas là tư tưởng Upanisads (Áo nghĩa thư). Học thuyết được bao gồm
trong 108 (?) bộ sách, đặc biệt là mười ba bộ thường được nhắc nhở: Isàvgàsya,
Kena, Katha, Chàndoya, Brakadànanyaka, Kansìtaki, Maitràyaniya, Prasna, Mundaka,
Tattrirìya, Màndakya, Aitareya và Svetàsvatara. Hơn phân nửa trong số mười ba bộ
trên được hình thành trước thời Phật (từ năm 700 đến 550 trước Tây lịch). Học
thuyết này nhằm giải thích, triển khai các kinh Vedas theo tinh thần mới, cụ
thể, sâu sắc, chi li hơn. Cái Tiểu ngã (Atman) được khám phá, được đào sâu. Thần
Brahman có đầy đủ trong thần Atman, cái Ðại ngã bao gồm trong Tiểu ngã. Nguyên
nghĩa của từ Upanisad là ngồi gần, ngồi nghe, ngồi dưới chân Thầy. Mối liên hệ
của cá nhân, của cái Tôi với siêu nhiên trở nên thân mật hơn. Tiểu ngã (Atman)
có nghĩa là thân thể, là hơi thở, là bản thể, là tự ngã, linh hồn. Học thuyết
Upanisad nỗ lực cổ súy cái Ngãi, minh họa con đường để Tiểu ngã đồng nhất với
Ðại ngã, vũ trụ.
Từ đây, tư tưởng thoát ly cái khuôn
mẫu cũ đã manh nha và lớn lên. Song song với bối cảnh kinh tế và xã hội, tư
tưởng triết học không chịu hạn hẹp vào những chi phối của hệ thống Vedas, dù là
Vedas đã chuyển màu sắc qua Upanisads. Các phái Lục sư xuất hiện và lôi kéo theo
mỗi phái một số đông tín đồ, đệ tử, tạo nên một không khí triết học tưng bừng
của một thời kỳ mới. Sáu phái này, có thể nói là các tư tưởng phản Vệ-đà. Ðại
khái, dựa vào kinh Sa-môn Quả trong Trường Bộ kinh (Dìgha Nikàya), ta có thể
kể:
Thực ra, trong khung cảnh ấy, còn rất
nhiều học thuyết khác nữa. Ngũ phần luật có ghi bấy giờ vua Tân-tỳ-sa-la là
Ca-lưu mở tiệc đãi đại diện các môn phái gồm chín mươi sáu vị. Các học phái và
tôn giáo mới như thế đã lan tràn khắp nơi và chi phối ảnh hưởng của Bà-la-môn
giáo.
Các quốc gia đang vươn lên ở phía Nam
và Ðông Nam Trung Ương tất nhiên vẫn đang chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo
nhưng không quá nặng nề, vì ở xa Trung Ương, vì dân ở đây ít thuần chủng hơn và
vì một số lý do khác đã nêu. Ðây là những mảnh đất gieo trồng và phát triển của
các học thuyết kể trên. Magadha là trung tâm hoạt động của Lục sư. Hai vị hiền
triết mà đức Phật đến hỏi đạo khi mới xuất gia là Alàra Kàlama (phái Samkhya -
Số luận) và Uddaka Ràmaputta (phái Yoga - Du-già) là hai lãnh tụ hai Sa-môn đoàn
nổi danh ở Magadha (Ma-kiệt-đà) và Vesali (Tỳ-xá-li). Ba anh em Trưởng lão
Kassapa (Ca-diếp) thuộc đoàn Sa-môn Latilika, phái Nigradha (Phạm chí Ni-câu-lư)
được ghi trong A-hàm, tu ở gần thành Ràjagaha (Vương Xá) thuộc Magadha
(Ma-kiệt-đà)... Nhìn chung từ Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) đến Savatthi (Xá-vệ)
sang Kasina (Câu-thi-na), Vesali (Phệ-xá-ly), Rajagaha, Baranàsi (Ba-la-nại) là
những đô thị lớn, cho đến các vùng hẻo lánh đều có xuất hiện bóng dáng của các
triết gia, đạo gia của đủ các môn phái.
Trong số các quốc gia mới vươn lên,
Kosala (Câu-tát-la) và Magadha là hai quốc gia lớn mạnh nhất. Riêng nước Magadha
đang có sức vươn nhanh, lãnh thổ ở sát ngay hạ lưu sông Gange (Hằng Hà), phía
đông gần ra tới biển, phía Tây trải đến sông Sona (Thiệm-ba) và phía Nam giáp
núi Pundra (Tân-đô-la). Magadha đang tranh chấp ảnh hưởng với Kasala trong thời
Phật và đến khi Phật sắp nhập diệt thì đã thanh toán một số nước nhỏ và áp đảo
được Kosala, mở đầu cuộc thống nhất Ấn Ðộ vào hai trăm năm sau.
Trong vòng năm trăm năm, kể từ thế kỷ
thứ X trước Tây lịch trở về sau, tư tưởng xã hội Ấn Ðộ đã qua những va chạm đấu
tranh, mâu thuẫn, tổng hợp, phân chia... qua những giai đoạn khi thì âm thầm,
khi thì ồ ạt, khi thì trải ra bề rộng, vươn lên chiều cao, lắng xuống bề sâu...,
tạo nên một bối cảnh đa dạng, phong phú với những vấn đề rối rắm, đa đoan. Ðây
là kết quả đương nhiên của một cơ thể sống, rất thực, rất biện chứng là con
người, là những con người trong một xã hội, trong một cộng đồng những xã hội, là
loài người. Những chuyển biến, thao thức, trăn trở của triết học, đạo học tiếp
diễn không ngừng đã chứng tỏ cuộc sống tinh thần, và từ đó, cuộc sống vật chất,
còn có trở ngại, còn chưa trọn vẹn, còn khổ đau. Chân lý vẫn lừng lững ra đấy,
tròn đầy, phổ biến trong cái thực tại này đây; có điều, cái "đương sự" người
không nắm bắt được trọn vẹn, có khi chỉ cảm nhận được trong phút chốc, hoặc lâu
hơn, nhưng vẫn chưa đủ để gọi là thể nghiệm, thông hội, thể chứng. Lại nữa,
phương pháp thể nghiệm chứng đạt chân lý, cách diễn tả bằng ngôn ngữ - dù qua
giao tiếp hay suy tư - vẫn là vấn đề nan giải.
Hãy nói riêng Ấn Ðộ vào thời ấy,
ngoài các vị thần đầy quyền năng được chấp nhận theo truyền thống tín ngưỡng,
chưa có một con người thực sự, con người lịch sử, cao cả mà gần gũi với mọi
người, con người giác ngộ chân lý có khả năng đặt lại vấn đề để giải quyết và từ
đó giải quyết mọi rối rắm của tư tưởng bấy giờ. Vị ấy không phải là đấng sáng
tạo, không độc quyền giữ chân lý, không mang lại cái gì mới lạ với thực tại,
không đặt thêm tư tưởng, học thuyết. Vị ấy chỉ dung nạp, dung hóa, hòa hợp. Vị
ấy bắt đầu bằng thực tại, thực hiện và thành tựu trong thực tại bằng một sự việc
rất thực là cứu khổ, giải thoát cho con người .
Vị ấy là đức Phật.
Ngài là một thái tử, tên Siddhattha
(Tất-đạt-đa), dòng họ Gotama (Cồ-đàm), Vương tộc Sakya (Thích-ca, thuộc đẳng cấp
Shatiya (Sát-đế-lợi), con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hòang hậu Mayadevì
(Ma-gia). Ngài sinh vào năm 544 trước Tây lịch, tại vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni),
phía Ðông thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), nước Kapilavatthu.
Tưởng cũng nên xác định sơ qua vị trí
của một số đô thị, quốc gia, những nơi từng in dấu chân đức Phật và các Tỳ-kheo
đệ tử của Ngài.
Kapilavatthu là một nước nhỏ, hiện
nay là Tilaura Kot, thuộc Nepal, giáp giới với Ấn Ðộ. Chếch về Tây khoảng một
trăm km là Sàvatthi (Xá-vệ) thuộc Kosala, nay là Sàhet Mahet ở hữu ngạn sông
Rapti. Chếch xuống phía Ðông Nam Kapilavatthu chừng hai trăm km là thành
Kusinagara (Câu-thi-na) thuộc Kasia (Ca-thi), ở phía Utta Pradesh hiện nay, cách
hai trăm km về Ðông, hơi xuôi Nam là thành Vesali (Phệ-xá-ly) thuộc Vamsa
(Vam-di), nay là Besàrh trên sông Gandaki. Vẫn xuôi về Ðông và chếch xuống Nam,
băng qua sông Gange, cách Vesali chừng hai trăm km là thành Ràjagaha (Vương Xá),
kinh đô của Magadha (Ma-kiệt-đà), nay thuộc xứ Bihar. Phía Nam Ràjagaha vài chục
cây số là Gaya, nay là Boddhigaya, nơi Phật thành đạo. Sát ngay đó, xuống phía
Nam là vùng rừng núi, nơi đức Phật sáu năm tu khổ hạnh. Cách Gaya chừng ba trăm
km về phía Tây, hơi chếch lên Bắc là Baranàsi (Ba-la-nại), thành phố nằm ngay
trên bờ tả ngạn sông Gange. Ngược dòng sông Gange chừng ba trăm km, đi về Nam
vài chục km là Kosambi (Kiều-thướng-di) thuộc Vamsa, nay là Kosam, ở phía tây
Nam Allahàbàd.
Các khoảng cách nói trên là tính theo
đường chim bay, chỉ là các con số tương đối; nếu kể theo đường bộ hiện nay, đặc
biệt là vào thời ấy tất nhiên là phải khác hơn nhiều, con số thực có thể dài gấp
đôi hay hơn nữa.
Theo Kinh Ðại Bổn, Trường Bộ (và
nhiều kinh khác của Nikàya), thái tử Siddhattha lúc mới sinh ra có ba mươi hai
tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, dấu hiệu của bậc cdg, hoặc vị Chuyển Luân vương
trong tương lai. Bảy ngày sau khi Thái tử đản sinh, hoàng hậu Màyadevì từ trần.
Thái tử lớn lên, được rèn tập thông suốt tất cả các học nghệ, cho đến khả năng
suy luận, biện thuyết, suy tư, Ngài đều tỏ ra xuất chúng. Khi lớn lên, Ngài đã
có tư tưởng muốn thoát ly, tầm đạo; vua cha biết được, dùng mọi xa hoa vật chất
để mong buộc chân Ngài. Theo lệnh vua cha, Ngài cưới Yasodhàra (Da-du-đà-la),
một công chúa tài sắc, đức hạnh của nước Kosala láng giềng. Năm hai mươi chín
tuổi, Thái tử đã có một con trai là Rahula (La-hầu-la). Nhìn thấy những biểu
tượng khổ đau (già, bệnh, chết) và cốt cách thanh thoát của một vị Sa-môn, sau
bao nhiêu suy tư, băn khoăn, thao thức về khổ đau, về cứu khổ, giải thoát, Thái
tử quyết định bí mật rời hoàng cung, từ bỏ tất cả những gì mà đời gọi là hạnh
phúc trần gian, ra đi tìm đạo lớn. Trong đêm khuya, Ngài ra khỏi thành một mạch
thẳng đến hết địa phận của nước Kapilavatthu. Nơi đây Ngài từ giã Chandaka
(Xa-nặc), người hầu cận trung thành, và Kanthaka (Kiền-trắc), con tuấn mã của
Ngài. Ngài đổi vương y, khoác áo tu sĩ, một thân một mình dong ruổi trên đường
tầm đạo. Ngài xuôi về phía Ðông Nam, vượt núi đồi, làng mạc đến Vesalì học hỏi
đạo sĩ Alàra Kàlama (A-la-raa Già-đa-na), lãnh tụ phái Samkhya, và sau đó chứng
đắc quả vị cao nhất mà vị này đã đạt được là nhập được Vô sở hữu xứ định. Chưa
vừa ý với kết quả này, Thái tử xuôi về Ðông, chếch xuống phía Nam, vượt qua sông
Gange, đến Magadha, tiến về kinh đô Ràjagaha (Vương Xá), nơi tập trung văn hóa,
tư tưởng, đạo học của những môn phái thời danh để học với đạo sĩ Uddaka
Ràmaputta (Ưu-đà-già La-ma-tử), lãnh tụ phái Yoga (Du-già), và cũng không bao
lâu Ngài chứng đắc quả vị cao nhất của vị này là nhập vào Phi tưởng phi phi
tưởng xứ định. Ðây là quả vị cao nhất mà người đương thời đạt được. Bằng trí tuệ
cao vời, Thái tử, hay nói đúng hơn, Bồ-tát thấy rằng trong quả vị lớn lao này
vẫn còn vướng mắc nghiệp quả, chân lý chưa được chứng nghiệm trọn vẹn. Ngài nhập
định quán sát cùng khắp, nhận thấy không còn ai trên đời có thể dạy cho Ngài
thêm được nữa, nên quyết định từ giã Uddaka Ràmaputta để tự mình tìm nơi tu tập,
thực hiện giải thoát.
Cũng theo Ngài có năm đệ tử của
Uddaka là Annà Kodannà (A-nhã Kiều-trần-như), Assaji (Át-bệ hay Mã Thắng hoặc
Thuyết Thị), Dasabàla Kassapa (Thập Lực Ca-diếp) và Bhadaka (Bạt-đề), Bồ-tát
cùng năm vị Sa-môn này xuôi về Nam, đến vùng Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), gọi là
Gaya, vượt thêm khoảng mười km đến một nơi rừng núi thâm sâu tịch mịch; sát đó,
mé Tây là dòng Niranjara (Ni-liên-thuyền). Ngài và năm vị đồng hành chọn nơi đây
để tu khổ hạnh.
Suốt sáu năm trời, Bồ-tát chịu đựng
đói khát, lạnh lẽo..., thân thể gầy mòn chỉ còn da bọc xương. Ngài nỗ lực tu tập
Thiền định, tìm cách điều ngự thâm tâm, quyết tâm hành xác, điều động hơi thở,
thậm chí còn cố gắng ngưng thở để mong giải thoát tâm linh. Mệt mỏi, đau đớn,
cảm giác bất an vẫn không ngừng hiển hiện. Ngài nhớ lại những kinh nghiệm trước
kia, dù đang lúc trú sơ thiền, ngài đã rất thoải mái, thanh thản, nhẹ nhàng (cảm
nhận lúc Ngài lên bảy, khi vua cha làm lễ hạ điền); thế mà nay thì trái ngược
hẳn! Ngài nhận thấy mình đã đi không đúng đường, đã nghiêng hẳn về một cực đoan.
Ngài quyết định ăn uống trở lại cho đầy đủ sức khỏe, bỏ hẳn việc tu hành xác.
Năm vị Sa-môn đồng tu, nhóm Tôn giả Kodannà, cho rằng Ngài đã thối chí, rời Ngài
mà đi sang phía Tây đến Baranàsi cách đó chừng ba trăm km, thuộc xứ Kàsi, bên bờ
sông Gange để tiếp tục tu tập.
Bồ-tát bấy giờ chỉ còn một mình nơi
rừng vắng, cô đơn nhưng thanh thản, quyết chắc mình sẽ thành đạo. Ngài xuống tắm
ở sông Niranjaga rồi đi ngược lên phía Bắc để trở lại Gaya, Uruvelà nơi không xa
đường cái, làng mạc, nhưng lại là một khu rừng xanh mát, yên tĩnh, Bồ-tát dùng
cháo sữa của thôn nữ Sujàta (Tu-xà-đề) dâng cúng, nhận tám bó cỏ mịn của người
cắt cỏ tên Svastika (Kiết Tường) để trải làm chỗ ngồi, trên một phiến đá phẳng,
dưới một cội cây già (sau này được gọi là cây Bodhi - Bồ-đề). Ngài thề sẽ không
rời khỏi nơi đây khi chưa thành đạo. Trừ những lúc xuất thiền tản bộ quanh quất
nơi đây, trong suốt bảy tuần lễ Ngài nhập đại định và cuối cùng chứng đắc đạo
quả tối thượng.
Từ nay đức Thích-ca đã trở thành bậc
Giác ngộ vĩ đại nhất, xứng đáng với mười danh hiệu : Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Ðức Phật đã đạt chân lý tối thượng,
đã trở thành chân lý. Chân lý vẫn thể hiện trong thực tại trần gian nhưng vì bị
vô minh che lấp, con người không vào được chân lý, kiếp kiếp phải lang thang,
quằn quại đau thương trong sinh tử luân hồi. Ðức Phật đã từ bỏ tất cả để tìm
chân lý, há không phải để phá trừ vô minh, vượt sinh tử, diệt khổ đau đang hiện
diện trong cuộc đời? Bởi thế, sau bảy ngày ngồi tịnh lặng dưới cội Bồ-đề tận
hưởng hạnh phúc an lạc của Ðại giác, đức Phật đắn đo suy nghĩ về pháp vô thượng
và cái giới hạn của trí tuệ con người, đã phân vân về việc đem Pháp để thuyết
dạy người đời.
Bộ Ðại Phẩm (Maha Vagga) có chép về
suy nghĩ của đức Phật lúc bấy giờ:
Nhưng tác phẩm ấy còn chép
tiếp:
Thế là Phật trở về với trần gian,
khai mở chân lý, dạy bảo cho con người thấy, thông hiểu về thể nhập (khai, thị,
ngộ, nhập).
Quyết định này được thực hiện ngay
tại nơi Ngài thành đạo. Hai thương gia cùng với đoàn xe chở hàng hóa đi về phía
Bắc, ngang qua nơi ấy, thấy tướng mạo oai nghi đẹp đẽ, hiền hòa của đức Phật, đã
phát hoan hỷ tâm, cúng dường, đảnh lễ Ngài. Ðược đức Phật giảng pháp, cả hai đều
thành tâm xin quy y. Hai vị đó tên là Bhallika (Bạt-lê-ca) và Trapusha
(Ðế-lê-phú-bà), được xem là hai vị đệ tử tại gia đầu tiên của đức Phật vậy. Nội
dung lời giảng của Ðức Phật cho hai vị cư sĩ trên không được ghi chép lại, nhưng
chắc chắn đây là những lời an ủi, những lời thiên trọng về luân lý, đạo đức, về
việc xử thế thông thường, phù hợp với căn cơ của một người bình thường mà bất cứ
vị hiền triết nào cũng có thể thuyết giảng được; điều gây tin tưởng cho hai vị
ấy hẳn là do hình dung, tướng mạo của bậc Giác Ngộ. Do đó ta không xem đây là
lần khai mở của một vận hội triết lý, tôn giáo cứu thế như sẽ xảy ra sau đó
không lâu tại Baranàsi (Ba-la-nại), xứ Kasi.
Ðức Phật là một con người đã sống, đã
phản tỉnh, đã học hỏi, tu tập và chứng đắc Pháp. Ngài là kết quả của một tiến
trình sống của một cơ thể hữu cơ, cơ thể hữu cơ ấy là cuộc đời, là con người có
tư tưởng, có vận hành trong một thời gian dài từ vô thỉ. Pháp tối thượng mà Ngài
chứng đắc, như trên đã nói, chính là cái pháp thường hằng, rốt ráo, tuyệt đối,
vẫn thể hiện trong mọi bình diện của cuộc sống. Có điều có những phản ảnh chân
lý mà con người không nắm được, hoặc chỉ nắm được những phần lẻ tẻ vụn vặt, hoặc
suy diễn không đúng về nó. Ngài là vị Sa-môn cao thượng nhất, chứng quả cao
thượng nhất và quyết định đem Pháp tối thượng để khai thị, cứu khổ cho chúng
sanh. Phật, Pháp, Tăng, ngôi Tam Bảo, vốn đầy đủ ở Ngài, con người của Ngài là
Tam Bảo.
Ðức Phật vĩ đại ở chỗ không phải Ngài
sáng tạo ra cái mới, mà ở chỗ Ngài biết dung hóa, hệ thống, sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện tất cả những tư tưởng triết học đã có, hay nói đúng hơn, Ngài biết
phương pháp, nội dung trình bày cái chân lý mà Ngài giác ngộ, phản ánh cái Pháp
được Ngài thể nghiệm, chứng đắc, nương tựa, và chính Ngài là Pháp ấy. "Pháp này
há không phải do ta chứng ngộ sao? Tại sao ta không tôn sùng và lấy nó làm nơi
nương tựa?". (Tương Ưng, Tạp A-hàm, 44).
Kinh còn chép tiếp:
Chính Pháp là Phật, là đại diện cho
Phật, hay ngược lại cũng thế, cho nên đức Phật dạy:
Chính vì thế mà sau khi Phật nhập
diệt, người Bà-la-môn Maggallàna (Cù-nặc-kiền-liên) và ông quan Vassakàra (Do
Thế) hỏi ai là người kế vị Phật thì Tôn giả Ananda đáp:
Vì Phật, Pháp, Tăng là một, cho nên
dù vắng bóng Phật, người ta có thể nương tựa vào Phật pháp và vào Tăng-già. Vấn
đề còn phải đặt ra là Tăng-già tức Giáo đoàn, Giáo hội Phật giáo phải làm sao để
đảm nhận chức năng cao cả ấy.
Tăng-già, trên nguyên tắc là một cơ
thể nhất thống, thể hiện đúng như Pháp, như Phật, là Pháp, là Phật. Ðó là nội
dung sẽ được khai triển tiếp theo.
-ooOoo-
|
No comments:
Post a Comment