Sunday 16 February 2014

Người xuất gia diệt trừ phiền não – SAYADAW ACINNA.


 Này tỳ kheo, 10 điều quán tưởng cần phải được thường xuyên bởi những ai đã bước vào đời sống tu tập với một ý chí và mục đích diệt trừ phiền não. Trước hết, vị xuất gia cần phải quán xét thường xuyên về trạng thái hình tướng của một vị tỳ kheo như sau: “Không còn là một cư sĩ, ta đã trở thành bậc xuất gia với hình tướng đã thay đổi khác”
Có hai sự khác biệt rõ ràng khi đã là một bậc xuất gia : Người thứ nhứt là vị tỳ kheo với bộ y, còn người thứ hai với y phục thế tục và làm việc lặt vặt trong đời thường.
Tiến trình chuyển hóa của thân
Ở đây, chú giải đã nói về tiến trình thay đổi sẽ được thấy như thế nào. Thông thường điều đó có thể dễ dàng thấy nếu ta  soi gương. Nhưng nó lại không phù hợp với tỳ kheo hay nữ tu để sử dụng gương soi. Vì thế, vị đó có thể nhận rõ sự thay đổi của thân này qua sự lưu ý chỗ đầu tóc và râu đã được cạo sạch. Càng chú ý gần hơn, trên đầu tóc  này không còn tóc của tuổi thanh xuân nữa mà giờ đây chỉ còn lại  tóc bạc mà thôi. Khi nhìn vào làn da, vị ấy lại nhận ra nhiều nếp nhăn, và nhiều vùng da bị chùng xuống là dấu hiệu của tuổi già nua.  Ở đó là một tiến trình chuyển hóa liên tục trong thân cho dù ta có cố gắng đến đâu để duy trì tuổi trẻ và hình dáng bên ngoài. Tấm thân mà ta yêu quý và chăm sóc nó biết bao mà nó vẫn đi ngược lại ý muốn giữ lại tuổi trẻ của ta.
Trong nhịp bước của chuyển hóa và chuyển biến nó làm cho thân ta đi dần đến sự tiêu hoại và cái chết. Cho dù nghiệp xấu hay tốt thì ta cũng không thể đảo ngược tiến trình đó được. Bất lực trước sự chuyển hóa này, thân ta luôn ốm đau vặt từ lúc bắt đầu có thân này. Sự lão hóa không ngừng và nhiều bức xúc của cái thân diễn ra hằng ngày. Tiến trình chuyển hóa này cứ đi tới, đi tới mãi và nó không để cho ai thoát cả.  Những điều này phải luôn được quán xét bởi những vị tu hành và những ai đang đi trên con đường tiến hóa tâm linh.
Sự khác biệt về y phục và các thứ trang điểm
Trong đời sống cư sĩ, không có một giới hạn nào. Mọi thứ đều có thể chợt nảy ra. Sự ham muốn và cái tâm buông lung chạy theo nhiều thứ. Một người có thể mặc quần áo  nhiều màu và đủ thứ kiểu dáng, họa tiết khác nhau. Một người cũng có thể chiều chuộng mình ăn ngon với nhiều khẩu vị khác nhau, đựng thức ăn trong  đĩa vàng, đĩa bạc. Như Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên, là hai vị đại đệ tử của Đức Phật, trước khi xuất gia đã dùng nhiều thức ăn thượng hảo hạng đặt trong đĩa bằng vàng và bạc vì các vị ấy vốn xuất thân trong các gia đình quyền quý. một người bình thường có thể ngủ trên một chiếc giường sang trọng và ngồi trong những chiếc ghế đắt tiền đặt trong phòng đầy đủ tiện nghi.  Một cư sĩ cũng có thể sử dụng đủ các loại thuốc bán sẵn ngoài thị trường chưa kể đến chất lượng hay giá trị của nó đa dạng. Đó là đời sống của một cư sĩ.
Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn mang ý nghĩa ngay khi người đó bước vào đời sống xuất gia. Tứ vật dụng mà một vị tu sĩ phải có là  y phục, thực phẩm, chỗ ở và thuốc men thật đơn giản và khiêm nhường. Không có tiện nghi sang trọng và ý muốn vô hạn và luôn chiều chuộng cái tôi. Một vị tăng phải sống đơn giản với tiện nghi tối thiểu vả sống tiết chế trong giới và luật cho phép. Vị ấy phải từ bỏ các tiện nghi và ngũ trần mà mình đã hưởng thụ trước đây.
Y của vị tỳ kheo được lượm từ những đống vải phế thải. Ráp lại từ những miếng vải  bỏ không còn giá trị nữa, được cắt thành hình vuông nhỏ để làm mất giá trị của nó, rồi  may lại và nhuộm bằng vỏ cây nâu trong rừng nhiệt đới như thời cổ xưa. Loại y mà chẳng  còn chút giá trị nào bằng tiền mà cũng không tên trộm nào muốn lấy cắp. Đó là loại y phục của vị tỳ kheo mà không một ai muốn lấy để mặc cả.
Đối với vật thực và  bữa ăn, vị tỳ kheo chỉ được dùng những gì do thiện nam tín nữ bố thí cúng dường. Tất cả những vật thực được đặt trong chiếc bát  làm bằng sắt hay đất sét, và  vị tỳ kheo đó phải dùng thức ăn được trộn lẫn vào nhau trong bát, mà không hề quan tâm đến sở thích riêng của mình.
Đối với vị tỳ kheo và đối với những ai đang đi trên con đường tiến hóa tâm linh, ăn là sự duy trì thân mạng hơn là một hành động chiều chuộng bản thân. Nó phải được tiết chế  tâm tham và luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trong khi ăn. Hơn nữa, vị tỳ kheo phải dùng chiếc giường hết sức khiêm nhường và bàn ghế vừa đủ theo nhu cầu cơ bản. Vị ấy không được sử dụng các loại giường ghế sang trọng. Như một điều bắt buộc, vị ấy phải sống đúng và trong sạch theo giới luật được ghi rõ, dùng đệm mây, cỏ hoặc miếng vải lót ngồi bằng da. Chỗ ở dưới bóng cây được khuyến khích dùng làm nhà hoặc nơi hành thiền. 
Đối với thuốc men, vị tỳ kheo phải dùng loại được thảo chế biến tự nhiên. Tất nhiên, cũng có nhiều ngoại lệ cho tứ vật dụng. Tuy nhiên,  cách thức và lế  lối mà vị tỳ kheo sử dụng cho  tứ vật dụng như y phục, thực phẩm và chỗ ở, thuốc men đều rất khác với một cư sĩ . Sự thay đổi này là  để thực hành  giới hạnh của một bậc tu vì vậy Đức Phật đã dạy ta phải thường xuyên quán chiếu sự thay đổi này. Những bậc thiện nhân làm theo lời dạy của Đức Phật là Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả Maha Kassapa và vô số các vị đại đệ tử khác của Đức Phật. Hầu hết họ đều xuất thân từ những gia đình giàu có quyền quý.
 Một tấm gương mẫu mực về tâm hồn của Tôn giả Xá Lợi Phất
Giữa những vị đại đệ tử của Đức Phật, một tấm gương của Tôn giả Xá Lợi Phất rất đáng được nhắc tới ở đây. Ngài là con của một gia đình quyền quý. Vào những giây phút cuối của cuộc đời, ngài đã trở về nhà mẹ ruột của Ngài để nhập Niết Bàn cũng vào cái đêm ngay tại phòng  nơi mà Ngài đã được sinh ra trong gia đình. Mục đích của Ngài là để giúp mẹ là bà Rupa Sari,  có thể chứng ngộ trước khi Ngài nhập diệt. Khi bà nghe bài Pháp của Tôn giả Xá Lợi Phất, bà đã chứng đắc tầng thánh thứ nhất và trở thành bậc Tu Đà Hoàn. Đây cũng là vòng hoa từ biệt mẹ của Ngài và sự thể hiện đặc biệt lòng tri ân sâu sắc của Ngài đối với mẹ trong những giây phút cuối của đời mình.
Thực hiện xong điều đó, Tôn giả Xá Lợi Phất đã qua đời và nhập diệt Niết Bàn tại đó. Mẹ của Ngài là bà Rupa Sari đã phát triển được niềm tin mới và hết lòng phục vụ Pháp Bảo. Vì thế, như được biết, bà đã sắp xếp nghi thức và lễ hỏa thiêu cho Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất bằng cách sử dụng thật sự có ý nghĩa số của cải của bà.
Sau lễ hỏa táng, một những hiện tượng kỳ lạ là tro của bậc giác ngộ, đặc biệt là xương đã biến thành hình hạt nhiều cỡ khác nhau được gọi là Xá Lợi. Ngoài tro của Ngài ra, nhiều Xá lợi đã được tìm thấy tại nơi hỏa thiêu của Ngài Xá Lợi Phất. Tôn giả Cunda, người em của Ngài Xá Lợi Phất, đã mang Xá lợi của Ngài về Kỳ Viên Tịnh Xá tại Thành Xá Vệ và dâng lên Đức Phật khi Ngài còn ngự tại đó.
Ở đây, thật là đặc biệt khi nhắc về Tôn giả Xá Lợi Phất, mặc dù là con của một gia đình giàu có, Ngài đã từ bỏ mọi tiện nghi vật chất và ngũ trần thế gian để bước vào cuộc đời tu tập phạm hạnh. Đức Phật đã đặt Xá lợi tro của Ngài trong lòng bàn tay của Đức Thế Tôn, và điếu tặng cho Tôn giả trước mặt tăng chúng những lời ngợi khen đức  hạnh cao quý của Tôn giả  Xá Lợi Phất với bài thơ như sau :
 (A)  Là vị tỳ kheo trải qua bao kiếp suốt tổng cộng năm trăm kiếp đã chán ngán ngũ trần, buông bỏ mọi thú vui trên thế gian mà nó không còn đủ sức quyến rũ được Ngài.
Hãy kính cẩn nghiêng mình trước một bậc  – lục căn đã hoàn toàn thanh tịnh. Chấm dứt mọi phiền não dính mắc đối với một bậc thánh giác ngộ.
 (B)  Ví như đất luôn vững chãi không lay động vì bất cứ một hành xử nào lệch lạc. Một cái tâm nhẫn nại vô song. Sân hận vị ấy đã hoàn toàn vắng bặt. Chưa bao giờ hành xử sai sót dù là một tốc hành tâm nhỏ. 
Lòng từ luôn thương xót  mọi chúng sanh
Nay vị  ấy đã ra đi
Nhập diệt An lạc Niết Bàn
Hãy kinh cẩn nghiêng mình từ biệt con Người đáng kính ấy.
(C) Như con của người bần cùng, đến thành phố này,
Ăn xin bữa cơm với bát tre trong tay,
Hạnh khiêm cung luôn giữ mình trong sạch,
Thể hiện cung cách khiêm hạ như kẻ hèn mọn
Hỡi, Xá Lợi Phất hạnh quá khiêm cung,
Luôn thực hành khiêm hạ, 
Một đời thánh nhân không cấu nhiễm,
Hãy kính cẩn nghiêng mình từ biệt 
một bậc Thánh đáng kính đã bước vào cõi an tịch tịnh
(D) Như con bò với đôi sừng gãy,
Di chuyển trong rừng hoặc ra nơi thành phố,
Không hại ai trên các lối đi qua
Cũng như Xá Lợi Phất, chưa bao giờ hại ai,
Hãy kính cẩn nghiêng mình chào một bậc Thánh đã bước vào cõi an tịch tịnh.
Nói về cuộc đời của Ngài Xá Lợi Phất, Đức Phật đã thốt ra những lời tán dương mà chưa từng bao giờ trong cung cách của Ngài đối với một người bình thường. Đức Phật đã hết sức tán dương các khía cạnh nổi bật của một vị thánh nhân mà cuộc đời của vị ấy là một tấm gương sáng thể hiện sự hy sinh bền bĩ, một nội tâm tự do, một sự kiên nhẫn dũng mãnh, một đức hạnh trong sạch, tình thương, trí tuệ vô song, vô cùng khiêm hạ và đáng kính. Ngài là một mẫu mực hòan hảo đáng cho chúng ta noi theo. Thật là một kỳ quan vĩ đại khi Tôn giả Sariputta đã từng là một vị tỳ kheo không phải trong kiếp này mà thôi mà trong nhiều kiếp trước tất cả là 500 kiếp . Trong các kiếp này, vị ấy đã từ bỏ một cách cương quyết và hoàn toàn sống tách rời khỏi thế giới ngũ dục và sở hữu vật chất đã kềm giữ ngài trong suốt các kiếp sanh tử luân hồi.
Chính vì vậy mà ngài đã hoàn toàn vươt trội hẳn trong số các đệ tử kiệt xuất của Đức Phật trở thành một vị Đại đệ tử lỗi lạc là Tôn giả Xá Lợi Phất.
Sau khi trở thành vị tỳ kheo, ngài đã hoàn toàn giác ngộ cùng một lúc ngài đã chứng đắc Alahán Đạo và Alahán Quả, loại trừ được mọi phiền não và nội tâm hoàn toàn thanh tịnh. Ngài đã hoàn toàn đạt đến sự an tịnh và giải thoát. Từ sự chứng ngộ đó, một số tâm khởi lên như trí tuệ và sự điềm tĩnh v..v.Lúc đó, tham không còn, sự ghét bỏ cũng không còn và tâm si cũng không còn, tâm của ngài tràn đầy sự định tĩnh, an lành. Tiếp theo tâm sanh ra năng lực xà và nhẫn nại được gọi là đức hạnh nhẫn nại. Hạnh nhẫn nại của Ngài giống như đất vĩ đại mà tất cả các loài, lớn, nhỏ, hữu tình hoặc vô tình đều có thể hiện hữu trên đó. Một cách tự nhiên, đất, vật thanh tịnh hay dơ bẩn như phân uế  quăng liệng trên đất, nhưng đất không bao giờ phản ứng lại. Tương tự như vậy, tâm của ngài Xá Lợi Phất vô cùng kiên định và không hề chao động bởi bất kỳ đối tượng nào do tiếp xúc lục căn.
Nhìn chung với  hành vi người đời là hành động theo ý muốn và nhiều xúc cảm khác nhau. Tôn giả Xá Lợi Phất đã không bao giờ chạy theo ý muốn nảy sinh ra mà  Ngài chỉ làm cái gì thật cần thiết, phù hợp và  thiện nghiệp mà thôi.   Ngài tránh làm những chuyện bất thiện nghiệp và không cần thiết. Ngài chỉ nói những gì cần nói, ích lợi và thiện nghiệp. Điều gì không cần thiết ngài không hề thốt ra dù là một lời. Luôn giữ chánh niệm, Ngài không bao giờ suy nghĩ lan man và bất thiện tâm.Trong suốt cuộc đời của ngài, không có trừơng hợp nào là nói năng bất cẩn hay lôi thôi. Sau đây là một số sự điều lỗi lạc của Đại Đức Sariputta.
Khi Ngài đắc Thiền Tâm Từ, trong tầng thiền ngài đã rải tâm từ cho tất cả các chúng sanh các loài. Không chỉ với thiện chí mà ngài còn bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho những ai mà ngài đi ngang qua. Chính hành động và thiện ý của ngài luôn tác động hỗ tương cho nhau.
Nói về sự khiêm tốn của Ngài Sariputta, Đức Phật đã ví  sự khiêm cung và phong cách đó như đứa con của kẻ bần cùng nghèo khổ. Chúng ta hãy quan sát gần hơn người con của kẻ bần cùng nghèo khổ đi vào thành phố khất thực thế nào. Như con của kẻ nghèo khổ bần cùng, vì lối sống của sự khốn khổ hèn hạ, cuộc sống không có ăn, không có chỗ nương thân. Ngay cả cái bát Ngài dùng cũng làm bằng tre. Tuyệt nhiên không một chút kiêu căng ngã mạn gợn lên trong tâm của Ngài, vì Ngài không hề sở hữu một cái gì để có thể tự hào tự mãn. Ngài chỉ đơn giản hiểu rằng nếu Ngài trông có vẻ kiêu căng ngã mạn hay nóng nảy thì không ai bố thí cho Ngài thức ăn hay vật dụng mà Ngài cần thế thôi.
Như đã đề cập trên, Tôn giả Sàriputta, mặc dù là con trai của một gia đình giàu có, nhưng tâm Ngài luôn nhu thuận và khiêm nhường. Từ khi bước vào đời sống xuất gia,  Ngài rèn luyện theo lối sống khiêm hạ, nhẹ nhàng, trông giống như con trai của một kẻ bần cùng nghèo khó. Ngay cả khi Ngài đi bát từ bên trong Ngài toát lên một vẻ khiêm hạ tột cùng vậy. Theo cách này, nếu như những ai đã bước vào đời sống xuất gia thì cần phải học tập thái độ và phong cách sống tốt đẹp của một bậc thánh giống như Ngài Sariputta. Đây là điều mà Đức Phật muốn nhấn mạnh đối với đời sống phạm hạnh của bậc xuất gia.
Hơn nữa, Đức Phật đã lấy ví dụ con bò đực gãy sừng. Như con bò  gãy sừng khi nó đi đó đây trong khu rừng và đồng ruộng, hoặc làng mạc hay thành phố, không làm tổn hại đến ai, cho dù bất cứ một sinh vật nào. Tương tự vậy, ngài Xá Lợi Phất với tâm từ và đầy lòng trắc ẩn, không bao giờ làm hại ai, hoặc gây đau khổ, buồn phiền cho bất cứ ai trong cả tứ oai nghi trong suốt cuộc đời của Ngài.
Trong điểm này, tôi muốn nói là Đức Phật đã nhấn mạnh yêu cầu với các vị xuất gia phải luôn quán tưởng sự chuyển hóa thân tâm này khi đã là một tỳ kheo. Điều đó có lợi lạc gì? Nếu ai quán tưởng tiến trình chuyển hóa về tứ oai nghi và các thứ sử dụng hằng ngày với tư cách là tỳ kheo, mọi cái sân và kiêu căng ngã mạn sẽ theo đó mà dần tiêu tan và diệt trừ hoàn toàn trong tâm, giải thích bởi Chú giải. Thấy trước kết quả kỳ diệu, Đức Phật đã dạy tất cả các chư tăng quán tưởng điều số một càng nhiều càng tốt là tiến trình chuyển hóa thân rõ rệt khi trở thành một tỳ kheo.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).NIEM PHAT DUONG KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/2/2014.TAM THANH.BACH LIEN HOA.

No comments:

Post a Comment