Monday 30 December 2013

Các ni trưởng thời cổ Ấn Độ.

 

Trong thuở ban sơ khi Phật giáo mới thành hình, người ta tưởng đạo Phật cũng chỉ là một hệ phái trong vô số các hệ phái khác bắt nguồn từ Bà La Môn giáo. Nói đúng ra giáo lý đạo Phật cũng đặt cơ sở trên truyền thống của Bà La Môn giáo,  mặc dù Đức Phật vẫn thường chỉ trích cách sống của các giáo sĩ Bà La Môn cũng như những lời giảng dạy của họ. Tuy nhiên khi giáo lý của Đức Phật bắt đầu được lan truyền, người ta mới thấy được rõ ràng năng lực chuyển hoá của Đạo Phật trên cuộc đời con người như thế nào.

Đạo Phật là ngọn sóng thuỷ triều dâng cao đem lại một cuộc cách mạng tôn giáo và văn hóa trong xã hội cổ đại Ấn Độ.  Cách nhìn bất bình đẳng về giai cấp, giống nòi, và  gia tộc của con người đã được đạo Phật đem ra đặt vấn đề lại.  Đao Phật dạy sự dung hòa trong một thế giới bất dung hòa, truyền bá lòng từ bi và bình đẳng đến tất cả mọi người trong một thế giới đầy những xung đột và bất công. Không ép xác khổ hạnh, nhưng cũng không buông lung phóng túng, con đường Trung đạo do Đức Phật đề ra là con đường chánh đạo của sự thấy biết chân thật. Trên hết, Tất Đạt Đa đã dạy cho chúng ta phương pháp tự giải thoát khỏi những phiền não tràn ngập trên thế gian này, phát triển một năng lực tự cứu độ trong một thời đại mà niềm tin tôn giáo chủ yếu đặt căn bản trong sự phó thác nơi định mệnh.  Triết lý nhân sinh của đạo Phật đã gây ảnh hưởng lớn, đem lại những khai phóng và chuyển biến trên phương diện xã hội và chính trị.

Các vị danh ni đầu tiên bắt đầu có từ thời Đức Phật còn tại thế. Có rất ít tài liệu về cuộc đời của họ, những gì thu thập được chính là từ những bài viết của họ, phần lớn là những bài thơ, bài kệ trong một tuyển tập gọi là Therigatha, hay là “Những bài thơ kệ của các ni trưởng”, trong đó ghi lại những bài pháp, những câu nói, những câu chuyện kể từ thời Đức Phật.

Qua những tài liệu ít oi để lại, ta có một cái nhìn thoáng qua về tính năng động và sự phát triển của tập thể ni đoàn trong thời Phật tại thế. Sau khi Đức Phật nhập diệt, cả hai tập thể tăng và ni đoàn bắt đầu hợp lại lập ra những nơi cư trú thường trực trong và ngoài các làng mạc, thành phố.  Dần dần, vị trí của các vị ni trở nên lu mờ đi trong ký lục của Phật giáo Ấn độ, và rồi hoàn toàn biến mất.  Có phải ni đoàn đã bị xóa sổ hoàn toàn trên đất Ấn độ, hay đó chỉ là những thiếu sót tài liệu lịch sử,  không ai có thể biết được.

Chương này chỉ kể lại truyện của một số danh ni điển hình trong thời Đức Phật.

 

Maha Pajapati
Cao Hạ Đệ Nhất

 

 Ấn độ có những con sông dài bắt nguồn từ những dẫy núi tuyết trùng trùng điệp điệp ở thật xa.  Từ thượng nguồn, giòng sông đi qua những con thác đổ, lặng lờ trôi theo những con suối nhỏ lạnh giá, rồi cuồn cuộn chảy qua những khe núi và thung lũng, giòng nước chảy xiết càng ngày càng trở nên thẫm mầu với những mảnh vụn cát đá cuốn theo, cho đến khi nó đổ vào những đồng bằng ở dưới.   Ở nơi  đồng bằng mênh mông con sông cũng bắt đầu mở rộng, giòng nước lạnh giá trở nên ấm áp dần, bồi lên mặt đất những phù sa cát đá mầu mỡ.  Giòng sông luân lưu đổi mới không ngừng giữa những tầu thuyền đi lại tấp nập trên mặt nước.



Mẹ của Phật, Hoàng hậu Maya, đã mất sớm ngay khi vừa sanh hạ ra ngài. Như những giòng trường giang, bà cùng người em gái là Gotami đã từ quê hương núi tuyết trên cao đi xuống đồng bằng phía dưới để về sống với vị quốc vương của thành Ca Tỳ La Vệ, một thành phố xinh tươi với những tòa nhà quét vôi mầu trắng giữa những cây lá xanh mầu. Họ được quý trọng và nuông chiều hết mực; hàng ngày họ mặc áo gấm lụa lượt là, đeo những đồ trang sức quý giá,  đi dạo trong vườn ngự uyển ngắm những con công xòe cánh rực rỡ bên bờ ao sen.



Maya lâm bồn trong một ngày đặc biệt đầy những hiện tượng lạ nhiệm mầu và rồi qua đời mấy ngày sau đó. Gotami ôm lấy đứa bé giữa tiếng reo hò vui mừng của mọi người, rồi khóc cho người chị quá  cố trong tang lễ của hoàng hậu. Sau đó Gotami đã hạ sanh con trai riêng của bà, nhưng giao con cho người vú nuôi, còn bà tự tay nuôi nấng săn sóc cho người cháu ruột, con của Maya.  Bà và nhà vua hồi hộp chờ đợi cho qua những ngày tháng bất trắc đầu tiên của đứa trẻ mới chào đời – nhưng cả hai bé đều mạnh khỏe,  không có vấn đề. Đến ngày lễ đặt tên, bà ôm trên tay đứa cháu ruột, con trai của Maya và nghe nhà vua thì thầm bên tai mấy lần  “Siddartha” (Tất Đạt Đa), có nghĩa là “toàn thịnh”, và con trai của Gotami là được gọi là “Nanda”.



Với tình thương hết mực của một người mẹ, Gotami đã tự tay chăm sóc từng miếng ăn thức uống, cho đến những áo quần, trang sức cho hai đứa bé từ những bước đầu chập chững.  Hai đứa trẻ lớn lên cùng với nhau. Khi cả hai được ba tuổi, Gotami hạ sanh một con gái đặt tên là Sundari-nanda. Sundari lúc nào cũng quấn quýt bên mẹ, trong khi hai đứa bé trai càng ngày càng xa dần, vì phải bận rộn trong việc học hành, cả về văn lẫn võ, để trở thành người lãnh đạo tài ba sau này. Lớn lên một chút, họ bắt đầu săn sóc đến bề ngoài, vẽ những vết xăm nhỏ màu đen gần mắt, tô môi đỏ, bôi dầu thơm gỗ đàn hương lên người.  Đến tuổi thanh niên, họ để râu, vấn khăn quanh đầu, lịch lãm trong những bộ trang phục sang trọng thêu chỉ vàng. Họ trở thành những vị hoàng tử trẻ có cung điện riêng biệt với nhiều cung tần mỹ nữ. Khi Tất Đạt Đa được hai mươi chín tuổi, chàng kết hôn với Yasodhara, một nàng công chúa nổi tiếng đẹp tuyệt trần.



Suốt trong những năm tháng ấy, Gotami đã biết đứa cháu trai của bà có điều gì không an ổn trong tâm.  Tính tình ít nói, trầm mặc, chàng như lúc nào cũng ở một thế giới sâu kín nào đó, ít khi nào tận hưởng hoàn toàn những thú vui trước mắt.  Và rồi bất ngờ một đêm, Tất Đạt Đa đã lặng lẽ biến mất khỏi cung điện, gởi trả về theo người Xa Nặc mớ tóc dài mới cắt và những quần áo sang trọng. Tất Đạt Đa ra đi dứt bỏ hết những luyến ái ràng buộc, ngay khi Yasodhara vừa hạ sanh đứa con trai đặt tên là Rahula La Hầu La.  Gotami đã khóc hết nước mắt, tưởng chừng như không bao giờ gặp lại đứa cháu ruột, đứa con nuôi thân yêu.



Bảy năm sau, Tất Đạt Đa trở về thành Ca Tỳ La Vệ, một con người mới hoàn toàn. Tất Đạt Đa của ngày xưa không còn nữa, bây giờ  đã trở thành một bậc Giác Ngộ,  được gọi là Đức Phật, Đức Thế Tôn.  Vua Tịnh Phạn và Gotami  cho làm lễ tiếp đón Ngài trọng thể, tuy nhiên, một số vị trưởng thượng trong bộ tộc Thích Ca vốn kiêu mạn tỏ vẻ không khâm phục.  Đức Phật quy phục họ bằng cách thị hiện thần thông, phân thân làm nước và lửa, rồi cho mưa từ trên bầu trời trong sáng rơi xuống chỉ tưới ướt một số người .  Yasodhara cho người ra cúng dường Đức Phật, nhưng không đi đón, đợi Đức Phật đích thân về đến cung điện mới bước ra cung nghinh ngài.  Tất cả mọi người đều hoan hỉ nghe Đức Phật thuyết về những chân lý đã tỏ ngộ, và dốc lòng quy y ngay theo ngài. 



Rồi Đức Phật ra đi, mang theo Nanda và người em họ là Ananda đi cùng. Rahula, lúc đó đã bảy tuổi, quyến luyến đi theo cha và ở lại với Ngài.  Pajapati lại khóc hết nước mắt, bà thấy tuổi già đang đến và cảm thấy cô đơn hơn bao giờ.  Chẳng bao lâu sau, vua Tịnh Phạn cũng băng hà,  để lại bà và Sundari-Nanda hoàn toàn lẻ loi. Cũng từ đó, Gotami càng ngày càng lãnh vai trò chỉ đạo hơn, nhất là đối với những phụ nữ yếu đuối tìm đến bà.  Do đó, bà bắt đầu được gọi là MahaPajapati, có nghĩa là “thủ lãnh của một đám đông”.



Mùa Thu đến, thời tiết bắt đầu mát dần, mặt đất cũng khô đi sau những ngày mưa dầm dề của mùa hạ. Đức Phật một lần nữa lại trở về Ca Tỳ La Vệ để tìm cách ngăn ngừa chiến tranh giữa hai bộ tộc Koliya và Thích Ca.  Pajapati, lúc đó đã phát tâm muốn xuất gia, bèn yêu cầu được diện kiến Đức Phật.  Khi ngài đưa tay ra đỡ lấy bà, người mẹ, người dì đã nuôi dưỡng ngài từ thuở ấu thơ, bà ngỏ lời cầu xin:

“Bạch Thế Tôn”, bà nói, đôi giòng lệ tuôn rơi, “xin Ngài chấp nhận cho tôi đi theo, cho hàng phụ nữ được gia nhập Tăng đoàn, sống trong khuôn khổ của Giáo Pháp.”



Ngài nhìn bà lòng đầy thương cảm, nhưng dường như có một khoảng cách xa xôi giữa hai người.  Ngài đã vượt qua mọi nỗi cô đơn của một con người, nhưng biết rằng con đường Ngài đi theo đó là một cuộc hành trình cô đơn, đầy cam go thử thách – và khi đạt được cứu cánh rồi vẫn không phải là chấm dứt, mà còn tiếp tục mãi mãi. Tuy ngài là một bậc giác ngộ, đã thành Phật nhưng vẫn là một con người, vẫn ở trong những điều kiện duyên hợp và tương đối của đời sống. “Phật Pháp không lìa thế gian giác” - giác ngộ không phải là một bảo vật quý giá để thụ đắc và nắm giữ, mà là một cái gì sinh động nơi tâm, phải được thâm nhập, khai phá, và luân chuyển với thực tại trước mắt.  Đức Phật nhận biết rõ hơn ai hết về tánh Không,  tánh bình đẳng và không phân biệt nơi vạn pháp. Nhưng với trí tuệ thấu suốt, Ngài cũng nhìn thấy sự phức tạp trong môi trường sống của con người,  với những liên hệ nhân quả chằng chịt,  và ảnh hưởng của những thói quen tập quán trong xã hội.  Tuy tánh Phật không khác,  nhưng con người sinh ra với tính khí chất khác nhau, nên được xếp đặt những vai trò khác nhau. Người nam mạnh mẽ, cương cường, nên đảm nhiệm việc gây dựng sự nghiệp, xông pha tranh đấu ngoài trường đời.  Người nữ vốn yếu mềm hơn về thể chất lẫn tinh thần, nên ở nhà lo việc tề gia nội trợ, nuôi dưỡng gia đình.  Xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ còn nặng nhiều thành kiến và giai cấp. Một phụ nữ bỏ nhà ra đi sống đời lang thang sẽ bị nhìn với con mắt đầy nghi kỵ và thiếu thiện cảm.  Trách nhiệm tinh thần đặt nặng lên vai ngài cho những sự thay đổi có tính cách cách mạng trong xã hội.

Vả lại, bà là nhũ mẫu, lại già rồi, bỏ nhà ra đi thật không thích hợp chút nào, không những thế còn phải đối đầu với biết bao nhiêu gian khổ nữa.

Ngài từ tốn nói: “Pajapati, xin người bỏ ý định đó đi. Điều đó không thể nào được đâu.”

Nhưng bà vẫn tiếp tục. “Bạch Thế Tôn, Ngài có biết là bây giờ chúng tôi hoàn toàn bơ vơ, không còn gì để nương tựa, không còn gì để luyến tiếc nữa không? Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều vô thường, giả tạm, có đó rồi mất đó. Giáo pháp Ngài tuyên giảng là con đường giải thoát mở ra cho mọi người.  Xin chấp nhận cho chúng tôi được xuất gia theo Ngài tu tập, sống cuộc đời thanh tịnh trong khuôn khổ tăng đoàn.”

“Thôi đi, người đừng nói nữa” , Ngài lại nói. “Phụ nữ phải ở lại nhà. Thế giới này sẽ ra làm sao nếu phụ nữ không ở nhà lo tề gia nội trợ?”

Bà lại năn nỉ xin mấy lần nữa, nhưng Ngài vẫn từ chối. Rồi Ngài ra đi về thành Vesali cùng với tăng đoàn, và bà bị bỏ lại đàng sau.



Cùng lúc đó, những phụ nữ càng ngày càng tìm đến Pajapati, có khi từng đoàn một, để xin được giúp đỡ và hỗ trợ, vì giờ đây họ trống trải một mình, chẳng còn chồng hay con trai - đó là không kể đám cung tần mỹ nữ trong cung ngày xưa giờ đây đã trở thành mất phương hướng.  Tất Đạt Đa trở về đã đem theo đi một số lớn những người con trai, những người chồng trong bộ tộc Thích Ca gia nhập vào tăng đoàn, khiến đám phụ nữ trở thành cô quả, sống cuộc đời như góa bụa.  Rồi chiến tranh xảy ra giữa bộ tộc Kolyans và Thích Ca, làm chết thêm nhiều người nam trong vùng.  Các góa phụ tìm đến Pajapati có đến 500 người, tất cả đều cô đơn không còn ai, chỉ còn biết nương vào nhau mà sống. 



Pajapati đã có nhiều công đức tích lũy từ nhiều quốc độ Phật trong thời quá khứ.  Khi là người đứng đầu một đội ngũ nô lệ gánh nước, bà đã săn sóc cho năm vị Bích Chi Phật. Trong một kiếp khác, bà đã cúng dường 500 vị Phật Bích Chi.  Chủng tử xa xưa đó đã khiến bà lãnh hội được ngay những lời giảng của Đức Phật.  Xuất gia không phải chỉ là một ước muốn thay đổi hoàn cảnh, mà là một chí nguyện thiết tha muốn được giải thoát khỏi vô minh phiền não, luân hồi sinh tử. Bà là người có nhiều năng lực- có sự nhất tâm, toàn ý, với một nguồn ý chí mạnh mẽ vô tận. Pajapati ngồi xuống dưới đất cạo bỏ mái tóc của mình, rồi choàng lên người những mảnh vải mầu vàng. Yasodhara, giờ đây không có chồng, cũng chẳng còn con, cũng làm theo, tiếp đó là Sundari-nanda, và một số cung phi mỹ nữ, cùng 500 người đàn bà khác đều làm như vậy. Rồi họ bắt đầu lên đường đi về hướng thành Visali.



Những làng mạc lúc ấy như những ấp chiến lược với hàng rào bao bọc chung quanh để ngăn chận những con thú dữ như hổ, voi rừng đến xâm nhập, ngay cả những kẻ xấu.  Đoàn người nữ đông đảo này đi qua nhiều làng mạc khác nhau, đôi khi nghỉ lại nơi những nhà khách, gây sự chú ý ở các địa phương, đi đến đâu dân chúng ồn ào tụ tập lại đến thăm hỏi họ.  Họ băng qua những con sông lạch, vòng qua những hồ nước, lội qua những cánh đồng đầy nước bùn lầy. Họ ngủ dưới những cây khuynh diệp và cây butô, hay dưới những bụi tre trúc, và đôi khi, họ phải lội xuống suối để giặt quần áo, gặp những con cá sấu, con tê giác đang bơi trên sông. Ngày qua ngày, họ lê từng bước chân mệt mỏi vượt qua cuộc hành trình 150 dặm, nếm mùi gian khổ chưa từng có với những mệnh phụ, những công nương cao quý sống một cuộc đời nhung lụa êm ấm từ trước tới nay.



Khi họ đến Visali, đám người đàn bà đứng trước cổng tịnh xá, Pajapati đứng phía trước, thân hình tiều tụy, quần áo rách nát lấm lem, đôi chân đất sưng vù chẩy máu với những vết trầy sướt. Cánh cổng đóng chặt, đám người nữ tủi thân, than khóc sầu thảm. Mọi người trong thành bắt đầu chú ý, đến tụ tập chung quanh.  Nghe tiếng ồn ào, Đại đức Ananda bước ra hỏi thăm:

“Lệnh Bà Pajapati, tại sao người lại đến đây khóc than như vậy?”

“Ananda, vì Đức Thế Tôn không cho phụ nữ chúng tôi được gia nhập tăng đoàn! Xin hãy giúp chúng tôi, nói dùm với Đức Thế Tôn chấp nhận chúng tôi đi!”

Nhìn Pajapati khóc lóc thảm thiết, Ananda động lòng thương xót, vào gặp Phật năn nỉ xin ba lần, cố tìm cách thuyết phục ngài chấp nhận cho họ được xuất gia, nhưng Đức Phật vẫn nhất mực từ chối.  Cuối cùng, Ananda hỏi Phật:

-       Bạch Thế Tôn, người nữ có khả năng giác ngộ, thành tựu đạo quả không, nếu họ cũng từ bỏ đời sống thế tục mà xuất gia sống khép mình trong khuôn khổ của giáo pháp và giới luật mà Ngài đã đề ra?

Phật trả lời rằng người nữ có khả năng làm được.

Ananda nghe vậy cảm thấy khích lệ, bèn bồi thêm:

-       Bạch Thế Tôn, theo như Ngài nói người nữ có khả năng tu tập để thành tựu đạo quả, như vậy thì lệnh bà Pajapati cũng có thể làm được điều đó. Vả lại, bà đã có công nuôi dưỡng Ngài từ nhỏ bằng chính sữa của mình, đã chăm lo cho ngài với biết bao nhiêu ân tình. Nay bà đã từ bỏ tất cả, không kể tuổi già sức yếu chịu bao gian khổ để đến đây,  lẽ nào Ngài nỡ lòng nào từ chối ? Nếu Thế Tôn chấp nhận bà thì đó cũng là một đại hạnh cho nữ giới được có cơ hội xuất gia theo tăng đoàn, sống trong khuôn khổ giáo pháp và giới luật mà Đức Như Lai đã tuyên dương.  



            Với những lời nói tâm lý đó, Ananda đã thuyết phục được Đức Phật. Ngài đành phải chấp nhận cho Mahapajapati và phái đoàn phụ nữ được xuất gia, với điều kiện phải tuân theo Tám Giới Chánh, trong đó tỳ kheo ni phải hoàn toàn chịu phục tùng và ở vị trí thấp hơn tỳ kheo, dù đó là người nhỏ hơn rất nhiều.



            Giới luật của tăng đoàn khởi đầu chỉ có bốn giới, dần dần qua những lỗi lầm các đệ tử đã phạm, Đức Phật tăng lên càng ngày càng nhiều. Khi chấp nhận Mahajapati,  Ngài còn đặt thêm 84 điều luật nghiêm ngặt riêng cho các tỳ kheo ni, ngoài 277 giới luật có sẵn.  Đức Phật có bất công đối với nữ giới hay không? Làm sao chúng ta, với tầm nhìn hạn hẹp, có thể phán đoán được hành vi của một vị Phật, một bậc giác ngộ đã vượt khỏi những phân biệt đối đãi thường tình? Có điều chắc chắn là,  tầm nhìn của ngài không phải chỉ hạn hẹp với những gì trước mắt, mà bao trùm một tương lai dài rộng, cho đến nhiều thế kỷ về sau.  Theo tiên đoán của Ngài,  giáo pháp của Đức Thích Ca sẽ bị diệt vong sớm 500 năm, nếu nữ giới được xuất gia và sống trong khuôn khổ tăng đoàn.  Thiên cơ như thế nào,  có lẽ chỉ có Đức Phật  mới biết  được.  Ngài đã cố tìm cách ngăn chận không để cho điều ấy có thể xảy ra – tuy nhiên, khi không còn có thể từ chối được Mahapajapati, ngài chỉ còn cách cứu vãn bằng những hàng rào cản của giới luật.



            Tất cả những giới luật Đức Phật đặt ra đó không làm suy suyển Mahapajapati.  Từ nhiều kiếp trước bà đã có cơ duyên gặp gỡ những vị Phật và đã phát nguyện một ngày nào đó cũng sẽ trở thành một vị A La Hán.  Nay nhân duyên đã đến, tâm nguyện xưa càng kiên cố hơn bao giờ hết, không gì có thể làm cản trở được.  Bà nói lớn: “Được rồi! Tôi sẽ chấp nhận và giữ gìn những giới luật này như đang đeo một vòng hoa sen quý trên đầu vậy!”



            Thế là từ đó, bộ mặt của các đường phố trong vùng thay đổi với hình bóng những tỳ kheo ni trong chiếc áo vàng, đầu cạo trọc, ngày ngày đi khất thực quanh các làng mạc.  Họ chia ra từng cặp, có khi từng nhóm, ở trong những mái nhà tranh vách đất.  Một số ít còn ở một mình trong rừng, ngủ dưới các tàng cây như phái nam. Họ chấp nhận sống cuộc đời kham khổ, tuân thủ theo những giới luật nghiêm khắc do Đức Phật đặt ra.



            Ngày xưa, Gotami đã bế ẵm, ân cần nuôi nấng, dạy dỗ Tất Đạt Đa, ngày nay, bà học lại từ Ngài những chân lý cao siêu giải thoát. Phật dạy:

            “Này Gotami, nếu pháp môn nào đưa đến khát vọng mong cầu, ngã mạn, ưa thích chốn phồn hoa náo nhiệt, không làm cho an vui, không gợi lên niềm tôn kính, không làm cho tinh tấn và có trí tuệ đạo hạnh, pháp môn ấy không phải là Chánh Pháp, không phải là Giới Luật của Như Lai.

            Còn bất luận pháp môn nào không đưa đến khát vọng mong cầu, không ngã mạn, làm cho an vui, ưa thích nơi yên tĩnh thanh tịnh, gợi lên niềm tôn kính, làm cho tinh tấn và có trí tuệ đạo hạnh, thì đó đúng là Chánh Pháp, là Giới Luật của Như Lai. “



            Gotami tận dụng mọi cơ hội để  tu học với Đức Phật, nhất tâm tọa thiền, chẳng bao lâu chứng được đạo  quả A La Hán. Các mệnh phụ dòng Thích Ca cùng xuất gia với bà cũng đều được đắc quả như vậy. Nhưng trong hàng nữ đệ tử của Phật, bà được liệt vào hàng “Cao Hạ Đệ Nhất”  với khả năng vượt trội, đạt được sự chứng ngộ sâu xa nhất.  Bà trình lên Đức Phật:  “Nay tôi ở trong không lặng hoàn toàn” – sự không lặng của trạng thái Niết Bàn tịch tịnh trong thiền định.  Nhìn lại đoạn đường đã trải qua từ vô số kiếp, bà nói kệ như sau:

              Từ bao kiếp nay

              Tôi đã lang thang

              Là vợ, là mẹ, là con,

              Là cha, là anh, là ông nội, ông ngoại

             Trong vô minh, không biết, không hiểu

             Nay được gặp Thế Tôn

             Tất cả đều đoạn diệt

             Thân này là thân cuối cùng

             Sanh tử sẽ không còn trở lại!

 

Vài năm sau đó Bà thỉnh cầu Đức Phật cho điều chỉnh lại giới luật để được bình đẳng hơn giữa nam và nữ tỳ kheo, nhưng Ngài  đã cương quyết từ chối.

 

Pajapati sống đến 120 tuổi.  Một ngày nọ,  thấy trong người yếu mệt, biết duyên trần đã dứt, Bà xin Đức Phật cho Bà được nhập diệt.  Lúc đó mặt đất rung chuyển dữ dội, trời mưa như trút nước -  mưa như nước mắt khóc thương của những người ở lại.  Đức Phật đến, chứng minh cho bà được nhập Niết Bàn. 

 

Lúc ấy, những hiện tượng lạ xảy ra – Gotami tự phân ra thành nhiều thân, hòa vào trong hư không, bay bồng bềnh,  lướt trên ngọn cây, tỏa năng lượng đầy sức nóng. Rồi Bà nằm xuống, vượt qua các tầng thiền sâu kín trong tiến trình nhập diệt, như một vị Phật.

 

Hoa trời lả tả rơi, các ngọn núi đều chuyển động, và trong ngày tang lễ,  mặt trời, trăng và sao đồng xuất hiện một lúc.  Sau lễ trà tỳ, xá lợi của Bà để lại nhiều vô số, được Ananda gom lại đem giao cho Đức Phật.

 

Ngài nói: “Pajapati là một thân đại thụ trong cây của Ni Đoàn.” HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/12/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment