Những vấn đề của Ni trong đoàn thể Tăng-già
1. Bát kính pháp và vấn đề thời
đại:
Có thể nói Đức Thế Tôn là một nhà cách mạng tuyệt vời,
vấn đề mà đến thế kỷ 20 thế giới mới bắt đầu nhận ra và kêu gọi giải phóng phụ
nữ thì ngài đã làm từ cách nay hai mươi lăm thế kỷ. Với con mắt tuệ giác của
mình, Đức Thế Tôn đã thấy được vai trò và khả năng của người phụ nữ. Bằng nhiều
cách khác nhau, người ta có thể đi đến cùng một mục đích. Nam giới bằng năng lực
và cá tính mạnh mẽ của mình để hướng đến mục đích thì nữ giới cũng bằng năng lực
và bản chất dẻo dai họ đạt được mục đích như vậy. Bỏ qua phương cách, con đường
mà nhìn về mục đích thì họ bình đẳng như nhau. Cái nhìn trí tuệ của đức Như Lai
thấy được điều đó. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khắt khe của xã hội Ấn độ thời bấy
giờ cũng như xu hướng của các thời đại nói chung đã tạo cho ngài một sức ép khi
quyết định cho đoàn thể nữ giới xuất gia vào đạo giải thoát. Ba lần đức A nan
thỉnh cầu ngài từ chối mà không có lý do chính đáng, vì lẽ dĩ nhiên ngài từng
dạy rằng giáo lý giải thoát, giác ngộ của ngài không giới hạn cho bất cứ thành
phần nào, tất cả đều có thể tu tập và giác ngộ, điều làm cho ngài e ngại đó là
lực cản thành kiến của quần chúng xã hội. Trong khi người ta xem nữ giới chỉ như
là một sản phẩm cung cấp con người, chỉ có năng lực sinh sản và phục tùng mà
bỗng nhiên trở thành một thành phần cao cả trong xã hội, là học trò nối gót đức
Đạo sư, có thể chứng thánh đắc quả thì thật là khó chấp nhận được. Thành kiến xã
hội là một hàng rào vô cùng khắt khe. Vì vậy, dù thấy được năng lực tâm linh của
phụ nữ đức Thế Tôn cũng không thể làm ngơ trước thành kiến này. Với vai trò của
bậc đạo sư, ngài phải phương tiện dùng thế gian pháp đưa ra tám pháp cung kính
trọn đời Tỳ kheo ni phải tuân thủ như là một điều kiện để thách thức Bồ đề tâm
của quý bà.
1. Tỳ kheo ni 100 tuổi hạ thấy Tỳ kheo mới thọ giới
phải đứng dậy xá chào, hỏi han, mời ngồi.
2. Không được mắng nhiếc Tỳ kheo
3. Không được nêu tội Tỳ kheo, Tỳ kheo được nêu tội Tỳ
kheo ni
4. Thọ đại giới phải cầu đủ đại tăng
5. Nếu phạm Tăng tàn phải hành sám Ma-na-đỏa giữa hai
bộ đại Tăng
6. Mỗi nửa tháng đến trong tăng cầu giáo
thọ
7. Không được ở chổ không có Tỳ kheo mà an
cư
8. An cư xong phải đến trong Tăng cầu ba việc thấy,
nghe, nghi.
Sau khi cung kính lãnh thọ tám kính pháp này, bà
Mahapajapati và năm trăm cung nữ xuất gia thành đệ tử Phật và giáo hội Phật giáo
Tỳ kheo ni bắt đầu từ đó.
Nhìn chung, tám pháp này thể hiện lên tinh thần đoàn
kết hòa hợp của đạo Phật, Ni tăng là một bộ phận trong hàng ngũ Tăng già, là một
cá thể trong cùng một thực thể chung. Điều thứ nhất trong tám pháp cung kính nói
lên tinh thần khiêm hạ mà mọi thành viên trong Tăng cần phải có, bởi lẽ nói đến
Tăng già của Phật giáo là nói đến đoàn thể sống vô ngã, một vị Tỳ kheo ni 100
tuổi hạ xá chào và mời Tỳ kheo một hạ ngồi là một nét đẹp đặc sắc để tất cả ai
nhìn vào cũng cảm động và dễ dàng được cảm hóa bởi hành động này. Và dĩ nhiên
thói thường, một người trẻ tuổi không thể không cung kính người lớn hơn mình,
nói gì đến bậc ni trưởng, cả hai đều cung kính nhau, nhường nhịn nhau, một sự
giao tiếp mang đậm màu sắc khiêm hạ, nhún mình, đó là bản sắc văn hóa giao tiếp
đặc trưng của nhà Phật.
Kính pháp thứ hai và thứ ba là tinh thần, là bản thể
thanh tịnh, hòa hợp của tăng. Một đoàn thể hòa hợp gọi là tăng thì dù ở trong
trường hợp nào cũng không được lên tiếng mắng nhiếc, nêu lỗi của người huống gì
là đối với Tăng, với bạn hữu, đại huynh, sư trưởng của mình.
Từ kính pháp thứ tư đến kính pháp thứ tám là thủ tục
tác thành Ni tăng sự. Tỳ kheo ni phải tỏ ra đúng vai trò khất sỹ, cầu pháp của
mình, để dẹp bỏ lòng kiêu mạn, để bào mòn cái tự ngã vốn dĩ rất ngông nghênh.
Hơn nữa, vào thời đó, giáo đoàn ni tăng thành lập sau khi đạo Phật hình thành
năm năm, mà khi đạo Phật có mặt cũng chính là khi giáo đoàn đại tăng có mặt. Bởi
sự non trẻ của giáo hội Ni tăng nên dĩ nhiên là phải đến đại Tăng cầu Ni tăng
sự.
Xét về lịch sử hình thành Bát kính pháp, đức Thế tôn
đã nhìn thấu suốt được vấn đề, bên cạnh lí do một bối cảnh xã hội trọng nam
khinh nữ, thân phận của bà Di mẫu, Da du, các công chúa, tiểu thư hoàng tộc,
cung phi mỹ nữ thân thích của Phật cũng là một lý do, họ là những người con vua
cháu chúa, xuất thân từ dòng hào kiệt trâm anh, họ đã từng là mẹ, là dì, là vợ
của thái tử, họ đã từng đóng vai trò chỉ dạy, bảo ban, có công với thái tử
Siddhatta, thì họ không lý gì không làm vậy với đệ tử của Phật, cả đến những vị
đã đắc thánh quả. Nhưng “tứ chúng xuất gia đồng quy thích thị”, đạo của đức Thế
tôn không phân biệt thân sơ, giáo đoàn của ngài có đầy đủ bốn giai cấp từ Bà la
môn, Sát đế lợi, Câu xá, Thủ đà la tất cả khi đến với đạo của ngài đều trở nên
bình đẳng. Bát kính pháp này là giới luật, là hàng rào để quý bà tiến tu, giữ
mình đúng mức một dòng Thích nữ tìm cầu đạo giải thoát, bỏ lại ngoài cổng tam
quan của ni viện những thói quen mang tính thiên chức trước đây. Bên cạnh đó,
bậc thầy vĩ đại của chúng ta đã tinh tế nhận ra một vấn đề thuộc về tâm lý học,
ngài muốn có sự cách biệt trong hòa khí giữa Tăng bộ và Ni bộ, nữ giới hay thiên
về sự quá đà, thân quá sinh lờn, ỷ lại và sơ quá sinh kiêu ngạo, tự phụ, tự tung
tự tác, coi ta đây độc lập không cần ai dắt dẫn. Tăng già là một đoàn thể hòa
hợp, các thành viên trong tăng là thành viên của gia đình lớn, cần phải khích
lệ, hỗ trợ, bổ túc cho nhau, nếp sống dù ở môi trường nào cũng không ngoài quy
luật duyên sinh của tục đế. Một lý do khác nữa là, dẫu thế nào đi nữa về mặt xã
hội, phụ nữ ở thời đại nào cũng chịu sự chi phối của thành kiến, vì là “phái
yếu” nên việc sinh hoạt độc lập một mình trong một xã hội luôn xem phái yếu là
món hàng, là trò chơi của đàn ông thì thật là bất tiện. Cho nên, để duy trì nếp
sống phạm hạnh, Ni tăng cần có sự ngoại hộ của đại tăng, đó cũng là một lý do mà
Phật đưa ra pháp bát kính này.
Nói tóm lại, đành rằng theo lời di huấn của đức Đạo
sư, nếu sau khi ngài diệt độ những pháp và luật nào không còn phù hợp với căn
cơ, phong tục tập quán của địa phương, làm phương hại đến mục đích truyền trì
chánh pháp thì chúng đệ tử có thể ngồi lại hội ý mà bỏ đi, một giá trị cần phải
thay đổi khi và chỉ khi nó không còn tác dụng nữa và thay bằng một cái khác có
giá trị hơn, nếu không được như vậy thì không có lý do gì để từ bỏ nó. Với những
lý do và ý nghĩa đã bàn ở trên, dẫu ở thời đại nào, hoàn cảnh nào, bát kính pháp
và giáo hội ni tăng vẫn luôn đồng hành. Nói đúng hơn, Bát kính pháp không thể,
chưa thể, và sẽ không bao giờ có thể là bất hợp lý, lỗi thời đối với hàng đệ tử
sống đúng con đường của đạo Phật, sống đúng với tinh thần vô ngã, vị tha, hòa
hợp hiếu kính. Tự thân của Bát kính pháp không hề có khiếm khuyết, tỳ vết gì cho
nên việc đòi bỏ bát kính pháp không thể và không bao giờ có thể thành công
được.
Tuy nhiên, một số vị Tỳ kheo ni dấy lên phong trào đòi
bỏ bát kính pháp tại nước ngoài là một tiếng chuông cảnh tỉnh trong tăng già.
Thứ nhất, đó là do chưa thấu hiểu hết được nội dung và ý nghĩa của bát kính
pháp, chưa nhận chân được ý hướng của đức Phật về các pháp này. Thứ hai, đó là
dấu hiệu cho thấy nếp sống của một số thành viên trong tăng già có vấn đề, vấn
đề đó là sự thiếu tôn trọng lẫn nhau, không muốn tôn trọng người mà chỉ muốn
người tôn trọng mình, không thấy được đức tính khiêm cung nhũn nhặn là một nét
đẹp, một pháp tu. Thêm vào đó, một số cá nhân các vị Tỳ kheo tỏ ra thiếu tôn
trọng Tỳ kheo ni, tự xem mình là đối tượng mà các tỳ kheo ni tất nhiên phải cung
kính, mà quên rằng bản thân mình cũng phải tự dẹp bỏ cái tự ngã chật hẹp, ích kỷ
của mình, quên đi một quy luật tất yếu rằng nếu muốn được người khác tôn kính
thì trước tiên cần phải biết tôn trọng người. Là thành viên trong một tổ chức,
là anh em trong một gia đình mà chưa đả thông được cho nhau, chưa tôn trọng, hòa
ái với nhau thì làm sao dám tin đó là một đoàn thể hòa hợp, làm sao dám tin
người đó có thể ứng xử tốt được với người ngoài, làm sao thấy được cuộc sống
trong tăng, thấy đoàn thể tăng là từ hòa hiếu kính theo đúng phương châm của đạo
Phật. Một gia đình trên không yêu thương dưới, không tôn trọng dưới, dưới không
yêu kính trên thì đó là dấu hiệu của sự tan rã, là kém gia phong, và dĩ nhiên
không có lý do gì mà thắng được các thế lực ngoại đạo khi họ rắp tâm xen vào
quấy phá.
Trở lại vấn đề nam, nữ giới và việc bình đẳng, bất
bình đẳng. Chúng ta từng biết, đứng về phương diện vật chất cũng như tinh thần,
trong sự phân biệt tương đối của thế gian, hễ có một người no tất nhiên phải có
người khác đói, có kẻ được gọi là giàu ắt có kẻ được gọi là nghèo, một người tài
giỏi thông minh ắt có người khác vụng về dốt nát, có sự chiến thắng vinh quang
ắt có sự thất bại ê chề, có cái gọi là vui thì tất nhiên có cái buồn ngược lại.
Nói chung, đó là những cặp phạm trù tất yếu đối lập của thế gian. Tuy nhiên,
đứng về phương diện tâm linh, người viết muốn nói đến địa hạt chứng ngộ, thì
không có sự tương đối, không có những mặt trái thuộc thế gian, niềm vui hạnh
phúc thuộc phương diện tâm linh không thiết lập, không dựa trên nỗi thống khổ
của người khác, đó là niềm vui tuyệt đối cả cho mình và cho kẻ chung quanh.
Vâng, chỉ có ở địa hạt tâm linh con người mới có được sự tuyệt đối. Đạo Phật là
tôn giáo đưa người đến địa hạt tâm linh, ở đó không có luật thay thế, luật bù
trừ, không phải một đoàn thể này mạnh lên để lấn lướt, đè bẹp đoàn thể khác lụi
tàn mà mỗi thành viên của thực thể đều phải biết tự nỗ lực để bước vào địa hạt
tâm linh, phải tự hoàn thiện để cùng nhau gánh vác công việc cho ngôi nhà chung,
làm cho đạo pháp ngày một trở nên hưng thịnh, đoàn thể ni tăng hưng thịnh điều
đó không có nghĩa là đại tăng do vậy mà yếu đi, lu mờ, cũng như đại tăng vững
mạnh không có nghĩa là ni tăng phải bị lu mờ, mà đó là tín hiệu vui, là dấu hiệu
báo cho biết rằng đạo pháp vững mạnh.
2. Khả tính tâm linh của phụ nữ và vị trí của ni tăng
trong giáo hội tăng già:
Cũng như khoa học phát minh rằng, chỉ số IQ của phụ nữ
bằng nam giới, cách đây hai mươi lăm thế kỷ, đức Thế tôn cũng đã từng thấy được
rằng, đạo mà ngài đã chứng được dưới gốc cây bồ đề thì phụ nữ cũng có thể chứng
đắc được, những vần thơ sau đây được trích ra từ Trưởng lão ni kệ của nữ tôn giả
Somà thốt lên khi bà hàng phục được ác ma và chứng đắc thánh quả là những minh
chứng rành rành về điều này:
Nữ tánh chướng ngại gì
Khi tâm khéo thiền định
Khi trí tuệ triển khai
Chánh quán pháp vi diệu
Ở tất cả mọi nơi
Hỷ lạc được đoạn tận
Khối tối tăm mù mịt
Đã bị làm tan nát
Hỡi này kẻ ác ma
Người đã bị bại trận.
Hay như vần kệ của nữ tôn giả Vimalà:
Mọi khổ ách đoạn tận
Cả cõi trời cõi người
Quăng bỏ mọi lậu hoặc
Ta mát lạnh tịch tịnh.
Còn có rất nhiều, rất nhiều những vần thơ khí phách,
hùng hồn, chiến thắng vinh hiển các ác ma để bước vào thánh quả được ghi chép
rất nhiều trong Trưởng Lão Ni Kệ thuộc Tiểu bộ kinh để nói lên sự thật rằng giáo
lý giác ngộ giải thoát của đức Phật không ngoại trừ bất cứ chúng sanh nào, tất
cả đều tùy theo căn cơ mà lãnh hội, và cũng để thể hiện rõ ra bản chất rằng giáo
lý ấy là một giáo lý khế lý khế cơ. Một kỹ nữ, một bà quả phụ mất chồng mất con…
hay một hoàng hậu hoàng phi, công chúa, tiểu thư… đến với Phật giáo cũng nhận
được nguồn pháp tâm linh cao quý. Giáo đoàn ni chúng không phải là những phụ nữ
mong muốn thoát ly gánh nặng gia đình và đời sống phục vụ cam go mà vì họ nhận
được nơi đạo Phật dòng chảy tâm linh gần gũi với bản chất họ. Họ là những phụ nữ
dám bỏ cái bình thường của nhi nữ để đến với cái phi thường của đại trượng phu,
bỏ đi cái yếu tính ủy mị, nặng tình để dõng mãnh một con đường chí khí cô thân,
và duy chỉ có mục đích tâm linh tối thượng mới thôi thúc họ dám từ bỏ tất cả và
nuôi dưỡng họ sống trọn đời mình trong nếp sống phạm hạnh thanh bần. Lịch sử đã
chứng minh cho thấy được điều đó: không phải đoàn thể ni tăng là gồm những người
đau khổ tuyệt vọng, hay trắc trở tình duyên như cô Lan, nàng Kiều… tìm đến một
niềm an ủi của đoàn thể, mà ở đó là có những phụ nữ rất có khả năng về mặt tâm
linh, như Bhaddha Kundalakerin trước kia là môn đệ của Kỳ na giáo, luôn đi khắp
nơi để tranh biện ủng hộ cho giáo phái này, bà đã gặp Xá lợi phất và sau đó gặp
Phật, với nhân cách chói sáng của ngài, Phật đã độ cho bà đắc A la hán quả khi
bà vẫn còn là một nữ cư sĩ, đức Thế tôn đã trực tiếp làm phép nhập đạo cho bà
như phép truyền thống cho một vị Tỳ kheo: “thiện lai, Tỳ kheo ni”. Trường hợp bà
Bhaddhà kàpilàni, một phụ nữ dám từ bỏ đời sống gia đình đang hạnh phúc, dám
xoay mối tình chồng vợ thành tình pháp lữ, nàng đã cùng chồng là Kassapa xuất
gia để cả hai cùng xả bỏ nhau, xả bỏ tất cả để hướng mình vào đời sống chánh
đạo. Một trường hợp khác nữa là bà Dhammadinnà vợ của Visàkha, một Ưu bà tắc đệ
tử Phật, cũng là một bằng chứng về một bậc ni lưu với ý chí hùng lực kiên định,
đầy khả năng tâm linh và năng lực hoằng hóa. Sau khi được chồng đưa đến ni viện
để xuất gia theo chân Phật, bà đã nỗ lực tu tập ngày đêm và đã chứng đắc A la
hán quả. Về sau, bà đã trở về thuyết pháp, tranh biện với chồng về những vấn đề
Phật học, nội dung cuộc tranh biện này đến tai đức Phật, Thế tôn bảo với
Vissakha rằng nếu vấn đề đó ông đem hỏi ngài thì ngài cũng trả lời như bà đã.
Lời của tỳ kheo ni Dhammadinna được xem như chính lời đức Phật, và được liệt vào
Phật ngôn (Bhuddhavacana), sự kiện rất thường xảy ra khi một trưởng lão đệ tử
Phật nào đó thuyết pháp mà lời ấy được đức Phật tán thán và chuẩn duyệt. Đây
không phải là trường hợp duy nhất lời nói của một sư ni được xem là Phật
ngôn.
Quay lại vấn đề khả năng tâm linh của người phụ nữ
được đặt ra ở trước, không ai không công nhận và chính kim khẩu đức Thế tôn thừa
nhận rằng phụ nữ có đầy đủ khả năng về mặt tâm linh có thể chứng thánh đắc quả
mà các ví dụ trên là những gương sáng làm minh chứng hùng hồn cho điều này, bởi
một chân lý bất di bất dịch là “Phật tánh không phân chia Nam Bắc” nói như cách
nói của Lục tổ Huệ Năng, hay: tất cả chúng sanh đều có thể làm Phật như tinh
thần của kinh điển đại thừa.
Về những trọng nghiệp làm chướng ngại thánh đạo, đã là
con người trong chốn bụi hồng ai chẳng có những tính xấu chẳng hạn như tham,
sân, si, nếu nam giới có vẻ nặng về tham sân thì nữ giới thay sân của nam bằng
si vậy. Và những thiện nghiệp để đến gần thánh đạo thì hai giới cũng sở hữu các
yếu tính tương ứng khác hẳn nhau. Nếu trí tuệ, từ bi luôn song hành trong đạo
Phật, trí tuệ được đề cao ở nam giới thì bên cạnh yếu tố trí tuệ đó, đức tính từ
bi hướng về nữ giới, bởi vậy mà về mặt lấy tình thương nhiếp hóa chúng sanh của
đạo Phật, hình tượng bồ tát Quán Thế Âm biểu hiện đức tính từ bi tượng trưng là
hình phụ nữ. Và bên cạnh yếu tính can đảm, ý chí dũng lực của nam giới thì phụ
nữ được quyền sở hữu đức tính nhẫn nại, nhu hòa, bao dung, tha thứ. Bên cạnh đức
uy nghiêm khí phách của nam giới thì nữ giới lấy tính nhũn nhặn khiêm cung làm
yếu tính cho mình… Nói chung, bởi vì vũ trụ vạn vật bắt đầu bằng lưỡng nghi, đã
có nam ắt phải có nữ, không có thế giới duy có nam hay duy có nữ (mà có chăng là
một thế giới không có sự phân biệt nam nữ), mỗi giới có lĩnh vực riêng, phận sự
riêng, và cả hai cùng có những mặt trái như nhau tương ứng. Bởi vậy, mặt trái
của lòng từ bi là phụ nữ phải sở hữu tính si ái ủy mị; ngược với sự nhẫn nhục
nhu hòa là phiền não chấp trước, cố chấp khư khư; mặt trái của sự khiêm tốn là
thái độ nhút nhát ỷ lại, cố xem mình là phải cần lệ thuộc dựa dẫm vào một người
nào khác mới sống nổi… chính những điểm này đã nhốt phụ nữ vào một góc riêng của
cuộc sống trong mọi thời đại, nó đã kéo phụ nữ trì trệ, hạ đẳng như những thành
kiến mà lịch sử xã hội đã từng dành cho, và cũng chính những tính yếu này mà tôn
giáo nghi ngờ khả năng tâm linh của họ (nam giới cũng có những mặt trái dành
riêng cho nam giới). Tuy nhiên, chỉ cần một chữ xả của đạo Phật sẽ đoạn tận các
nhược điểm trên của phụ nữ và thay vào đó là những khả tính đầy hứa hẹn về tâm
linh.
Vâng, bậc thầy tâm linh của chúng ta đã thấy rõ được
điều này, và bên cạnh đó, đạo của ngài, tôn giáo của ngài, được thiết lập ra
trực tiếp cho và vì bốn chúng đệ tử, thuộc cả hai giới xuất gia và tại gia, bốn
chúng nầy là sứ mệnh, là rường cột để gánh vác trọng trách trong việc giữ gìn
ngôi nhà chung, truyền trì chánh pháp luân lưu trong thế gian. Vai trò trực tiếp
của ni tăng trong vấn đề này là tận dụng hết những chức năng thiên bẩm của mình
để góp sức vào cho mục đích chung bên cạnh phần tu tự lợi.
Phàm đã là người xuất gia lìa bỏ gia đình để cất bước
đến chân trời cao rộng, thay gấm vóc lụa là bằng mảnh áo nâu sồng, thay niềm
hạnh phúc cá nhân, gia đình bằng ý hướng tìm cầu trí tuệ giải thoát, tâm ý và
hình nghi khác người thế tục và mục đích phận sự duy nhất là “thiệu long Phật
chủng”. Ni tăng là một thành phần trong giáo hội tăng già dĩ nhiên cũng có một
phận sự không ngoài phận sự chung của người xuất gia.
Bàn về vấn đề Ni tăng không phải chỉ hạn hẹp trong vài
dòng như trên là đủ, trong phạm vi bài viết này người viết chỉ xin đưa ra hai
điều trên, tuy không phải là vấn đề căn bản nhưng là đề tài rất đáng chú ý gần
đây, đặc biệt là vấn đề bát kính pháp. Đức Thế tôn đã từng dạy, tất cả chúng
sanh đều là chủ nhân của chính mình, chúng sanh nào tự gieo nhân thì chúng sanh
ấy tự hưởng quả, không có một quyền lực nào có thể ban phước giáng họa, không ai
có thể sắp đặt số phận cho mình. Tất cả chúng sanh đều phải tự quyết định lấy
đời mình, là phàm hay là thánh, là cao thượng hay là hạ liệt… tất cả đều cần
phải bắt đầu từ những hành động, những nghiệp nhân của chính họ. Vị Tỳ kheo ni
trong giáo đoàn Ni tăng Phật giáo cũng vậy, không cần phải lên tiếng để kêu gọi
bình đẳng đến với mình, mà cần phải bắt đầu từ những hành động, những nghiệp
nhân của chính mình, chấm dứt tất cả những tệ đoan của một nhi nữ thường tình để
vươn lên, chứng minh cho xã hội thấy được năng lực của mình, hiến trọn đời mình
vào sự nghiệp giải thoát tâm linh và hoằng dương chánh pháp. Một khi đã hoàn
toàn là những đại trượng phu xứng đáng giữa trời người thì ngần ấy vị trí tự đến
một cách tương ứng.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN,AUSTRALIA,SYDNEY.12/9/2012.
No comments:
Post a Comment