Thursday 15 December 2011

HÓA THÀNH DỤ
Đoạn 12 - 15
CHÁNH VĂN:
12.- Bấy giờ, mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa-di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Các vị Đại đức Thanh văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học. Thế Tôn! Chúng con có chí mong được Tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho.”
Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho.
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa-di qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bốn chúng nói kinh Đại thừa tên là: “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Đức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa-di vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa-di Bồ-tát thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong Thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
GIẢNG:
Mười sáu vị vương tử xuất gia làm Sa-di các căn trí lanh sáng, thiết tha cầu Phật Đại Thông Trí Thắng nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để các ngài được nghe và được tu chứng thành Phật. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng thể theo lời yêu cầu của mười sáu vị Sa-di, Ngài nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nói xong liền trụ trong Thiền định suốt tám mươi bốn ngàn kiếp.
CHÁNH VĂN:
13.- Bấy giờ, mười sáu vị Bồ-tát Sa-di biết Phật nhập thất trụ trong Thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG:
Sau khi biết Phật Đại Thông Trí Thắng trụ trong Thiền định, muời sáu vị Bồ-tát Sa-di đều lên pháp tòa vì tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa, mỗi vị đều độ vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị Sa-di chỉ là Bồ-tát thôi, chưa chứng quả Phật mà vẫn ra nói pháp cho tứ chúng nghe. Vì các vị Bồ-tát Sa-di đã tin thọ lời Phật dạy rồi, nên có quyền ra hành Bồ-tát đạo độ chúng sanh cho công hạnh tự giác giác tha được viên mãn để thành Phật. Chúng ta thấy rõ tinh thần của đạo Phật, ngoài công việc tự giác ở chính mình, còn phải làm lợi ích cho chúng sanh, chớ không phải đợi tu thành Phật rồi mới ra giáo hóa. Như chúng ta đã thấy Phật Thích-ca thường nhắc lại ở kinh Bản Sanh, trải qua nhiều đời nhiều kiếp Ngài hành Bồ-tát đạo, kiếp sau cùng mới thành Phật dưới cội bồ-đề. Nên nói tự giác giác tha viên mãn thì thành Phật.
CHÁNH VĂN:
14.- Đức Đại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam-muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: “Mười sáu vị Bồ-tát Sa-di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy.
Vì sao? Nếu hàng Thanh văn, Duyên giác cùng các Bồ-tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ-tát Sa-di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trí huệ của Như Lai.”
GIẢNG:
Pháp mà mười sáu vị Sa-di Bồ-tát nói là kinh Pháp Hoa, tức là Tri kiến Phật. Các ngài đã tin nhận được Tri kiến Phật rồi thọ trì tu hành, sau này chắc chắn sẽ thành Phật không nghi. Đó là trách nhiệm giáo hóa của đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã xong.
CHÁNH VĂN:
15.- Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Mười sáu vị Bồ-tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sanh của mỗi vị Bồ-tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ-tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ-tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó mà được gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.
Các Tỳ-kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa-di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiện đương nói pháp trong cõi nước ở mười phương, có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ-tát, Thanh văn để làm quyến thuộc.
Hai vị Sa-di làm Phật ở phương Đông: vị thứ nhứt tên là A-súc ở nước Hoan Hỉ, vị thứ hai tên là Tu-di Đảnh.
Hai vị làm Phật ở phương Đông Nam: vị thứ nhứt tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng.
Hai vị làm Phật ở phương Nam: vị thứ nhứt tên là Hư Không Trụ, vị thứ hai tên là Thường Diệt.
Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: vị thứ nhứt tên là Đế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng.
Hai vị làm Phật ở phương Tây: vị thứ nhứt tên là A-di-đà, vị thứ hai tên là Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não.
Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: vị thứ nhứt tên là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu-di Tướng.
Hai vị làm Phật ở phương Bắc: vị thứ nhứt tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương.
Một vị làm Phật ở phương Đông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy.
Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích-ca Mâu-ni Phật ở cõi nước Ta-bà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các Tỳ-kheo! Lúc chúng ta làm Sa-di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn hằng hà sa chúng sanh, vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác theo ta nghe pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bậc Thanh văn, ta thường giáo hóa pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo.
Vì sao? Vì trí tuệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa chúng sanh được hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ-kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ-tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết-bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ Phật được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp.
Các Tỳ-kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh, lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào Thiền định, bèn nhóm các Bồ-tát và chúng Thanh văn mà vì nói kinh này. Trong đời không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa được diệt độ thôi.
Các Tỳ-kheo nên rõ! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham năm món dục, vì hạng người này mà nói Niết-bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
GIẢNG:
Những vị Sa-di Bồ-tát do nghe kinh Pháp Hoa và nói kinh Pháp Hoa để giáo hóa chúng sanh, sau này ra đời đều gặp chư vị Bồ-tát, và chư Phật tiếp tục tu hành tiến mãi trên đường tu cho đến khi thành Phật. Và sau khi thành Phật thì cứ hai vị giáo hóa một phương, như phương Đông có Phật A-súc, Phật Tu-di Đảnh, phương Nam có Phật Sư Tử Âm, Sư Tử Tướng... cho tới muời phương, phương nào cũng có các Phật do đức Đại Thông Trí Thắng giáo hóa thành Phật. Và chính đức Thích-ca Mâu-ni cũng do đức Đại Thông Trí Thắng là cha nói kinh Pháp Hoa giáo hóa mà được thành Phật. Như vậy là thế nào? Kinh Kim Cang có đoạn nói: Kinh này là mẹ của chư Phật ba đời. Kinh điển từ miệng Phật nói ra, tại sao lại nói kinh là mẹ của Phật? Kinh này là chỉ cho Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật. Chư Phật nếu được thành Phật là phải đầy đủ trí tuệ, nếu không có trí tuệ thì không thể thành Phật, mà Phật là giác và giác là trí tuệ. Nên nói Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật là mẹ của chư Phật. Cũng vậy, ở đây thay vì nói Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật là mẹ của chư Phật thì dùng hình ảnh đức Phật Đại Thông Trí Thắng nói kinh Pháp Hoa, con của Ngài nhân nghe kinh Pháp Hoa mà tu hành thành Phật ở khắp mười phương. Như vậy, chư Phật ở mười phương được thành Phật là do đức Đại Thông Trí Thắng là cha nói kinh Pháp Hoa, các ngài nghe tu hành mà được thành Phật. Đức Đại Thông Trí Thắng là chỉ cho Pháp thân, nếu muốn sống được với Pháp thân thì không gì hơn là từ Tri kiến Phật mà vào, vì Tri kiến Phật là dụng của Pháp thân.
Ví dụ một ngọn đèn đốt ở giữa nhà, nhà có sáu cửa mở rộng, người ở ngoài nhà do thấy ánh sáng từ sáu cửa mà biết có đèn trong nhà, và phải do cửa mà vào nhà mới thấy được ngọn đèn. Ngọn đèn dụ cho Pháp thân Phật, ánh sáng tỏa ra sáu cửa dụ cho Tri kiến Phật. Tri kiến Phật từ Pháp thân tỏa ra gọi là dụng của Pháp thân, muốn sống được với Pháp thân thì phải từ Tri kiến Phật mà vào, chớ không có con đường nào khác. Vì vậy nên đây mới nói đức Đại Thông Trí Thắng giảng kinh Pháp Hoa cho các Sa-di Bồ-tát tu và được thành Phật. Tóm lại muời phương chư Phật đều từ cửa Tri kiến Phật mà ngộ nhập được Pháp thân Phật, chớ không có cửa nào đường nào khác. Vì vậy nên các ngài tu trong vô lượng kiếp khi thành Phật rồi mỗi vị phân ở mỗi phương, để nói lên ý nghĩa Pháp thân không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.
Tới đây Phật nói Trí tuệ Phật khó tin khó hiểu. Song, có vô số chúng sanh đã được Phật giáo hóa, tu theo Phật chứng quả Thanh văn rồi đến Bồ-tát. Lại cũng có người sau này nghe pháp Phật có lòng tin tưởng Phật nhập Niết-bàn là hết không trở lại, không ngờ Phật thị hiện Niết-bàn ở đây rồi giáng sinh ở kia để giáo hóa chúng sanh, chớ không phải ngang đó mà hết.
Diệt độ tức là Niết-bàn. Đạo Phật chỉ có một Niết-bàn duy nhất là Niết-bàn Phật. Sở dĩ Phật nói Niết-bàn Thanh văn, Duyên giác chẳng qua là phương tiện dẫn dụ, vì Ngài biết tâm chúng sanh thích ngũ dục ưa pháp nhỏ, để cho thấy dễ họ ham mà hướng dẫn họ tu lần lần. Nếu nói tu lâu và phải chứng được Phật quả thì họ ngán sanh lười mỏi không chịu tu.

No comments:

Post a Comment