Đại Trí
Độ Luận
(Mahàprajnàparamitàsatra) - Tác giả: Nàgàrjuna (Long Thọ)
Dịch Phạn ra Hán: Cưu Ma
La Thập - Dịch Hán ra Việt: Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam Ấn hành 1997
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam Ấn hành 1997
|
Tập 5
Cuốn 86
Giải thích: Phẩm Biến Học Thứ 74
Kinh: Bấy giờ Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, Bồ Tát thành tựu đại trí tuệ hành pháp sâu xa ấy cũng
không thọ quả báo.
Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như
vậy, Bồ Tát thành tựu đại trí tuệ, hành Bồ Tát sâu xa ấy, cũng không thọ quả
báo, vì sao? Vì Bồ Tát ấy dối với các pháp chẳng động.
Bạch Đức Thế Tôn, đối với các
pháp gì chẳng động?
Phật dạy: Đối với pháp tính
không có sở hữu bất động.
*Lại nữa, Bồ Tát đối với tính
sắc bất động, đối với tính thọ, tưởng, hành, thức bất động, đối với tính Thí Ba
la mật cho đến Bát nhã ba la mật tính bất động; đối với tính bốn thiền bất động,
tính bốn tâm vô lượng bất động, tính bốn định vô sắc bất động, tính bốn niệm xứ
bất động cho đến tính tám phần thánh đạo bất động, đối với Không tam muội, Vô
tướng, Vô tác tam muội cho đến tính đại từ đại bi bất động, vì sao? Vì tính các
pháp ấy chính là không có sở hữu, vì pháp không có sở hữu không thể được pháp có
sở hữu.
Tu Bồ Đề thưa: Pháp có sở hữu có
thể được pháp có sở hữu chăng?
Phật dạy: Không.
Bạch Đức Thế Tôn, pháp có sở hữu
có thể được pháp không có sở hữu chăng?
Phật dạy: Không.
Bạch Đức Thế Tôn, pháp không có
sở hữu có thể được pháp không có sở hữu chăng?
Phật dạy: Không.
Bạch Đức Thế Tôn, nếu không có
sở hữu, không thể được pháp có sở hữu, pháp có sở hữu không thể được pháp không
có sở hữu, pháp có sở hữu không thể được pháp không có sở hữu, pháp không có sở
hữu không thể được pháp không có sở hữu, vậy sẽ không có Thế Tôn, không được đạo
ư?
Phật dạy: Có được, nhưng không
do bốn câu được.
Bạch Thế Tôn, thế nào là
được?
Phật dạy: Chẳng phải có sở hữu,
chẳng phải không có sở hữu, không có các hí luận ấy, ấy gọi là đắc
đạo.
Bạch Đức Thế Tôn, những gì là
pháp hí luận của Bồ Tát?
Phật dạy: Bồ Tát quán sắc hoặc
thường hoặc vô thường, ấy là hí luận; quán thọ, tưởng, hành thức hoặc thường
hoặc vô thường, ấy là hí luận; quán sắc hoặc khổ hoặc vui, thọ, tưởng, hành,
thức hoặc khổ hoặc vui, ấy là hí luận; quán sắc hoặc ngã hoặc phi ngã, thọ,
tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc phi ngã; sắc hoặc tịch diệt hặc chẳng tịch diệt,
thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch diệt hoặc chẳng tịch diệt, ấy là hí luận. Quán
khổ Thánh đế ta nên thấy, tập thánh đế ta nên đoạn, diệt thánh đé ta nên chứng,
đạo thánh đế ta nên tu, ấy là hí luận; ta nên tu bốn thiền, bốn tâm vô lượng,
bốn định vô sắc, ấy là hí luận; ta nên tu bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý
túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám phần thánh đạo, ấy là hí luận; ta nên
tu môn giải thoát không, môn giải thoát vô tướng, môn giải thoát Vô tác, ấy là
hí luận; ta nên tu tám bội xả, định chín thứ lớp, ấy là hí luận; ta nên vượt qua
quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, đạo Bích Chi Phật, ấy
là hí luận; ta nên đầy đủ mười địa của Bồ Tát, ấy là hí luận; ta nên vào Bồ Tát
vị, ấy là hí luận; ta nên nghiêm tịnh cõi Phật, , ấy là hí luận; ta nên thành
tựu tuệ giác cho chúng sinh, , ấy là hí luận; ta nên sinh mười lực của Phật, bốn
điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung, , ấy là hí luận;
ta nên được trí Nhất thiết chủng, , ấy là hí luận; ta nên dứt hết thảy phiền não
tập khí, ấy là hí luận. Này Tu bồ đề, Bồ Tát khi hành Bát nhã ba la mật sắc hoặc
thường hoặc vô thường không thể hí luận nên không nên hí luận; thọ, tưởng, hành
thức, hoặc thường hoặc vô thường không thể hí luận nên không nên hí luận, cho
đến trí Nhất thiết chủng không thể hí luận nên không nên hí luận, vì sao? Vì
tính không thể hí luận tính, vô tính không thể hí luận vô tính; tính lìa, tính
không có, lại không có pháp có thể nắm bắt được. Hí luận là hí luận pháp, hí
luận chỗ, vì thế nên sắc không có hí luận, thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí
Nhất thiết chủng không có hí luận. Như vậy, Bồ Tát nên hành Bát nhã ba la mật
không có hí luận.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, vì sao? Sắc không thể hí luận cho đến trí Nhất thiết chủng không
thể hí luận?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Vì tính sác
không có cho đến trí Nhất thiết chủng tính không có, như tính pháp không có tức
là không có hí luận, vì thế nên sắc không thể hí luận. Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát
hành Bát nhã không hí luận được như thế, khi ấy được vào Bồ Tát vị.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, nếu tính các pháp không có, thì Bồ Tát hành đạo gì được vào Bồ Tát
vị? Hành đạo Thanh văn, hành đạo Bích Chi Phật hay hành Phật đạo?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Không do đạo
Thanh văn, không do đạo Bích chi Phật, không do Phật đạo được vào Bồ Tát vị; mà
Bồ Tát học khắp các đạo được vào Bồ Tát vị. Thí như hàng Bát nhân trước học các
đạo sau đó mới vào chính vị, chưa được quả mà trước sinh đạo quả; Bồ Tát cũng
như vậy, trước học khắp các đạo tiếp sau vào Bồ Tát vị, cũng chưa được trí Nhất
thiết chủng mà trước được sinh tam muội Kim cang, bấy giờ do một niệm tương ưng
với trí tuệ, được trí Nhất thiết chủng.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, nếu Bồ Tát học khắp các đạo mà vào Bồ Tát vị, thời hạng người Bát
nhân hướng đến Tu đà hoàn, được Tu đà hoàn, hướng đến Tư đà hàm, được Tư đà hàm,
hướng đến A na hàm, được A na hàm, hướng đến A la hán, được A la hán, Bích chi
Phật đạo, Phật đạo, mà các đạo ấy mỗi mỗi khác nhau? Nếu Bồ Tát học khắp các đạo
ấy sau vào Bồ Tát vị thì Bồ Tát ấy nếu sinh Bát đạo thời lên làm hạng Bát nhân,
nếu phát sinh Kiến đạo thời làm Tu đà hoàn, nếu phát sinh Tư duy đạo thời nên
làm Tu đà hàm, A na hàm, A la hán; nếu phát sinh Bích chi Phật đạo thời làm Bích
Chi Phật? Bạch Đức Thế Tôn, nếu Bồ Tát làm hạng Bát nhân sau đó mới vào Bồ Tát
vị, thì lẽ ấy không thể có? Không vào Bồ Tát vị mà được trí Nhất thiết chủng
cũng không thể có? Làm Tu đà hoàn cho đến Bích chi Phật, vậy sau mới vào Bồ Tát
vị cũng không có lẽ ấy? Không vào Bồ Tát vị mà được trí Nhất thiết chủng cũng
không có lẽ ấy? Bạch Đức Thế Tôn, con làm sao biết Bồ Tát học khắp các đạo được
vào Bồ Tát vị?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như
vậy, nếu Bồ Tát làm hạng Bát nhân được quả Tu đà hoàn cho đến được quả A la hán,
được đạo Bích chi Phật, sau đó vào Bồ Tát vị, thì không thể có lẽ ấy, không vào
Bồ Tát vị mà được trí Nhất thiết chủng, thì không có lẽ ấy. Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ
Tát từ khi mới phát tâm, tu sáu Ba la mật, nhờ trí quán sát mà vượt qua tám địa
là Càn huệ đĩa, Tánh địa, Bát nhân địa, Kiến địa, Bạt địa, Ly dục địa, Dĩ biện
địa, Bích chi Phật địa, nương Đạo chủng trí mà vào Bồ Tát vị. Vào Bồ Tát vị rồi
nhờ trí Nhất thiết chủng mà dứt hết thảy phiền não và tập khí. Ở Bát nhân địa
hoặc trí, hoặc đoạn là Bồ Tát vô sinh pháp nhẫn; ở Tu đà hoàn hoặc trí (trí biết
khổ đế - ND) hoặc đoạn (đoạn trừ tập đế - ND); Tư đà hàm hoặc trí hoặc đoạn, A
na hàm trí hoặc đoạn, A la hán hoặc trí hoặc đoạn, Bích chi Phật trí hoặc đoạn
đều là Bồ Tát nhẫn. Bồ Tát học Thanh văn, Bích chi Phật. Như vậy, nương đạo
chủng trí mà vào Bồ Tát vị; vào Bồ Tát vị rồi nương trí Nhất thiết chủng mà dứt
hết thảy phiền não và tập khí, được Phật đạo. Như vậy, Bồ Tát học khắp các đạo
đầy đủ nên được Vô thượng chánh đẳng chánh giác; được Vô thượng chánh đẳng chánh
giác rồi đem kết quả lợi ích chúng sinh.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, Thế Tôn nói đạo: Đạo Thanh văn, đạo Bích chi Phật, Phật đạo, thế
nào là đạo chủng trí của Bồ Tát?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Bồ Tát nên
sinh trí thanh tịnh về hết thảy đạo chủng. Thế nào là trí thanh tịnh về hết thảy
đạo chủng? Là nếu các pháp có tướng mạo có thể hiển bày, thì Bồ Tát nên biết
đúng đắn; biết đúng đắn rồi, vì người khác diễn nói, khai thị khiến được hiểu
rõ. Bồ Tát nên hiểu hết thảy âm thanh, ngôn ngữ; dùng âm thanh, ngôn ngữ ấy
thuyết pháp lan khắp thế giới đại thiên ba ngàn như tiếng vang. Vì thế nên Bồ
Tát nên trước hết học đầy đủ hết thảy đạo. Đạo trí đầy đủ rồi thì nên phân biệt
tâm sâu xa của chúng sinh: Hoặc chúng sinh địa ngục, đường địa ngục, nhân địa
ngục, quả địa ngục, nên biết, nên ngăn trừ; phân biệt biết súc sinh, nhân súc
sinh, quả súc sinh, nhân ngạ quỉ, quả ngạ quỷ, đường ngạ quỉ, nên biết, nên ngăn
trừ; các rồng, quỷ thần, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân và quả A
tu la đạo nên biết, nên ngăn trừ; nhân và quả của nhân đạo nên biết; nhân và quả
của tiên đạo nên biết; nhân và quả của trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đâu
suất đà, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm thiên, trời Quang Âm, trời
Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Vô tường, trời A bà la ha, trời Vô nhiệt, trời
Dị kiến, trời Hỷ kiến, trời A ca nị sắc nên biết; nhân và quả của Vô biên hư
không xứ, vô biên thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng Phi vô tường xứ đạo nên
biết; nhân và quả của bốn niệm xứ, bốn chánh càn, bốn như ý túc, năm căn, năm
lực, bảy giác phần, tám phần thánh đạo nên biết; nhân và quả của Không giải
thoát môn, Vô tướng, Vô tác giải thoát môn, mười lực của Phật, bốn điều không
sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung, đại từ đại bi nên biết. Bồ
Tát do các đạo ấy khiến chúng sinh vào đạo Tu đà hoàn cho đến đạo Bích chi Phật,
đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ấy gọi là đạo chủng trí thanh tịnh của Bồ
Tát. Bồ Tát học đạo chủng trí ấy rồi vào tâm sâu xa của chúng sinh; vào rồi theo
tâm sâu xa của chúng sinh mà thuyết pháp thích hợp, lời nói không hư dối, vì
sao? Vì Bồ Tát ấy khéo biết căn tính của chúng sinh, biết tâm tâm số pháp của
chúng sinh trong đường sinh tử. Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên hành đạo Bát nhã ba la
mật như vậy, vì sao? Vì hết thảy thiện pháp trợ đạo đều vào trong Bát nhã. Các
Bồ Tát, Thanh văn, Bích chi Phật nên thực hành.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, nếu bốn niệm xứ cho đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác là hết thảy
pháp đều không hợp không tán, không sắc, không hình, không đối, chỉ là một tướng
tức vô tướng, thì làm sao do pháp trợ đạo ấy có thể thủ chứng Vô thượng chánh
đẳng chánh giác? Bạch Đức Thế Tôn, pháp một tướng, không tướng, không hợp, không
tán, không sắc, không hình, không đối ấy không có gì lấy, không gì bỏ, như hư
không không lấy không bỏ.
Phật dạy: Như vậy, như vậy, các
pháp tự tính không, không có gì lấy, không có gì bỏ; vì chúng sinh không biết tự
tính các pháp không, nên vì họ mà khai thị pháp trợ đạo, có thể thủ chứng Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
*Lại nữa, sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, Thí Ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật, nội không, ngoại không cho đến vô
pháp hữu pháp không, sơ thiền cho đến Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, bốn niệm xứ
cho đến tám phần thánh đạo, ba môn giải thoát, tám bội xả, định chín thứ lớp,
mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không
chung, đại từ đại bi, trí Nhất thiết chủng, các pháp ấy ở trong Thánh pháp đều
không hợp, không tán, không sắc, không hình, không đối, chỉ là một tướng tức vô
tướng. Vì theo pháp thế tục nên vì chúng sinh giảng nói, làm cho hiểu rõ, chứ
chẳng phải theo đệ nhất nghĩa. Này Tu Bồ Đề, đối với hết thảy pháp ấy, Bồ Tát
nên dùng trí thấy pháp như thật mà học; học xong phân biệt các pháp nên dùng hay
không nên dùng.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn,
Bồ Tát phân biệt những pháp gì rồi nên dùng, hay không nên dùng?
Phật dạy: Pháp Thanh văn, Bích
chi Phật phân biệt biết không nên dùng, trí Nhất thiết chủng phân biệt biết nên
dùng. Như vậy, Bồ Tát đối với Thánh pháp nên học Bát nhã ba la mật.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, thế nào gọi là Thánh pháp, Thánh pháp gồm những gì?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Pháp Thanh
văn, Bích chi Phật, Bồ Tát và Phật với tham dục, sân giận, ngu si không hợp,
không tán, dục nhiễm, sân giận không hợp, không tán; sắc nhiễm, vô sắc nhiễm,
trạo cử, kiêu mạn, vô minh không hợp, không tán; sơ thiền cho đến đệ tứ thiền
không hợp, không tán, từ bi hỷ xả, hư không xứ cho đến Phi hữu tưởng Phi vô
tưởng xứ không hợp, không tán; bốn niệm xứ cho đến tám phần thánh đạo không hợp,
không tán; nội không cho đến đại bi, tánh hữu vi, tánh vô vi không hợp, không
tán, vì sao? Vì hết thảy pháp đều không sắc, không hình, không đối, vì là một
tướng tức vô tướng. Pháp không sắc với pháp không sắc không hợp không tán; pháp
không hình với pháp không hình không hợp không tán; pháp không đối với pháp
không đối, không hợp không tán; pháp một tướng với pháp một tướng không hợp,
không tán; pháp vô tướng với pháp vô tướng không hợp, không tán. Này Tu Bồ Đề,
Bát nhã ba la mật nhất tướng vô tướng, không sắc, không hình, không đối ấy, các
Bồ Tát nên học; học rồi không thủ đắc các pháp tướng.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, Bồ Tát không học tướng sắc ư? Không học tướng thọ, tưởng, hành,
thức chăng? Không học tướng mắt cho đến tướng ý? Không học tướng sắc cho đến
tướng pháp? Không học tướng địa chủng cho đến tướng thức chủng? Không học Thí Ba
la mật cho đến Bát nhã ba la mật? Không học tướng nội không cho đến tướng vô
pháp hữu pháp không? Không học tướng sơ thiền cho đến tướng đệ tứ thiền? Không
học tướng từ bi hỷ xả? Không học tướng vô biên không, cho đến tướng Phi hữu
tưởng Phi vô tưởng? Không học tướng bốn niệm xứ, cho đến tướng tám phần thánh
đạo? Không học tướng Không tam muội, Vô tướng Vô tác tam muội? Không học tướng
tám bội xả, định chín thứ lớp? Không học tướng mười lực của Phật, bốn điều không
sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung, đại từ đại bi? Không học
tướng Khổ thánh đế, Tập, Diệt đạo thánh đế? Không học tướng thuận quán, nghịch
quán mười hai nhân duyên? Không học tướng hữu tính, vô vi tính? Bạch Đức Thế
Tôn, nếu không học tướng các pháp ấy, Bồ Tát làm sao học tướng các pháp hoặc hữu
vi hoặc vô vi; học xong vượt qua địa vị Thanh văn, Bích chi Phật? Nếu không học
quá địa vị Thanh văn, Bích chi Phật làm sao vào địa vị Bồ Tát? Nếu không vào địa
vị Bồ Tát, làm sao được trí Nhất thiết chủng? Nếu không được trí Nhất thiết
chủng làm sao Chuyển pháp luân? Nếu không Chuyển pháp luân, làm sao đem đạo ba
thừa độ chúng sinh?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu tướng các
pháp thật có thời Bồ Tát nên học tướng ấy; song vì tướng các pháp thật không,
không sắc, không hình, không đối, chỉ là một tướng tức vô tướng; vì thế nên Bồ
Tát không học tướng, không học vô tướng, vì sao? Vì có Phật hay không có Phật,
một tướng của các pháp, tính vẫn thường trú.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, nếu hết thảy các pháp chẳng có tướng chẳng phải không có tướng thời
Bồ Tát làm sao tu Bát nhã ba la mật? Nếu không tu Bồ Tát thời không thể vượt quá
địa vị Thanh văn, Bích chi Phật? Nếu không vượt quá địa vị Thanh văn, Bích chi
Phật thời không thể vào địa vị Bồ Tát? Nếu không vào địa vị Bồ Tát thời không
được vô sinh pháp nhẫn? Nếu không được vô sinh pháp nhẫn thời không thể được Bồ
Tát thần thông? Nếu không được Bồ Tát thần thông thời không thể nghiêm tịnh cõi
Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sinh? Nếu không nghiêm tịnh cõi Phật, thành
tựu tuệ giác cho chúng sinh thời không thể được trí Nhất thiết chủng? Nếu không
được trí Nhất thiết chủng thời không thể chuyển pháp luân? Nếu không chuyền pháp
luân thời không thể làm cho chúng sinh được Tu đà hoàn quả cho đến đạo Bích chi
Phật, Bồ Tát; cũng không thể làm cho chúng sinh được phước bố thí, được phước
trì giới, tu định?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như
vậy, các pháp vô tướng chẳng phải một tướng, chẳng phải hai tướng, nếu tu vô
tướng là tu Bát nhã ba la mật.
Tu Bồ Đề bạch: Làm sao tu vô
tướng là tu Bát nhã ba la mật?
Phật dạy: Tu các pháp hư hoại là
tu Bát nhã ba la mật.
Bạch Đức Thế Tôn, làm sao tu các
pháp hư hoại là tu Bát nhã ba la mật?
Phật dạy: Tu sắc hư hoại là tu
Bát nhã ba la mật, tu thọ, tưởng, hành, thức hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý Ba la mật hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu sắc,
thanh, hương, vị, xúc pháp hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu quán bất tịnh hư
hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền h hoại
là tu Bát nhã ba la mật; tu từ bi hỷ xả hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu bốn
định vô sắc hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
niệm giới, niệm thí xả, niệm thiên, niệm diệt, niệm hơi thở hư hoại là tu Bát
nhã ba la mật; tu tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng không, tướng
tập, tướng nhân, tướng sinh, tướng duyên, tướng đóng, tướng diệt, tướng diệu,
tướng xuất, tướng đạo, tướng trắng, tướng dấu tích, tướng lìa hư hoại là tu Bát
nhã ba la mật; tu mười hai nhân duyên hư hoại, tướng ngã, tướng chúng sinh, thọ
giả, cho đến tướng kẻ biết kẻ thấy hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu tướng
thường, tướng vui, tướng tịnh, tướng ngã hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu bốn
niệm xứ cho đến tám phần thánh đạo hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu Không, Vô
tác, Vô tướng tam muội là tu Bát nhã ba la mật; tu tám bội xả, định chín thứ lớp
hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu tam muội có giác có quán, tam muội không
giác có quán, tam muội không giác không quán hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu
khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế, đạo thánh đế hư hoại là tu Bát nhã ba
la mật; tu khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí hư hoại là tu Bát nhã ba la mật;
tu tận trí, vô sinh trí là tu Bát nhã ba la mật; tu pháp trí, tỷ trí, thế trí,
tha tâm trí hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu Thí Ba la mật cho đến Bát nhã ba
la mật hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu nội không, ngoại không, nội ngoại
không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa nghĩa không, hữu vi không, vô vi
không, tất cảnh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, chư háp không, tự
tướng không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp
không hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ,
bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung hư hoại là tu Bát nhã ba la mật;
tu quả Tu đà hoàn cho đến quả A la hán, đạo Bích Chi Phật hư hoại là tu Bát nhã
ba la mật; tu Nhất thiết trí hư hoại là tu Bát nhã ba la mật; tu dứt hết thảy
phiền não tập khí hư hoại là tu Bát nhã ba la mật.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
đức Thế Tôn, sao gọi là tu sắc hư hoại cho đến tu đoạn hết thảy phiền não tập
khí hư hoại là tu Bát nhã ba la mật?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Bồ Tát khi
hành Bát nhã ba la mật không nghĩ đến có sắc pháp, ấy là tu Bát nhã ba la mật;
không nghĩ đến có thọ, tưởng, hành, thức cho đến không nghĩ đến có dứt hết thảy
phiền não tập khí, ấy là tu Bát nhã ba la mật, vì sao? Vì có pháp để nghĩ tới,
là không tu Bát nhã ba la mật. Này Tu Bồ Đề, có pháp để nghĩ tới là không tu Thí
Ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật, vì sao? Vì người ấy chấp trước pháp, không
hành Thí Ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật. Chấp trước như vậy là không có
giải thoát, không có đạo, không có Niết bàn; có pháp để nghĩ tới là không tu bốn
niệm xứ, cho đến tám phần thánh đạo, không tu Không tam muội cho đến trí Nhất
thiết chủng, vì sao? Vì người ấy chấp trước pháp.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, thế nào là có pháp? Thế nào là không có pháp?
Phật ba Tu Bồ Đề: Hai là có
pháp, chẳng hai là không có pháp.
Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là
hai?
Phật dạy: Tướng sắc là hai,
tướng thọ, tưởng, hành, thức là hai, tướng mắt cho đến tướng ý là hai; tướng sắc
cho đến tướng pháp là hai, tướng Thí Ba la mật cho đến tướng Phật, tướng Vô
thượng chánh đẳng chánh giác; tướng hữu vi, vô vi là hai. Này Tu Bồ Đề, hết thảy
tướng đều là hai, hết thảy hai đều là có pháp; thích ứng với có pháp là có sinh
tử, thích ứng với có sinh tử là không được xa lìa sinh già bệnh chết ưu bi khổ
não. Vì nhân duyên ấy nên biết người chấp hai tướng thời không có Thí Ba la mật
cho đến Bát nhã ba la mật; không có đạo, không có quả, cho đến không có thuận
nhẫn, huống gì thấy tướng sắc cho đến thấy tướng trí Nhất thiết chủng! Nếu không
tu đạo làm sao được quả Tu đà hoàn cho đến quả A la hán, đạo Bích chi Phật, Vô
thượng chánh đẳng chánh giác và dứt hết thảy phiền não tập khí?
Luận: Phật nói Bồ Tát hành sáu
Bát nhã ba la mật, không thọ quả báo thế gian, Tu Bồ Đề tán thán việc ấy chưa
từng có, bạch Phật rằng: Bồ Tát ấy thành tựu đại trí tuệ, tu hành pháp sâu xa,
tạo tác nhân mà không thọ quả. Bồ Tát ấy vì làm lợi lớn cho chúng sinh nên không
thọ quả báo nhỏ. Phật chấp thuận ý ấy, lại tự nói nhân duyên: Bồ Tát đối với các
pháp tính không lay động. Tính các pháp là không có sở hữu, rốt ráo không, Như,
pháp tính, thật tế, Bồ Tát định tâm an trú trong ấy, không lay động.
Tu Bồ Đề hỏi: Đối vói những tính
gì không lay động?
Phật đáp: Đối với tính sắc không
lay động, cho đến đối với tính đại từ đại bi... vì sao? Vì tính các pháp là do
nhân duyên sinh, không tự tại, không có định tướng; không có định tướng nên
không có sở hữu. Các pháp là sắc pháp... nhân sắc pháp ấy nên nói vô vi. Thế nên
pháp vô vi cũng không có sở hữu, vì sao? Vì không thể dùng pháp không có sở hữu
mà thủ đắc pháp sở hữu.
Tu Bồ Đề thưa: Nếu không có sở
hữu, không thể thủ đắc pháp sở hữu, vậy há có thể dùng pháp có sở hữu thủ đắc
pháp có sở hữu ư?
Phật đáp: Không, vì sao? Vì pháp
không có sở hữu được hết thảy thánh nhân xưng tán, an trú, còn không thể có sở
đắc, huống gì pháp có sở hữu!
Tu Bồ Đề thưa: Pháp có sỡ hữu
thủ đắc pháp không có sở hữu chăng?
Phật đáp: Khong, vì sao? Vì có
sở hữu, không có sở hữu đều có lỗi, cho nên Phật đáp không.
Tu Bồ Đề thưa: Có thể dùng pháp
không có sở hữu thủ đắc pháp không có sở hữu chăng? Phật đáp: Không, vì sao? Vì
pháp có sở hữu có tướng sinh, tướng trụ là pháp hư dối, còn không có sở đắc,
huống gì pháp không có sở hữu từ xưa lại đây rốt ráo không mà lại có sở
đắc!
Tu Bồ Đề lại hỏi: Nếu dùng cả
bốn câu đều không có sở đắc, thời sẽ không có đạo, không đắc quả ư?
Phật đáp: Thật có đắc đạo, nhưng
chỉ không dùng bốn câu ấy, vì sao? Vì bốn câu đều có lỗi như trên; nếu lìa bốn
câu hí luận ấy tức là đạo.
Lại hỏi: Thế nào là tướng Bồ Tát
hí luận?
Phật đáp: Sắc hoặc thường hoặc
vô thường... là Bồ Tát hí luận, vì sao? Vì nếu thường thời chẳng sinh chẳng
diệt, không có tội phước, tốt xấu; nếu vô thường cũng không đúng, vì sao? Vì
nhân thường mà nói vô thường. Thường đã không thể có được, huống gì vô
thường!
*Lại nữa, nếu vô thường chắc
chắn là định tướng của sắc, thời không thể có nghiệp nhân duyên quả báo, vì sao?
Vì sắc pháp... niệm niệm diệt mất. Nếu nghiệp nhân duyên và quả báo diệt mất
thời không gọi là tướng vô thường? Các nhân duyên như vậy nên vô thường chẳng
phải là thật tướng của sắc pháp... như đã phá ở trong phẩm Vô thường trước. Cho
đến nghĩ rằng: Ta sẽ dứt hết thảy phiền não tập khí, cũng là hí luận. Sắc
pháp... không thể hí luận, mà phám phu hí luận các pháp, còn Bồ Tát đối với pháp
không thể hí luận, tùy theo pháp không hí luận, vì sao? Vì tự tính không thể hí
luận tự tính, vì sao? Vì tính do nhân duyên sinh, chỉ có giả danh, làm sao có
thể hí luận? Nếu tính không thể hí luận, huống gì vô tính? Lìa tính và vô tính,
lại không có pháp thứ ba có thể hí luận? Hí luận là: Hí luận pháp, hí luận nơi
chỗ, pháp ấy đều không thể có được. Này Tu Bồ Đề, sắc pháp... là tướng không thể
hí luận. Như vậy, Bồ Tát nên tu Bát nhã ba la mật không hí luận.
*Lại nữa, Phật tự nói nhân duyên
không thể hí luận: sắc pháp... vô tự tính, nếu pháp vô tự tính tức là không thể
hí luận. Nếu Bồ Tát tu được Bát nhã không thể hí luận ấy, liền được vào địa vị
Bồ Tát.
Ý Tu Bồ Đề: Không có hí luận là
đạo của ba thừa, vậy Bồ Tát dùng đạo gì để vào địa vị Bồ Tát không có hí luận?
Phật đều đáp không, vì sao? Vì hàng Bồ Tát Đại thừa không nên dùng pháp Nhị
thừa, vì sáu Ba la mật chưa đầy đủ, không thể dùng Phật đạo. Trong đây Phật tự
nói nhân duyên; Bồ Tát nên tu học khắp các đạo mới được vào địa vị Bồ Tát; thí
như hàng Bát nhân trong hàng Kiến đế đạo, trước tiên học khắp các đạo, được vào
chính vị mà chưa được quả Tu đà hoàn, Bồ Tát cũng như vậy; trước tiên học khắp
các đạo, được vào địa vị Bồ Tát mà chưa được quả Nhất thiết chủng. Nếu Bồ Tát
trú trong Kim cang tam muội, dùng một niệm tương ưng với tuệ thời được quả Nhất
thiết chủng.
Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Đức Thế Tôn,
nếu Bồ Tát học khắp các đạo vậy sau mới vào địa vị Bồ Tát, các đạo ấy khác nhau;
nếu Bồ Tát học khắp các đạo ấy, hoặc sinh vào tám đạo, tức là hàng Bát nhân; nếu
sinh vào Bích chi Phật đạo, tức là Bích chi Phật; nếu Bồ Tát làm kẻ Bát nhân cho
đến làm Bích chi Phật, vậy sau mới vào địa vị Bồ Tát, thời không có lẽ ấy? Nếu
không vào địa vị Bồ Tát mà được trí Nhất thiết chủng, cũng không có lẽ ấy? Con
sẽ làm sao biết được Bồ Tát học các đạo, vào địa vị Bồ Tát?
Phật chấp thuận ý ấy và tự nói
nhân duyên: Bồ Tát từ khi mới phát tâm hành sáu Ba la mật, do trí quán thấy Bát
địa rồi mà thẳng qua, như người có thân bị giam trong lao ngục, đi vào xem thấy
nhưng cũng không cùng mang gông cùm; Bồ Tát muốn đầy đủ đạo chủng trí nên vào
địa vị Bồ Tát, xem khắp các dạo, vào địa vị Bồ Tát; vào địa vị Bồ Tát rồi được
trí Nhất thiết chủng, dứt hết phiền não tập khí. Phật khai thị cho Tu Bồ Đề
rằng: Hàng Nhị thừa được phần ít trí tuệ của chư Phật và Bồ Tát, thế nên hàng
Bát nhân hoặc trí hoặc đoạn, cho đến Bích chi Phật hoặc trí hoặc đoạn đều là vô
sinh pháp nhẫn của Bồ Tát.
Trí là tám trí của hàng học nhân
và chín hoặc mười trí của hàng vô học.
Đoạn là dứt mười kiết sử, tức là
năm thượng phần kiết, năm hạ phần kiết.
Tu đà hoàn, Tư đà hàm nói lược
là dứt ba kiết, nói rộng là dứt tám mươi tám kiết. A na hàm nói lược là dứt năm
hạ phần kiết, nói rộng là dứt chín mươi hai kiết. A la hán nói lược là dứt ba
lậu hoặc: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu; nói rộng là dứt hết thảy phiền não. Ấy
gọi là trí và đoạn; trí và đoạn đều là vô sinh pháp nhẫn của Bồ Tát.
Hàng Thanh văn do bốn thánh đế
được đạo, hàng Bồ Tát do một thánh đế vào đạo. Phật nói bốn thánh đế đều là một
thánh đế, vì phân biệt nên có bốn. Bốn đế ấy trí và đoạn của Nhị thừa đều ở
trong một đế. Bồ Tát trước tiên trú trong nhu thuận nhẫn, học vô sinh vô diệt,
cũng chẳng phải vô sinh, chẳng phải vô diệt; lìa hữu kiến, vô kiến, hữu vô kiến,
chẳng phải hữu chẳng phải vô kiến... dứt hết các hí luận, được vô sinh
nhẫn.
Lại, nói có thể vượt qua trí tuệ
của Thanh văn, Bích chi Phật, gọi là vô sinh nhẫn. Trí tuệ Thanh văn, Bích chi
Phật quán năm uẩn sinh diệt nên sinh tâm nhàm chán, lìa dục mà được giải thoát.
Bồ Tát do trí tuệ và phước đức lớn nên trong khi quán năm uẩn sinh diệt, tâm
không sợ hãi như Tiểu Thừa; Bồ Tát dùng mắt tuệ tìm định tướng của pháp sinh
diệt không thể có được, như đã nói trong phẩm Phá sinh ở trước. Chỉ dùng mắt
thịt và tâm thô thiển thời thấy có vô thường sinh diệt; hàng phàm phu đối với
các pháp thấy thường, mà khi pháp chấp trước ấy trở về vô thường, thời chúng
sinh lo buồn, khổ não. Thế nên Phật nói muốn lìa ưu khổ chớ quán tướng thường.
Nói vô thường ấy vì phá điên đảo chấp thường, chứ không vì chấp đắm vô thường mà
nói, thế nên Bồ Tát bỏ quán sinh diệt, vào trong vô sinh vô diệt.
Lại hỏi: Nếu vào vô sinh vô diệt
tức là thường, làm sao xa lìa được điên đảo chấp thường?
Phật đáp: Như vô thường có hai:
Một là phá điên đảo chấp thường mà không chấp vô thường; hay là chấp vô thường
sinh hí luận; vô sinh nhẫn cũng như vậy; Một là tuy phá sinh diệt mà không chấp
vô sinh vô diệt nên không đọa vào điên đảo chấp thường; hai là chấp không sinh
diệt nên đọa vào điên đảo chấp thường.
Chơn thật vô sinh là dứt các
quán, đường ngôn ngữ bặt, quán hết thảy pháp như tướng Niết bàn, từ xưa lại đây
thường tự không sinh; được vô sinh vô diệt, rốt ráo thanh tịnh ấy thời quán vô
thường còn không chấp thủ, huống gì sinh diệt? Các tướng như vậy gọi là vô sinh
pháp nhẫn. Được vô sinh nhẫn ấy liền vào địa vị Bồ Tát; vào địa vị Bồ Tát rồi do
trí Nhất thiết chủng dứt các phiền não và tập khí, dùng mọi nhân duyên độ thoát
chúng sinh; như cây có trái ngon làm lợi ích nhiều.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, thế nào là đạo chủng trí của Bồ Tát?
Phật đáp: Bồ Tát trú trong vô
sinh pháp nhẫn được thật tướng các pháp. Từ thật tướng khởi lên, lấy danh tướng,
ngôn ngữ các pháp tự mình hiểu rõ; tự mình hiểu rõ rồi lại vì chúng sinh diễn
nói, khiến được khai ngộ. Bồ Tát nhờ nhân duyên phước đức nên hiểu âm thanh,
ngôn ngữ của chúng sinh, dùng âm thanh biến khắp ba ngàn đại thiên thế giới,
cũng không chấp trước âm thanh ấy, vì biết nó như tiếng vang. Âm thanh ấy tức là
tướng phạm âm, vì thế Bồ Tát nên biết hết thảy đạo, xem khắp tâm chúng sinh,
biết gốc ngọn của nó rồi đem thiện pháp làm lợi ích, ngăn ngừa pháp bất thiện,
như trong kinh nói rộng: Bồ Tát trước hết biết thật tướng các pháp, nên đối với
đạo Nhị thừa ra vào tự tại; quán sát rồi đi thằng qua mà vào địa vị Bồ Tát. Lại
vì độ chúng sinh nên khởi đạo tuệ; muốn vì chúng sinh thuyết pháp, hiểu rõ âm
thanh, ngôn ngữ của chúng sinh rồi dùng phạm âm thuyết pháp, ngăn ngừa đường ác,
mở đường thiện. Đướng ác là ba ác đạo: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Đường thiện
là ba thiện đạo: Người, trời, A tu la. Dùng mọi nhân duyên chê trách ác đạo, tán
thán thiện đạo. Ngăn đường ác là ngăn đường địa ngục, nhân địa ngục, quả địa
ngục. Địa ngục đạo là ba đạo bất thiện. Nhân của địa ngục là ba độc: Tham dục
tăng trưởng khởi lên đường bất thiện tham lam, tật đố; sân nhuế khởi lên đường
bất thiện giận dữ, não hại; ngu si tăng trưởng khởi lên đường bất thiện tà kiến.
Ba độc là nhân của ba đường bất thiện, ba đường bất thiện là nhân của bảy đường
bất thiện. Quả của địa ngục là do nhân ấy nên chịu thân địa ngục, tâm chịu các
khổ não, đó là quả. Bồ Tát nên xem quả địa ngục của chúng sinh, vậy sau vì họ
thuyết pháp, khiến dứt nhân quả và đường địa ngục. Mười đường bất thiện có
thượng, trung, hạ. Thượng là địa ngục; trung là súc sinh, hạ là ngạ quỷ. Mười
đường thiện cũng có thượng, trung, hạ. Thượng là trời, trung là người; hạ là quỷ
thần. Ở mười đường thiện có thể lìa dục, sinh lên cõi Sắc; lìa cõi Sắc, sinh lên
cõi Vô sắc. Ở trong ba đường ác thường chịu khổ, nên nói cần nên biết, cần nên
ngăn trừ. Ỡ trong loài người, loài trời có nhân duyên đắc đạo; vì Niết bàn hoặc
có khi nên ngăn trừ; vì bất định nên không nói; vì các pháp trợ đạo khác không
nên nói ngăn trừ, cho đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát phân biệt được
như vậy rồi biết chúng sinh dùng pháp Tiểu thừa độ; nên dùng pháp Đại thừa để độ
thời dùng pháp Đại thừa độ. Bồ Tát biết tâm sâu xa của chúng sinh và nghiệp nhân
duyên đời trước; lại biết nhân duyên quả báo đời sau; lại biết thời tiết và nơi
chốn của chúng sinh có thể hóa độ; các nhân duyên có thể hóa độ khác đều biết
đầy đủ, thế nên lời nói không hư dối. Trí tuệ biết về đạo chủng và các pháp trợ
đạo như vậy đều nhiếp vào trong Bát nhã; thế nên Bồ Tát nên hành Bát nhã đạo
tuệ.
Tu Bồ Đề bạch Phật: Nếu pháp trợ
đạo, Bồ đề là pháp không hợp, không tán, không sắc, không hình, không đối, chỉ
là một tướng tức vô tướng, thời pháp trợ đạo ấy đều không, làm sao có thể chứng
Vô thượng chánh đẳng chánh giác? Pháp không, không có sở hữu, thời đáng lẽ đáng
không lấy, không bỏ; thí như hư không, không có pháp nên không lấy, không
bỏ?
Tu Bồ Đề nói với tâm chơn thật
không chấp trước, nên Phật hứa khả rằng: Như vậy, như vậy, và nói nhân duyên: Có
chúng sinh không biết các pháp tự tướng không như vậy, nên vì chúng sinh ấy phân
biệt pháp trợ đạo mà có thể chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Này Tu Bồ
Đề, chẳng phải chỉ ba mươi bảy phẩm trợ đạo Không, không hợp, không tán, mà sắc
pháp cho đến trí Nhất thiết chủng ở trong thánh pháp, cũng tự tướng không, không
hợp, không tán. Không hợp, không tán là nghĩa rốt ráo không; như trong đây nói
nhất tướng, đó là vô tướng. Pháp ấy tuy không, mà vì theo thế đế nên vì chúng
sinh nói: Muốn làm cho được vào thánh pháp, chứ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Trong
đây Bồ Tát đều nên biết, thấy, học pháp ấy. Mới biết gọi là biết; về sau vào
sâu, gọi là thấy. Biết là chưa rõ ràng, thấy là đã rõ ràng.
Hỏi: Biết và thấy có gì sai
khác?
Đáp: Có người nói: Có cái biết
chẳng phải thấy, có cái thấy chẳng phải biết, có cái cũng biết cũng thấy, có cái
chẳng phải biết chẳng phải thấy.
Có cái biết chẳng phải thấy là
chỉ cho trí tận và trí vô sinh, trừ thế gian chánh kiến và năm ác kiến, các tuệ
khác đều gọi là biết; ấy là tuệ biết, chẳng phải thấy.
Có cái thấy chẳng phải biết là
năm ác kiến và thế gian chánh kiến và nhẫn ở trong kiến đế đạo; ấy là thấy,
chẳng phải biết. Các tuệ vô lậu khác cũng gọi là biết, cũng gọi là thấy; lìa
thấy và biết ấy, các pháp khác chẳng phải thấy, chẳng phải biết.
*Lại nữa, có người nói: Định tâm
gọi là thấy, Định và chưa định đều thông suốt gọi là biết; như trong kinh Chuyển
pháp luân nói: Khổ đế biết rồi nên thấy; biết rồi phân biệt biết, pháp ấy nên
thấy, ấy là Khổ đế; pháp ấy nên đoạn, ấy là Tập đế; pháp ấy nên chứng, ấy là
Diệt đế; pháp ấy nên tu, ấy là Đạo đế. Hoặc biết phiền não dứt gọi là thấy; như
biết chín phẩm hoặc đoạn trừ.
Tu Bồ Đề nghe nói danh từ khác
của Bát nhã gọi là thánh pháp, nên hỏi: Những gì là thánh pháp?
Phật đáp: Trong thánh pháp, các
hiền thánh hoặc Phật, hoặc Bích chi Phật, hoặc Thanh văn, vì các pháp tham dục..
không hợp, không tán. Không hợp là hết thảy phiền não gọi là điên đảo; điên đảo
tức không có sở hữu. Nếu không có sở hữu, làm sao có thể hợp? Nếu không hợp làm
sao có tán? Vì không hợp nên không khinh phàm phu; vì không tán nên không tự
cao; đối với chúng sinh không thương không ghét. Trong đây Phật tự nói nhân
duyên không hợp, không tán, đó là: Các pháp đều không sắc, không hình, không
đối, chỉ là một tướng tức vô tướng. Pháp không có sắc với pháp không có sắc
không hợp, không tán, cho đến pháp không có tướng với pháp không có tướng không
hợp, không tán, vì sao? Vì pháp ấy đều một tính, tự tính không hợp với tự tính,
ấy gọi là nhất tướng vô tướng của Bát nhã ba la mật, Bồ Tát nên học. Học rồi
không có pháp có thể được.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bồ Tát
không học sắc tướng Như cho đến hữu vi vô vi tướng Như, nếu không học các pháp
tướng ấy, tại sao trong kinh nói Bồ Tát trước tiên học các pháp tướng, sau vượt
quá Thanh văn, Bích chi Phật địa; nếu không vượt quá Thanh văn, Bích chi Phật,
làm sao vào địa vị Bồ Tát như trong kinh đây rộng nói?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu các pháp
thật có tướng thời nên học tướng ấy. Này Tu Bồ Đề, nhưng các pháp thật không có
tướng; thế nên Bồ Tát không nên học tướng; không có tướng cũng không nên học, vì
học là chấp thủ tướng. Việc pháp tướng như trong phẩm Phá tướng ở Trung luận đã
nói. Có Phật hay không có Phật, thì các pháp vẫn thường trú, nhất tướng vô
tướng.
Tu Bồ Đề theo Phật nghe nói hết
thảy pháp vô tướng, nay lại hỏi Phật: Nếu hết thảy pháp chẳng phải hữu tướng,
chẳng phải vô tướng tướng, thì làm sao Bồ Tát tu Bát nhã? Nếu có vô tướng thời
nhân nơi vô tướng có thể tu Bát nhã? Nay tướng và vô tướng đều không, vậy nhân
việc gì được tu Bát nhã? Nếu không tu Bát nhã thời không thể vượt quá địa vị
Thanh văn, Bích chi Phật, cho đến không thể an lập nơi ba phước
điền?
Phật hứa khả lời ấy rằng: Như
vậy, như vậy và nói nhân duyên tu Bát nhã; Bồ Tát không vì tu tướng nên là tu
Bát nhã; tu vô tướng nên là tu Bát nhã.
Bạch Thế Tôn, làm sao tu vô
tướng là tu Bát nhã? Nếu vô tướng, thời làm sao có thể tu?
Phật dạy: Tu các pháp hư hoại là
tu Bát nhã, vì các pháp hư hoại nên tướng vô tướng cũng hư hoại; thí như chiếc
xe phân hoại nên tướng bánh xe cũng diệt; như vậy cho đến vi trần.
Bạch Thế Tôn, những pháp gì có
thể phá hoại?
Phật đáp: Tu sắc pháp phá hoại
tức là tu Bát nhã ba la mật; tu dứt hết thảy phiền não tập khí tức là tu Bát nhã
ba la mật.
Tu Bồ Đề bạch Phật: Làm sao tu
pháp sắc phá hoại cho đến tu dứt hết thảy phiền não tập khí phá hoại là tu Bát
nhã?
Phật đáp: Bồ Tát nhất tâm niệm
đến Nhất thiết trí, thương xót chúng sinh, muốn được chánh hạnh Bát nhã ba la
mật, không nghĩ đến sắc là hữu pháp; tu như vậy là tu Bát nhã, vì cho sắc là
định tướng có thật, thời mắc lỗi hữu tướng, vì cớ sao? Vì trong đây Phật tự nói
nhân duyên: hữu tướng là không tu Bát nhã, vì trong Bát nhã vô pháp còn không
có, huống gì hữu pháp! Người ấy không tu Bát nhã, cũng không tu năm Ba la mật;
người ấy chấp trước hí luận pháp hữu, không tu bố thí... Người chấp trước như
vậy không có giải thoát, không có đạo, không có Niết bàn. Không có ba môn giải
thoát gọi là không có giải thoát; không có pháp không của thánh nhân gọi là
không có đạo; không có đạo nên không có Niết bàn.
Hỏi: Vì cớ sao không có
đạo?
Đáp: Vì người ấy hí luận pháp,
không nhàm chán già bệnh chết, chấp trước pháp nên sinh tà kiến; tà kiến nên
không thể như thật quán sát thân bất tịnh...; không thể quán thân nên không thể
tu thân niệm xứ; không tu thân niệm xứ nên không thể tu thọ, tâm, pháp niệm xứ;
không tu bốn niệm xứ nên không thể tu Không tam muội cho đến trí Nhất thiết
chủng, vì sao? Vì chấp trước pháp hữu.
Bạch Đức Thế Tôn, những gì là
pháp hữu, những gì là vô pháp? Phàm phu hoặc đối với hữu pháp sinh vô tưởng, đối
với pháp vô sinh tưởng hữu? Muốn phân biệt việc ấy nên hỏi Phật.
Phật đáp; Hai tướng là pháp hữu,
chẳng phải hai tướng là pháp vô.
Tu Bồ Đề hỏi: Những gì là hai
pháp?
Phật đáp: Chấp thủ sắc tướng tức
là hai, như trong phẩm trước nói. Lìa sắc không có mắt, lìa mắt không có sắc,
cho đến tính hữu vi, vô vi, vì sao? Vì lìa hữu vi không được nói vô vi; lìa vô
vi không được nói thật tướng hữu vi; thế nên hai pháp ấy không được lìa nhau mà
phàm phu cho đó là hai, thế nên điên đạo. Phật lược nói hai tướng, đối với hết
thảy pháp chấp thủ tướng đều là hai, hết thảy hai đều là hữu, thích ứng với hữu
bèn có sinh tử, vì sao? Vì đối với hữu mà sinh tâm chấp trước, nhân tâm chấp
trước mà sinh các phiền não, vì phiền não mà qua lại sinh tử, vì sinh tử mà ưu
bi khổ não; thế nên nói thích ứng với pháp hữu bèn có sinh tử, có sinh tử thời
không được khỏi già, bệnh, ưu, khổ. Này Tu Bồ Đề, vì vậy nên biết người chấp hai
tướng không có Thí Ba la mật cho đến không có thuận nhẫn, huống gì thấy được
thật tướng của sắc, cho đến thấy được thật tướng của trí Nhất thiết trí. Người
ấy nếu không thấy được thật tướng của sắc... thời không có tu đạo, làm sao có
quả Tu đà hoàn cho đến dứt hết thảy phiền não tập khí?
Sáu Ba la mật có hai: Thế gian
và xuất thế gian. Người ấy không có sáu Ba la mật xuất thế gian, thế nên nói
người chấp tướng hữu ấy không có sáu Ba la mật. Nếu có là chỉ có Ba la mật thế
gian, nhưng trong đây không nói Ba la mật thế gian. Đạo quả Thanh văn còn không
có, huống gì có Phật đạo? Hỏi: Thuận nhẫn là thuận nhẫn nào? Đáp: Đó là thuận
nhẫn của Tiểu thừa. Thuận nhẫn của Tiểu thừa còn không có, huống gì của Đại
thừa!
Hỏi: Địa vị đảnh pháp đã không
bị thối chuyển, cớ gì còn nói cho đến địa vị nhẫn pháp?
Đáp: Trong pháp Thanh văn cũng
nói đảnh đọa, trong pháp Đại thừa cũng nói đảnh đọa, cớ gì nói đảnh pháp không
đọa? Có người nói: Tuy ở đảnh pháp không thối đọa, nhưng không bền chắc, không
nhất định nên không nói. Nhẫn là an trú lâu, đã vào chánh định, tuy chưa được vô
lậu mà đồng với vô lậu. Vì tùy thuận với khổ pháp nhẫn nên gọi là nhẫn; vì chưa
từng thấy pháp ấy, hễ thấy liền nhẫn được nên gọi là nhẫn. Người ấy với Phật
thánh là nhỏ mà với phàm phu là lớn.
Thấy sắc có hai: Một là thấy
thật tướng sắc rõ ràng, hai là dứt phiền não ràng buộc theo các sắc, nên gọi là
thấy. Giống như sắc cho đến trí Nhất thiết chủng, và việc dứt hết thảy phiền não
tập khí cũng như vậy. Nếu người thấy sắc tu đạo còn không có được, huống gì tu
được quả Tu đà hoàn cho đến dứt phiền não tập khí?
Giải Thích: Phẩm Ba Thứ Lớp Học Thứ 75
(Kinh Ma ha Bát Nhã ghi: Ba thứ lớp hành) (Kinh Đại Bát nhã
hội 2 ghi: Phẩm Tiệm Thứ thứ 73)
Kinh: Bấy giờ Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch đức Thế Tôn, nếu theo tướng pháp hữu còn không được thuận nhẫn, huống
gì được đạo? Nếu theo tướng pháp vô sẽ được thuận nhẫn chăng? Hoặc được Càn tuệ
địa, hoặc Tánh địa, Bát nhân địa, Kiến địa, Bạt địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa,
Bích chi Phật địa, Bồ Tát địa hoặc Phật địa, hoặc tu đạo, nhân tu đạo sẽ dứt
phiền não chăng? Vì phiền não ấy nên không vượt quá được Thanh văn, Bích chi
Phật mà vào địa vị Bồ Tát? Nếu không vào địa vị Bồ Tát thời không được trí Nhất
thiết chủng; không được trí Nhất thiết chủng thời không được dứt hết thảy phiền
não và tập khí. Bạch Đức Thế Tôn, nếu không có tướng hữu pháp thời pháp ấy chẳng
sinh? Nếu chẳng sinh pháp ấy thời không thể được trí Nhất thiết
chủng?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như
vậy, nếu không có pháp hữu thời có thuận nhẫn cho đến dứt hết thảy phiền não và
tập khí.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, Bồ Tát khi hành Bát nhã ba la mật, có tướng pháp chăng? Nghĩa là có
tướng sắc cho đến tướng thức, tướng mắt cho đến tướng ý, tướng sắc cho đến tướng
pháp, tướng nhãn giới cho đến tướng ý thức giới, tướng bốn niệm xứ, cho đến
tướng trí Nhất thiết chủng; hoặc tướng sắc, hoạc tướng sắc dứt cho đến tướng
thức, tướng thức dứt; tướng mười hai nhập, mười tám giới cũng như vậy; hoặc
tướng vô minh, hoặc tướng vô minh dứt, cho đến tướng ưu, bi, khổ, não, tướng ưu,
bi, khổ, não dứt; hoặc tướng dục, hoặc tướng dục dứt, hoặc tướng sinh cho đến
tướng sinh dứt; hoặc tướng si, hoặc tướng si dứt; hoặc tướng khổ, hoặc tướng khổ
dứt; hoặc tướng tập, hoặc tướng tập dứt; hoặc tướng diệt, hoặc tướng diệt dứt;
hoặc tướng đạo, hoặc tướng đạo dứt, cho đến tướng trí Nhất thiết chủng, tướng
dứt hết thảy phiền não và tập khí?
Phật dạy: Không. Bồ Tát khi tu
Bát nhã không có tướng pháp, tướng phi pháp, tức là Bồ Tát thuận nhẫn. Nếu không
có tướng pháp, tướng phi pháp tức là tu đạo, cũng là đạo quả. Này Tu Bồ Đề, Bồ
Tát, hữu pháp là Bồ Tát đạo, vô pháp là Bồ Tát quả; vì nhân duyên ấy nên biết
hết thảy pháp, tính không có sở hữu.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, nếu hết thảy pháp, tính không có sở hữu, làm sao Phật biết hết thảy
pháp, tính không có sở hữu nên được thành Phật, đối với hết thảy pháp được sức
tự tại?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Như vậy, như
vậy, hết thảy pháp, tính không có sở hữu. Ta xưa hành Bồ Tát đạo, tu sáu Ba la
mật, lìa các dục, lìa pháp ác bất thiện, có giác có quán, lìa dục sinh hỷ lạc
vào sơ thiền, cho đến vào đệ tứ thiền, đối với các thiền ấy và các thiền chi
không nghĩ có các thiền ấy, không thọ thiền vị, không được thiền ấy, không
nhiễm, thanh tịnh hành bốn thiền, Ta không thọ quả báo đối với các thiền ấy. Y
trú nơi bốn thiền phát khởi năm thần thông là thần túc thông, thiên nhĩ thông, y
tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhĩ thông, y tha tâm thông, túc mạng thông
và thiên nhãn thông; đối với các thần thông không chấp thủ tướng, không nghĩ
rằng có thần thông ấy, không thọ mùi vị của thần thông ấy, không thủ đắc thần
thông ấy, Ta không phân biệt hành theo năm thần thông ấy. Này Tu Bồ Đề, Ta lúc
bấy giờ dùng một niệm tương ưng với tuệ, được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nghĩa là ngộ được ấy là khổ thánh đế, ấy là tập, là diệt, là đạo thánh đế, thành
tựu mười lực, bốn điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung,
đại từ đại bi, được thành Phật; phân biệt ba nhóm chúng sinh là nhóm chánh định,
tà định và bất định.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Làm sao
Thế Tôn đối với pháp không có tính sở hữu mà sinh khởi bốn thiền, sáu thấn thông
và cũng không có chúng sinh mà Phật phân biệt ba nhóm chúng sinh?
Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu các dục
và các pháp ác bất thiện có tính, hoặc tự tính, hoặc tha tính, ta xưa khi tu
hạnh Bồ Tát, đã không thể quán các dục, pháp ác bất thiện không có tính sở hữu
để vào sơ thiền, song vì các dục, pháp ác bất thiện không có tính, hoặc tự tính,
hoặc tha tính đều là tính không có sở hữu. Nên ta xưa khi hành Bồ Tát đạo mới
lìa các dục, pháp ác bất thiện để vào sơ thiền cho đến vào đệ tứ thiền. Này Tu
Bồ Đề, nếu các thần thông có tính, hoạc tự tính, hoạc tha tính thời Ta không thể
biết thần thông ấy không có tính sở hữu, được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Này Tu Bồ Đề, vì thần thông không có tính, hoặc tự tính, hoặc tha tính đều không
có tính sở hữu; vì vậy nên chư Phật đối với thần thông biết không có tính sở hữu
nên được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Luận. Hỏi: Các pháp Không cùng
một nghĩa, cớ gì Tu Bồ Đề dùng mỗi mỗi nhân duyên hỏi lại: Trong đây lại hỏi: Có
tướng pháp thời không thể được thuận nhẫn, cho đến nếu các pháp ấy không sinh
thời không thể được trí Nhất thiết chủng?
Đáp: Nghĩa rốt ráo không của các
pháp ấy rất sâu xa, khó hiều, người nói còn khó, huống gì người lãnh thọ, người
tu hành? Thế nên Tu Bồ Đề vì Bát nhã mà thưa hỏi, sợ người nhiều nghi, nhiều
hoặc, nên dùng mỗi mỗi nhân duyên hỏi lại.
*Lại nữa, nghĩa được hỏi tuy là
một mà chỗ nguyên nhân có khác nhau. Hoặc hỏi nếu hết thảy pháp không, làm sao
phân biệt có năm đường? Hoặc hỏi nếu hết thảy pháp không có tướng sở hữu, làm
sao phân biệt có ba thừa? Hoặc hỏi có tướng thời cho đến không được thuận nhẫn,
làm sao quán sát Bát địa mà vào địa vị Bồ Tát? Những câu hỏi như vậy vì câu hỏi
có khác nên nghĩa có sai khác, vì Bát nhã không có tướng nhất định. Phật hứa khả
lời Tu Bồ Đề rằng: Như vậy, như vậy, ông trước hỏi thuận nhẫn, đó là thuận nhẫn
của Tiểu thừa, nay hỏi, đó là thuận nhẫn của Bồ Tát. Nếu Bồ Tát khi hành Bát
nhã, có tướng pháp chăng? Phật đáp: Bồ Tát khi hành Bát nhã không có pháp sinh
tướng hoặc có hoặc không ấy, vì sao? Vì thấy có thấy không đều có lỗi; ấy là Bồ
Tát thuận nhẫn; đối với hết thảy pháp không sinh tâm thấy tướng có, tức là tư
đạo. Này Tu Bồ Đề, hữu pháp là Bồ Tát đạo, vô pháp là quả. Hữu pháp gọi là hữu
vi, vô pháp là vô vi. Hành tám thánh đạo hữu vi thời dứt các phiền não, được quả
vô vi.
*Lại nữa, có người nói năm Ba la
mật gọi là hữu pháp, là Bồ Tát đạo; Bát nhã ba la mật rốt ráo không nên là vô
pháp, là Bồ Tát quả. Có người nói: Bát nhã là tướng trí tuệ, pháp hữu vi là đạo;
Như, pháp tính, thật tế không từ nhân duyên sinh, thường có, nên gọi là quả. Có
như vậy không có sai khác. Vì nhân duyên ấy nên biết hết thảy pháp đều là không
có tính sở hữu, gọi là vô pháp.
Lại hỏi: Bạch Đức Thế Tôn, nếu
hết thảy pháp không có tính sở hữu, làm sao Phật đối với không có tính sở hữu
được chánh trí, chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đối với các pháp được tự
tại? Phật hứa khả lời ấy. Bồ Tát dùng trí không có sở hữu hợp tu hết thảy pháp,
có thể dứt hết thảy chấp trước nên được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trong
đây Phật tự dẫn chứng: Ta xưa khi làm Bồ Tát tu sáu Ba la mật lìa dục, lìa pháp
ác bất thiện, có giác có quán, lìa dục sinh hỷ lạc mà vào sơ thiền.
Lìa dục là lìa năm dục; lìa pháp
ác bất thiện là lìa năm triền cái. Đưa người vào đường ác nên gọi là ác; chướng
ngại thiện pháp nên gọi là bất thiện. Có giác có quán là giác quán lành, thuộc
sơ thiền; lìa dục sinh hỷ lạc là lìa bỏ năm dục sinh hỷ lạc. Hỷ lạc là trong cõi
Sắc có hai thứ lạc: Một là vui có mừng, hai là chỉ có vui không có mừng. Vui và
mừng thuộc sơ thiền, nhị thiền; chỉ có vui, không mừng thuộc tam
thiền.
Hỏi: Sơ thiền, nhị thiền đều có
vui mừng, có gì sai khác?
Đáp: Thứ vui mừng trong sơ thiền
là do lìa năm dục phát sinh; thứ vui mừng trong nhị thiền là từ định phát sinh
nên gọi là định sinh. Lại nữa, tướng phiền não cõi Dục bất thiện nên chướng ngại
sơ thiền. Hành giả muốn lìa chướng ngại lớn nên nói ly sinh, còn phiền não ở cõi
Sắc thuộc vô ký, bị các nạn mềm yếu lo, do nhân duyên giác quán nên mất thiền,
thế nên Phật nói diệt các giác quán, bên trong tâm thanh tịnh nên được nhị
thiền; tam thiền, tứ thiền như trước đã nói. Ta đối với các thiền chi thủ tướng
được rồi mà không nghĩ đến có thiền ấy. Khi ban đầu tập thiền, thủ tướng cho đến
khi được; được rồi sợ đắm nhiễm nên quán vô thường, không nghĩ đến có thiền ấy,
không thủ đắc định tướng của thiền ấy, cũng không thọ mùi vị của thiền ấy; tâm
không nhiễm trước tu bốn thiền, khác với ngoại đạo. Theo đó tu các thiền mà
không thọ quả báo thiền. Y trú bốn thiền, sinh khởi năm thần thông. Vì túc mạng
thông nên biết nhân duyên nghiệp cũ của chúng sinh sinh đến nơi đây. Do sức
thiên nhãn thông nên thấy chỗ sinh đến trong tương lai của chúng sinh, theo hành
nghiệp của chúng. Biết gốc ngọn của chúng sinh rồi sinh tâm đại bi, nghĩ làm sao
dứt sự khổ sinh tử tương tục cho chúng sinh. Bấy giờ tâm hồi hướng vào lậu tận
thông, tức thời do một niệm tương ưng với tuệ được Vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Nghĩa là ngộ đó là tướng khổ, nhân của khổ là ái dục; ái dứt thời khổ
diệt; đường đi đến khổ diệt là đạo; thông đạt bốn đế nên được mười lực, bốn điều
không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung, và phân biệt chúng sinh
làm ba nhóm. Dùng ba thần thông độ chúng sinh ấy là dùng thiên nhĩ, tha tâm,
thần túc thông; vì chúng sinh thuyết pháp khiến thoát sinh tử.
Tu Bồ Đề lại hỏi: Nếu các pháp
không có sở hữu, làm sao lúc Phật làm Bồ Tát khởi sinh bốn thiền, sáu thần
thông? Nếu không có chúng sinh, làm sao Phật phân biệt chúng sinh làm ba
nhóm?
Phật đáp: Các dục, các pháp ác
bất thiện nếu có tính, hoặc tự tính, hoặc tha tính, thời Ta khi xưa làm Bồ Tát
không thể quán các dục, các pháp ác bất thiện không có tính sở hữu mà vào sơ
thiền. Ý Phật là nếu các dục, pháp ác bất thiện là pháp có định tính hoặc nhiều
hoặc ít tự tướng, hoặc trong thân có tính tịnh, tính thướng... Tính có hai: hoặc
tự tính, hoặc tha tính. Tự tính là tính bất tịnh trong tự thân; tha tính là chỉ
cho y phục, đồ trang sức thân; các thứ đó đều vô thường hư dối, làm nhân duyên
cho khổ não. Năm dục bên trong bên ngoại không có thường lạc ngã tịnh thật, nếu
có thời Ta xưa khi tu Bồ Tát đạo, không thể quán năm dục Không, không có tính sở
hữu mà vào sơ thiền, vì các dục và pháp ác bất thiện không có thật tính, hoặc tự
tính, hoặc tha tính, nên Ta khi làm Bồ Tát lìa năm dục, pháp ác bất thiện mà vào
sơ thiền cho đến vào đệ tứ thiền. Nếu các thần thông có tính, hoặc tự tính hoặc
tha tính, thời Ta khi xưa tu Bồ Tát đạo không thể biết thần thông không có sở
hữu, nên được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tu Bồ Đề hỏi: Nếu các pháp nhất
định không, không có tính sở hữu, làm sao Phật đối với các pháp được sức tự
tại?
Phật dạy: Ta do bốn thiền đối
với các phiền não được giải thoát, do sáu thần thông đối với các pháp được tự
tại độ sinh. Ý Tu Bồ Đề là vì bốn thiền, bốn thần thông là có, làm sao Phật đối
với Không được sức tự tại?
Phật khai thị: Ta quán năm dục
Không, vì hư dối không có định tướng nên không chấp trước các thiền mà khởi lên
thần thông. Các thiền vì có tướng có hạn lượng nên có thể xả, được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Lúc mới lìa dục, vì lấy không có tính sở hữu làm nhân nên
được quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng không có sở hữu. Nếu các thiền
nhất định Không, Vô thượng chánh đẳng chánh giác chẳng Không thời có thể có vấn
nạn ấy. Nhưng vì nay cả hai đều không, nên không nên vấn nạn.
(Hết cuốn 86 theo
bản Hán) .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.THICH NU CHAN TANH.MHDT.4/2/2013.
No comments:
Post a Comment