Giới luật là nguồn sinh lực của Tăng Già |
Để bảo hộ sự thanh tịnh, hòa hợp trong Tăng đoàn và giữ gìn bản thể Tỷ kheo không cho hư hủy đồng thời để tránh sự chê bai của người thế tục, tránh gây mất niềm tin Tam Bảo của tín thí, Đức Phật đã tuyên bày giới luật. |
Giới luật có công năng dứt trừ nghiệp duyên,
nghiệp nhân trong đường sanh tử. Không chỉ thọ hưởng phước lành ở vị lai mà ngay
trong đời sống hiện tại, nếu chúng ta vâng giữ giới pháp nghiêm cẩn thì cuộc
sống sẽ an vui, thân tâm luôn thanh thản.
Kinh Trường Bộ có nêu ra 5 lợi ích của việc giữ gìn giới luật
như sau :
1. Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh tấn. 2. Người có giới đức được tiếng tốt đồn xa. 3. Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc. 4. Người có giới đức khi chết tâm không rối loạn. 5. Người có giới đức sau khi mạng chung được sinh về thiện thú, thiên giới.
Đức Phật thiết lập giới bổn không ngoài mục đích muốn kiện toàn
bản thể thanh tịnh Tỷ kheo và trang nghiêm hòa hợp Tăng đoàn.
Luật Ma Ha Tăng Kỳ, tập I, Phật bảo Xá Lợi
Phất : "Có 10 việc lợi ích nên chư Phật Như Lai vì đệ tử chế giới...
Mười việc lợi ích đó là :
1. Vì nhiếp phục Tăng chúng.
2. Vì nhằm triệt để nhiếp phục Tăng chúng. 3. Vì muốn cho Tăng chúng an lạc. 4. Vì để nhiếp phục những người không biết hổ thẹn. 5. Vì để cho những người biết hổ thẹn cư trú yên ổn. 6. Vì để cho những người không tin khiến họ tin tưởng. 7. Vì để cho những người đã tin tăng thêm lòng tin. 8. Vì muốn dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại. 9. Vì để cho những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi. 10. Vì muốn cho Chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Cho nên đối với hàng xuất gia, giới luật rất cần thiết để thành
tựu một Tỷ kheo thanh tịnh và phát triển Tăng đoàn. Nói cách khác, Giới luật
chính là nguồn sinh lực của Tăng già, và là kim chỉ nam cho sự sinh hoạt Tăng
đoàn.
Tăng già là một đoàn thể Tỷ kheo thanh tịnh hòa hợp, là một
trong ba ngôi báu biểu hiện sự tồn tại của Phật pháp, là người trực tiếp thay
Phật tuyên dương Chánh pháp để làm lợi lạc quần sanh. Do đó, khi trong Tăng
chúng bắt đầu có sự xen tạp, bản thể thanh tịnh Tăng không còn được vẹn toàn,
thì khi đó Đức Phật mới chế giới hầu ngăn chặn sự manh nha của các hữu lậu.
Với tinh thần "Tùy phạm tùy chế", giới luật Phật giáo chủ yếu
dựa vào sự tự nguyện của hành giả mà không hề có tính cách giáo điều, ép buộc.
Các hành giả sẽ tình nguyện vâng giữ giới pháp một cách nghiêm mật để chu toàn
bản thể thanh tịnh Tỷ kheo và xây dựng Tăng đoàn mẫu mực. Tự thân mỗi hành giả,
nương vào giới luật để gạn lọc thân tâm, tận trừ mọi lậu hoặc, ngăn chặn nghiệp
bất thiện. Nhờ đó mà thân tâm được thúc liễm, đạo hạnh được tăng trưởng, đời
sống không bị nhiễm ô trần tục. Một người vâng giữ, nhiều người vâng giữ, rồi
từng cá nhân đó hợp lại thành một tập thể trang nghiêm thanh tịnh. Đây chính là
điểm khác biệt của Tăng đoàn Phật giáo so với tổ chức của các hội chúng khác.
Tuy nhiên, yếu tố tạo nên thanh tịnh hòa hợp của chúng đệ tử
Phật căn bản vẫn là sự nghiêm trì giới luật. Vì giới luật chính là nền tảng căn
bản để giữ gìn và bảo hộ giới thể cho một Tỷ kheo như pháp. Một Tỷ kheo mà không
giữ giới chắc chắn không thể tồn tại trong Tăng đoàn được.
Kinh Tăng Chi III, Đức Phật dạy rằng :
"...Biển cả không bao giờ dung chứa tử thi. Cũng vậy, nếu Tỷ kheo
nào không giữ được hạnh thanh tịnh thì Tăng đoàn sẽ không sống chung với kẻ ấy,
hãy nhanh chóng tụ họp lại loại kẻ ấy ra. Dù kẻ ấy có ngồi giữa Tăng chúng cũng
xa rời Tăng chúng, và Tăng chúng cũng không bảo vệ được kẻ ấy".
Thế nhưng, trong xã hội ngày nay, do sự chi phối của hoàn cảnh
xung quanh, chúng ta còn thiếu những môi trường tốt để trưởng dưỡng đời sống
phạm hạnh và gìn giữ sơ tâm. Tăng Ni trẻ có quá ít sự bảo hộ của Tăng đoàn.
Nhưng dẫu thế nào đi nữa, tự thân mỗi người vẫn là quyết định thiết yếu cho sự
thành bại trong đời sống tu học của chính mình. Cho nên, đối với người xuất gia,
việc vâng giữ giới luật là rất cần thiết. Cần thiết cho bản thân và cần thiết
cho Tăng đoàn.
Chúng ta thử nghĩ xem, nếu không có giới luật thì mỗi người sẽ
hành động mỗi cách, nói năng mỗi kiểu thì làm sao xây dựng một Tăng đoàn gương
mẫu để truyền bá giáo pháp và đạt đến địa vị vô thượng giác. Và nếu chúng Tỷ
kheo không nghiêm trì giới luật thì sẽ không bao giờ sống được trong niệm đoàn
kết hòa hợp như nước với sữa được. Một khi không hòa hợp thì Tăng đoàn sẽ yếu
đi, giá trị mô phạm của tập thể cũng không còn, không sớm thì muộn tổ chức ấy
cũng bị tan rã.
Vì thế, giáo pháp của Phật đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân.
Sự chu toàn đạo đức của mỗi cá nhân sẽ trang nghiêm cho đoàn thể. Mỗi Tỷ kheo
hay Tỷ kheo ni sống đúng như Pháp, như Luật sẽ là nguồn năng lực vô biên cho sự
lớn mạnh của Tăng già. Và một khi Tăng đoàn đã thực sự thanh tịnh hòa hợp thì
không một thế lực nào có thể lấn áp hay phá hoại được. Phật pháp nhờ đó mà ngày
càng vững mạnh tỏa sáng. Cuộc sống chung quanh cũng nhờ đó mà được ảnh hưởng tốt
đẹp.
"Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tối tăm Giới như gương báu sáng Chiếu rõ tất cả pháp". (Kinh Phạm Võng)
Kinh Di Giáo thuật rằng, trước khi vào Niết
Bàn, Đức Phật đã ân cần dạy bảo : "Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như Lai
diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được
mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả
của các thầy. Nếu Như Lai có ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới
ấy".
Do đó, là đệ tử Phật mà coi thường giới luật sẽ mang tội rất
lớn đối với Tam Bảo. Chúng ta phải nhớ rằng, vì những lợi ích thiết thực cho sự
tu tập cũng như sự vững mạnh của Tăng đoàn mà Đức Phật đã ân cần bày trao giới
pháp. Những giới pháp ấy, 250 giới cho hàng Tỷ kheo, 348 giới cho hàng Tỷ kheo
ni, trải qua năm tháng, đến nay vẫn còn tồn tại. Nếu chúng ta không ý thức tôn
trọng giữ gìn thì có khác gì chúng ta hủy hoại ngôi nhà Như Lai !
Nếu chúng ta dửng dưng với những lời dạy ân cần của chư Phật,
www Tổ, của các bậc trưởng thượng thì coi như đã quay lưng với hoài bão của
mình. Chúng ta không thiết tha trau giồi giới đức là đã góp phần làm cho mau
chóng www vào con wwwạt pháp. Như trong kinh Di Giáo, Đức Phật có nói : "Tất cả
các ma vương ngoại đạo không ai có thể phá hoại được giáo pháp của ta, chỉ có đệ
tử ta mới làm cho giáo pháp ta bị hủy diệt". Chỉ có con trùng trong thân sư tử
mới ăn được thịt sư tử mà thôi.
Thế nên, là đệ tử Phật, chúng ta phải luôn tâm niệm giữ gìn
giới luật như hơi thở của chính mình. Phải tôn kính trân quý giới luật vì "Giới
luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật còn là Phật pháp còn, Giới luật mất
là Phật pháp mất". Vận mệnh của Phật pháp hoàn toàn tùy thuộc vào sự tồn vong
của giới luật. Mà giới luật có được tồn tại lâu dài để làm hưng thịnh cho Tăng
đoàn, làm xương minh cho Phật pháp và đem lại lợi ích cho thế gian hay không là
do ở nơi chính đệ tử Phật, nhất là những người được xem là "Thừa Như Lai sứ,
hành Như Lai sự" có thiết tha nghiêm trì giới luật hay không ?
Khải Tâm
Tăng ly chúng Tăng tàn
"Tăng ly chúng Tăng tàn / Hổ ly sơn hổ bại" là
một trong những chuẩn tắc sinh hoạt quý báu kết tinh từ nếp sống quy củ thiền
môn. Trong bối cảnh Phật giáo hiện nay, nhất là đời sống sinh hoạt, Tăng Ni,
Phật tử bị ảnh hưởng mạnh bởi trào lưu phát triển xã hội, việc xác lập quan điểm
sống đúng tinh thần Chánh pháp trở thành một trong những ưu tư thường trực của
các bậc tâm huyết tu hành.
Mỗi khi đối mặt với những tình huống nan giải, họ thường viện
dẫn câu nói quen thuộc trên để vừa an ủi mình, vừa sách tấn đệ tử. Không chỉ là
bài học kinh nghiệm giáo dục tinh thần sống, một kết luận đanh thép, một lời răn
đe, cảnh báo nghiêm khắc, nó còn gián tiếp nêu lên các yêu cầu đòi hỏi ngầm,
diễn tả đời sống thực tế, vạch lối đi cho những kẻ cùng đường và khẳng định sức
mạnh của Tăng.
Chúng ta thấy trong câu nói trên hai danh từ
Tăng và hổ được lặp lại. Song, vỏn vẹn chỉ
hiện diện một động từ ly, được nhắc lại hai lần. Thật ý vị khi hai danh từ Tăng
và hổ, tính từ tàn và bại có nghĩa khá tương xứng nhau.
Tăng là đoàn thể những người xuất gia tu hành sống chung hòa
hợp với nhau trong một trú xứ. Giới luật Phật giáo quy định ít nhất bốn vị Tỷ
kheo sống với nhau thanh tịnh, hòa hợp gọi là Tăng, nói đúng là Tăng-già,
Sangha. Chúng ta phải nhớ kỹ nguyên nghĩa này để biết chính xác rằng : bản chất
của Tăng là thanh tịnh và hòa hợp. Theo thời gian, danh từ chung chỉ cho tập thể
này còn được sử dụng như một danh từ riêng chỉ cho cá nhân. Một vị nam tu sĩ
Phật giáo thường được gọi là Tăng. Dù chung hay riêng, bao giờ Tăng cũng là một
trong ba ngôi báu (Tam bảo) và được tôn xưng là Chúng trung tôn - những bậc đáng
tôn kính trong loài người.
Hổ, loài vật dũng mãnh, sống từng nhóm, nổi tiếng hung dữ.
Chúng trong câu Tăng ly chúng Tăng tàn là một danh từ chỉ cho
một tập thể nhiều người xuất gia cùng sống chung trong một trú xứ. Cụ thể, chúng
bao gồm các bậc sư trưởng, huynh đệ, pháp hữu, Phật tử tại gia của một tự viện,
đạo tràng tu học. Chúng còn được hiểu là môi trường sinh hoạt như chùa viện và
môi trường tâm linh bao gồm toàn bộ hệ thống giáo lý Phật giáo. Do đó, chúng là
tịnh giới, là sự thanh tịnh hòa hợp của Tăng.
Danh từ chúng có cùng nghĩa với sơn, đều chỉ chung về môi
trường sinh sống của tập thể lẫn cá thể, của con người hay động vật.
Tách ly, ly khai, từ bỏ, xa rời là các ý nghĩa cơ bản của ly.
Tách mình ra khỏi tổ chức, lìa bỏ tập thể để sinh hoạt ở một nơi khác gọi là ly.
Khoảng cách không gian địa lý và sự khác biệt quan điểm tư tưởng làm con người
tách rời nhau. Ly có hai nghĩa : tách ly hành động và tách ly lý tưởng. Tàn
nghĩa là suy mòn, hư héo, hết sức sống, như trong từ tàn rụi, tàn phế, tàn tạ.
Nghĩa bóng của nó là sự suy thoái phẩm chất đạo đức. Bại nghĩa là thua, liệt,
không cử động được, hư hỏng, đồi bại, mất trắng, thất bại. Tra trong nguyên
nghĩa chữ Hán, ly, tàn và bại có thêm một số nghĩa rất phù hợp với bối cảnh câu
châm ngôn trên. Ly : a. xa cách, lìa tan; b. thiếu; c. không dính, bám; d. không
tuân theo, làm trái. Tàn : a. giết hại, bị làm hại; b. hung ác, tàn ác; c. hư
hỏng, hư hại, rách nát, sứt mẻ; d. thiếu khuyết, tàn tật, đồ bỏ đi. Bại : a.
thua, thất bại; b. hỏng, đổ nát; c. tàn rụng, nghiêng đổ. Ta thấy tàn và bại có
nghĩa khá tương đồng nhau. Vậy, Tăng ly chúng Tăng tàn nghĩa là khi người xuất
gia sống tách rời khỏi đoàn thể sinh hoạt của mình, không tuân giữ giới pháp
Phật chế, không chóng thì chầy cũng trở nên hư hỏng, sa đọa, mất mạng giống như
cọp một khi ra khỏi rừng thì dễ bị giết chết - Hổ ly sơn hổ bại.
Câu châm ngôn trên muốn truyền đạt đến chúng ta điều gì ? Đầu
tiên, đó là một lời dạy mang tính khuyên răn, giáo dục, sách tấn, cảnh báo.
Khuyến tấn Tăng Ni tôn trọng tuyệt đối nếp sống tập thể, tuân theo đời sống giới
luật tu viện. Giáo dục tinh thần, ý thức sống khép mình vào mọi sinh hoạt cộng
đồng Tăng chúng. Sống tách biệt với chúng là đi vào đường nẻo tối tăm của tội
lỗi. Nó cảnh báo trước rằng, tách mình ra khỏi sự bảo vệ của đoàn thể không bao
giờ đem lại kết quả tốt đẹp. Hậu quả thường xảy ra khi vị tu sĩ trẻ từ bỏ đời
sống tu viện là dễ sa ngã, chìm đắm vào dục lạc thế gian, mất hướng đi thánh
thiện, thậm chí rơi vào những tiêu cực, khiếm khuyết về phẩm hạnh, đạo đức.
Kế đến, "Tăng ly chúng tăng tàn, Hổ ly sơn hổ
bại" cung cấp cho chúng ta các bài học kinh nghiệm quý báu về sự an
toàn đạo hạnh của mỗi tu sĩ nếu họ biết an tâm sống theo các quy chế của tu
viện. Càng bỏ bê giới luật, càng xa chúng bao nhiêu, người tu hành càng dễ bị
thế tục hóa bấy nhiêu. Từ chối sự bảo bọc của Tăng đoàn là tự rước họa vào thân.
Có người cho rằng sống độc lập để dễ dàng làm công tác Phật sự. Họ lầm. Những
người này cần suy ngẫm hình ảnh con hổ bị phanh xác bởi bầy chó rừng để phản
tỉnh bản thân. Hẳn đây là bài học xương máu của liệt vị Tổ sư đã để lại cho
chúng ta trải qua bao thăng trầm lịch sử.
Tiếp theo, câu nói trên gián tiếp trình bày một yêu cầu có tầm
quan trọng trong việc duy trì Chánh pháp. Đó là yêu cầu mỗi cá nhân tu sĩ cần có
những nhận thức sinh hoạt đúng đắn. Họ phải biết rằng, đoàn kết mang lại sức
mạnh và an toàn trong suốt lộ trình tu học của mình. Họ cần ý thức thường trực
vai trò và địa vị của mình để tránh phát sinh những tư tưởng và hành động đi
ngược lại lợi ích của giới luật và đoàn thể nơi mình sinh ra và trưởng thành -
Tăng.
Từ yêu cầu này, cho phép chúng ta thấy rằng, câu nói này trực
tiếp diễn tả một thực tế sinh động đã, đang và sẽ mãi diễn ra trong nội bộ đời
sống Tăng già. Thực tế ấy là : bản chất của Tăng vốn hòa hợp nhưng bản tính con
người ưa chia rẽ. Tăng ly chúng nghĩa là nội bộ Tăng đã hiện hữu sự thiếu thanh
tịnh và hòa hợp. Đức Phật thường nhấn mạnh ý nghĩa và mục đích hòa hợp, thanh
tịnh của đoàn thể Tăng già, nhưng mỗi cá nhân cũng như tập thể Tăng không phải
bao giờ cũng trung thành với tinh thần lục hòa. Sự kiện ly khai giáo đoàn của
Đề-bà-đạt-đa là minh chứng đau buồn nhất cho thực tế ấy. Sự chọn lọc để duy trì
và phát triển trong lòng xã hội đầy biến thiên đòi hỏi giáo đoàn phải trải qua
nhiều lần phân hóa, nhằm truyền bá Chánh pháp cũng như thích ứng sâu rộng vào
cuộc đời. Mái chùa bao giờ cũng rộng mở để đón nhận những ai phát tâm tu hành,
song vẫn thường xuyên khép cổng đưa tiễn các đệ tử xuất gia trở về với cuộc sống
nhiều hệ lụy của thế gian. Không thể thống kê có bao nhiêu người cởi áo nâu sồng
để khoác áo tục nhân. Giáo hội cũng chẳng thể nào biết được hàng năm có bao
nhiêu Tăng Ni rời xa chúng. Từ thực tế ấy, câu trên rõ ràng đã vạch lối sống cho
chư Tăng. Đó là sống cùng nhau thành những tập thể hòa hợp thanh tịnh, đoàn kết
và vững mạnh. Phải giảm thiểu tối đa sự tách ly. Bất kể sự tách ly lớn - phân
hóa giáo đoàn, hay nhỏ - vị Tỳ kheo rời xa chúng để ở riêng một mình, đều làm
suy yếu sức mạnh của tập thể Tăng.
Với cách ngắt nhịp 3/2 mạnh mẽ, hai câu trên đối nhau hoàn
chỉnh xuyên qua các hình ảnh đắt giá, tương xứng và tạo nên hai vòng nhân quả.
Việc điệp từ Tăng, hổ, ly đều hai lần, có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa cần thiết.
Ngôn ngữ gãy gọn, cô đọng, hàm súc. Nếu ly là nhân thì tàn, bại là quả. Chính
các hành động và tư tưởng của mỗi cá nhân tu sĩ trượt ra khỏi đường ray sinh
hoạt của Tăng chúng dẫn đến việc từ bỏ nếp sống thanh quy - ly. Do từ bỏ sự che
chở của Tăng, cá nhân tu sĩ khó lòng chống chọi với bát phong thường xuyên thổi
mạnh. Vì vậy, việc bị cuốn theo và sống buông thả theo dục lạc thế tục là hệ quả
hiển nhiên. Đó là vòng nhân quả thứ nhất. Vòng nhân quả thứ hai : tàn là nhân,
ly là quả. Vị Tỳ kheo sống trong tập thể Tăng nhưng không tuân thủ các quy định
của Tăng - tức là tàn, thì trước sau gì cũng bị Tăng loại trừ ra khỏi tập thể -
ly. Thậm chí không cần đợi Tăng trục xuất mà họ tự ý tìm cách thoát ly trước.
Thật ra, vòng nhân quả thứ nhất là nói xuôi, vòng nhân quả thứ hai là nói ngược
lại cho trọn vẹn vấn đề mà thôi. Thế là ly = tàn.
Ở đây, điều làm chúng ta suy tư đầu tiên : vì sao ly ? Nói cách
khác, đâu là lý do dẫn đến sự ly ? Bất đồng quan điểm về pháp môn tu, giới luật
cùng với những sự bất mãn, xung đột, tranh chấp lẫn sự ganh ghét tị hiềm, tật đố
giữa các thành viên trong tập thể... được xem là những nguyên nhân dẫn đến việc
Tăng ly chúng. Nếu cá nhân không tuân thủ các luật lệ thành văn và bất thành văn
của đời sống tự viện thì cố nhiên bị tách ly khỏi tập thể. Bản thể Tăng thanh
tịnh nhưng mỗi thành viên Tăng không phải ai cũng thanh tịnh. Nhìn chung, có hai
lý do tổng quát : Một là lý do chủ quan, nghĩa là do ước muốn cá nhân. Chính sự
bất mãn hoặc sự sụp đổ lý tưởng xuất gia đã khiến cá nhân tu sĩ rời bỏ đoàn thể.
Con người ai mà không cố gắng tìm kiếm "tự do" cho chính mình ? Bị thôi thúc bởi
những vọng tưởng, ý nghĩ riêng tư, cá nhân luôn muốn thoát ly khỏi sự kiềm tỏa
của tập thể; hai là lý do khách quan, hoàn cảnh đưa đẩy. Hoàn cảnh ở đây chỉ
chung cho toàn bộ những gì bên ngoài cá nhân. Mâu thuẫn nội bộ trong mỗi tự
viện, sự đổ vỡ mối tương thông giữa các thành viên thường là lý do chính của các
cuộc chia ly, chia rẽ. Chúng bao hàm tất cả những phiền phức, rắc rối, bất cập
phát sinh trong quá trình sinh hoạt cộng đồng giữa thầy và trò, giữa huynh đệ
với nhau, thậm chí có cả trường hợp giữa tu sĩ và cư sĩ. Lý do thứ hai này còn
bao gồm các yếu tố xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo tác động gián tiếp hoặc
trực tiếp lên đời sống cá nhân tu sĩ và khiến họ phải xa rời tổ ấm của mình.
Nhìn chung, dù chủ quan hay khách quan, việc tu sĩ rời khỏi tổ chức thì trách
nhiệm được quy cho Tăng già.
Tiếp theo, chúng ta tự hỏi tại sao hễ Tăng lìa chúng thì tàn,
tại sao hổ rời khỏi núi rừng thì bại ? Hổ - thú dữ ăn thịt, mạnh bạo, hung dữ,
chúa tể sơn lâm, thế mà khi từ bỏ môi trường sống của nó vẫn bị thất bại, thua
các loài khác, huống gì vị Tăng sĩ vốn hiền lành chất phác ? Một khi rời khỏi
môi trường kháng nhiễm của Tăng chúng, cá nhân tu sĩ dễ dàng bị thâm nhiễm sự
bất tịnh của thế gian. Thiếu sự bảo vệ, kiểm soát, dạy dỗ, sách tấn, khuyên can
của sư trưởng; không có sự chia sẻ, nhắc nhở của bạn đồng tu; cộng với nội lực
chưa đủ mạnh để chống chọi với sự lôi kéo của ngoại duyên, tất cả các điều này
trở thành tăng thượng duyên cho Tăng hư hỏng. Chí đạo nan văn, vọng tình dị tập.
Sống trong môi trường độc hại, nguy hiểm, không nơi nương tựa, không người chở
che thì hư hỏng là điều chắc chắn. Thay đổi môi trường là chết. Chết, dù Tăng
hay hổ, không những vì môi trường mới độc địa hiểm ác, mà còn chết bởi chẳng có
khả năng thích ứng với môi trường ấy. Cho nên mới kết luận : Tăng ly chúng Tăng
tàn, hổ ly sơn hổ bại. Ly là tàn, ly là bại, bất kể Tăng hay hổ, người hay vật,
mạnh hay yếu.
Thứ đến, ta xét tiến trình ly và tàn. Trật tự ly rồi sẽ tàn đôi
khi cũng có thể hoán đổi, nghĩa là tàn thì chắc chắn sẽ ly. Song câu châm ngôn
trên có vẻ nhấn mạnh ý nghĩa thứ nhất : Tăng ly chúng thì Tăng sẽ hư hỏng. Tuy
nhiên, thực tế có trường hợp Tăng ly chúng mà không tàn, Tăng không ly chúng mà
vẫn tàn. Ly mà không tàn là do cá nhân có ý thức trách nhiệm cao, ly với lý do
chánh đáng - chuyên tu, hoằng pháp. Chúng ta không cần ca ngợi những vị Tăng ly
chúng mà vẫn không tàn, nhưng phải đặc biệt chú ý tình trạng Tăng không ly chúng
mà vẫn tàn. Việc sống với chúng không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự hư
hỏng hay thành công của cá nhân tu sĩ. Tuy nhiên, ngôi chùa cần đào tạo những
Tăng sĩ đủ tư cách và thanh lọc các tu sĩ không xứng đáng. Chính những cá nhân
hư hỏng cộng trụ trong đoàn thể Tăng là những con sâu làm rầu nồi canh, là sư tử
trùng thực sư tử nhục. Nếu Giáo hội không phát hiện, không quyết tâm loại trừ,
thậm chí còn dung dưỡng, thì những con sâu và trùng này sẽ phá hoại bản chất
thanh tịnh hòa hợp của Tăng, làm suy giảm đạo tâm tôn kính của tín đồ đối với
Tam bảo, đặc biệt làm lũng đoạn, gây chia rẽ sức mạnh đoàn kết trong nội bộ Tăng
đoàn.
Ngoài ra, Tăng ly chúng Tăng tàn còn trực tiếp
đề cập đến vấn đề quan hệ giữa cá nhân và tập thể, vấn đề đạo đức cá nhân, vấn
đề chất lượng giáo dục và sinh hoạt Phật giáo trong các tự viện, vấn đề tồn tại,
phát triển và suy vong của cá nhân trong mối tương quan với cộng đồng. Việc một
vị tu sĩ sống biệt chúng, hoặc hư hỏng, không chỉ là trách nhiệm riêng của họ mà
toàn thể thành viên trong tự viện nơi vị ấy cư trú đều có trách nhiệm. Luôn luôn
có sự tương quan, liên đới về trách nhiệm và nghĩa vụ giữa thành viên Tăng và
toàn thể Tăng đoàn. Cá nhân tốt, vị Tăng tài đức hiển nhiên sẽ mang lại uy tín
cho tu viện - nơi mà vị ấy cư ngụ. Cũng vậy, khi cá nhân hư hỏng, suy thoái đạo
đức, chắc chắn tập thể cưu mang cá nhân ấy cũng bị liên lụy, có những ảnh hưởng
xấu. Chất lượng giáo dục trong mỗi tự viện thường quyết định khả năng, tài đức
của mỗi vị Tăng. Do đó, tu sĩ muốn hành đạo yên ổn, muốn có điều kiện tốt để
nuôi dưỡng Thánh thai, phát triển đạo nghiệp thì cần lựa chọn và sống trong ngôi
chùa có môi trường giáo dục và sinh hoạt ổn định theo đúng thanh quy giáo pháp.
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, chúng ta ghi nhớ điều này để ý thức tầm quan
trọng của môi trường sống.
Tăng tàn không phải do ly hay hợp mà do Tăng không sống
trọn vẹn với bản chất thiêng liêng cao quý vốn có của mình. Vấn đề
không phải ở chỗ ly hay hợp mà ở chỗ đời sống của Tăng, môi trường giáo dục tự
viện như thế nào, có giữ đúng thanh quy giới luật không, có lục hòa, quan tâm và
có trách nhiệm với nhau hay không ? Cọp chết thảm vì không có đồng loại bảo vệ,
từ bỏ núi rừng, đơn thân độc mã đối mặt với hiểm nguy, không biết lượng sức
mình. Cũng thế, trần gian hiểm ác, Tăng tàn vì không mặc áo giáp giới luật, khô
nước thiền định, thiếu gươm trí tuệ, xa thiện tri thức, sống trong môi trường
xấu. Cọp bại chỉ phí một đời nhưng Tăng tàn sẽ oan uổng nhiều kiếp. Tăng tàn thì
đạo suy, đó là điều chắc chắn. Khi con người sa sút đạo đức thì họ xem thường
đời sống thánh thiện. Cho nên, vạn bất đắc dĩ mới ly. Nếu thế thái nhân tình bắt
buộc phải ly, thì chúng ta tùy duyên ly trong hòa hợp và thanh tịnh : thống nhất
cái đầu và thắt chặt đôi tay. Nghĩa là, chấp nhận có khoảng cách vật lý nhưng
luôn luôn gắn bó trên quan điểm tư tưởng và hành động. Song, nếu hợp, trái nghĩa
với ly, có tính chất bè phái, đảng phái, tông phái, môn phái để rồi chống báng
nhau thì đó là đại ly, là hại đạo tập thể, là đàn sâu, là ổ sư tử trùng. Bởi vì,
chia rẽ là dấu hiệu của suy tàn, đổ vỡ; thống nhất là biểu hiện của sức mạnh và
trường tồn. Dù ly hay không ly, bản chất của Tăng mãi mãi là thanh tịnh và hòa
hợp. Thuận với bản chất ấy thì sống, sống xứng đáng với địa vị Chúng trung tôn.
Nghịch bản chất ấy thì dù sống cũng coi như đã chết, chết trong sự nguyền rủa vì
hại đạo hại đời, hại mình hại người.
Tình hình chính trị, bối cảnh lịch sử, thực tế xã hội không
ngừng thúc đẩy chúng ta đi từ sự phân ly này đến sự phân ly khác. Cá nhân luôn
có xu hướng xoáy theo vòng xoáy ly tâm, vượt ra khỏi những ràng buộc của tập
thể. Đó là tổng thể đời sống vô cùng phức tạp mà Tăng già cần tỉnh táo nhìn ngắm
lại bản thân mình, nội bộ tổ chức mình. Nhìn ngắm, quan sát kỹ để Tăng già biết
trong nồi canh có bao nhiêu con sâu, biết trên lưng sư tử có bao nhiêu đàn độc
trùng, nhằm vạch ra những hướng đi nhất quán, đúng với Chánh pháp. Biết chấp
nhận sự chia ly với cái đầu thông minh và đôi tay nhất thống thì không sợ tàn,
không nao núng bại. Bởi bao giờ Phật giáo cũng chủ trương nếp sống tập thể song
song với việc phát triển cá nhân cho Tăng Ni, Phật tử trong môi trường
Giới-Định-Tuệ.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.9/10/2012).
|
Monday 8 October 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment