Thursday 3 November 2011


ĐẠO ĐỨC NGƯỜI XUẤT GIA

(GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA)

Liên Trì Đại Sư

Thích Nguyên Hùng dịch


TỰA

Hôm nọ, lúc tôi chuẩn bị viết bài tựa cho cuốn sách này, có một vị tăng đến thăm, và hỏi rằng:

- Người xuất gia cần phải làm những việc gì?

Tôi tình thật trả lời:

- Cầu đạo, làm đạo.

Vị ấy lại hỏi:

- Cầu đạo, việc căn bản nhất phải làm là gì?

Tôi nói:

- Là tu bồi đạo đức, giới hạnh.

Vị tăng ấy liền nói:

- Ôi, thầy thật là cố chấp! Người thượng căn lợi khí thì nhờ trí huệ mà vào đạo, kẻ hạ căn độn khí thì chỉ có tu phước mà thôi. Cho nên, người xuất gia cần nhất là phải cầu cho được trí huệ, có trí huệ thì tự nhiên đầy đủ tất cả, cần gì phải tu bồi đạo đức, tu tập giới hạnh?

Tôi nghe vậy, lòng vô cùng ái ngại, nhưng vẫn nhỏ nhẹ thật tình:

- Người xưa từng nói, đạo đức là gốc căn bản làm người. Lại nói, ở đời người muốn lập chí lớn, làm việc lớn, trước hết phải tự lượng khí chất và năng lực của mình, huống chi pháp của Phật, bậc Chánh đẳng giác, cao thâm vi diệu, lẽ nào người thường có thể tùy tiện tiếp nhận, lãnh ngộ được sao?

Cũng giống như người có sữa của sư tử, thứ ấy là quý, mà không biết dùng bình lọ quý báu như lưu ly để cất giữ, lại đem bỏ trong mảnh sành, bình đất thì không phải là phí phạm, để cho hư nát hay sao? Lại giống như một người lực sĩ, khiêng chiếc đỉnh nặng ngàn cân, leo lên chiếc thuyền lá bé nhỏ, thì làm sao tránh khỏi cái nạn lật thuyền mà chết?

Ngày nay, người xuất gia có chút ít tri thức, thì đã vội vàng tập tành học cách chú giải, khảo cứu, biên chép… chẳng khác nào những thư sinh nhà Nho chuyên làm con mọt sách. Người có tri thức trình độ hơn chút nữa, thì tầm chương trích cú những lời dạy của cổ nhân, vay mượn một cách máy móc, biên chép lại thành sách rồi cho là của mình; nắm bắt những thứ cặn bả, vụn vặt như ngói gạch phế thải... của chư vị Tổ sư đã bỏ đi, vậy mà cứ cho là của mình sáng tác; thật đúng là làm trò thả hình bắt bóng, chẳng được gì cả, ngược lại còn làm trò cười cho kẻ trí! Những hạng người này, giảng kinh thuyết pháp nghe hùng hồn lắm, mỗi chữ mỗi câu đều phảng phất như lời chư Phật, chư Tổ, rất cao minh, nhưng khảo sát lại hành vi của họ thì chẳng khác nào những kẻ phàm phu tục tử. Thời kỳ mạt pháp, những hạng người bại hoại như vậy thật nhiều lắm!

Tôi rất lo lắng, sợ những người xuất gia rơi vào những tình cảnh nông nỗi như vừa nói trên, cho nên mới sưu tập, ghi chép lại những thiện hạnh của người xưa, trích lấy phần trọng yếu, phân thành mười loại. Mười loại ấy là gì?

Từ bỏ mọi sự nhiễm ô của thế tục, gọi là xuất gia. Xuất gia, điều đầu tiên phải nói đến là sự thanh cao và giản dị, cho nên, thiện hạnh thứ nhất mà người tu phải noi theo học tập là Thanh tố. Nhưng thanh cao mà không nghiêm chính thì chỉ là cái thói làm cao của kẻ cuồng sĩ. Người học Phật nhất định phải thâu nhiếp ba nghiệp thân, khẩu, ý cho thanh tịnh thì mới có cơ hội thành tựu đạo nghiệp, cho nên điều thiện hạnh thứ hai phải học là Nghiêm chính. Hành vi nghiêm chính cần phải nương nhờ thầy chỉ dạy, mới tránh khỏi sai lầm. Người thầy là bậc mô phạm, nuôi dạy ta thành người, cho nên điều thiện hạnh thứ ba là phải Tôn sư. Có cha mẹ sanh ta, nuôi ta lớn khôn, sau mới có thể tiếp nhận sự giáo dục của thầy, quên mất công ơn cha mẹ là bất hiếu, vong bản. Vả lại, giới hạnh luật nghi tuy rất nhiều, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hiếu hạnh, cho nên, thiện hạnh thứ tư là Hiếu thân. Kẻ trung thần xuất thân từ người con hiếu. Đạo lý trung hiếu phải vẹn toàn, chỉ biết có tình thân, không biết có ân quân chủ, quốc gia thì đó là hành vi của người tự tư tự lợi. Trong sách có ghi: “một người có phước, vạn dân đều nhờ”, là ý nói khi có một bậc quân chủ đức độ nhiếp chính thì quốc thới dân an, chúng ta nhờ vậy mà có thể được xuất gia, tự do đi lại khắp núi rừng sông suối để ẩn cư tu tập. Ân quốc gia cũng thật lớn thay! Cho nên, điều thiện hạnh thứ năm là phải trung thành với đất nước, Trung quân. Nhưng nếu chỉ biết đến đạo lý trung quân, tức là chỉ giao tiếp qua lại với các cấp chính quyền lãnh đạo, mà không quan tâm đến nhân dân, những người tín chủ đã ủng hộ mình tu tập thì cũng không tròn đạo lý. Nên cần phải nghĩ nhớ đến những người chân lấm tay bùn, nghèo khổ bần cùng, đó là điều thiện hạnh thứ sáu, Từ vật. Từ và ái rất gần gũi. Người xuất gia mà sinh lòng ái nhiễm là một điều chướng ngại lớn cho việc tu hành, vì vậy, điều thiện hạnh thứ bảy là phải sống cho Cao thượng. Nhưng cao thượng không có nghĩa là cô phương tự phụ. Người xuất gia giữ khoảng cách với mọi người là để yên thân tu tập, một mặt là để trau dồi bản thân, hoàn thành xứ mạng tự độ của mình, sau đó, khi công phu tu tập đã cao thâm rồi thì tự nhiên đạo hạnh sáng rỡ muôn phương, khi ấy là lúc trở lại hóa độ chúng sanh. Đó là điều thiện hạnh thứ tám, Trì trọng. Trì trọng là cẩn thận mà ẩn cư, tìm chốn thanh nhàn vô sự như thế chẳng qua cũng là bất đắc dĩ, vì đạo hạnh chưa thâm, cho nên phải chịu Gian khổ, đó là điều thiện hạnh thứ chín. Tuy nhiên, cũng có người sợ sự gian khổ ở ngoài đời mà tìm đến núi rừng, chùa viện để ẩn cư, trốn tránh việc đời, trở nên những kẻ vô công, ăn nhờ cửa Phật, đó không phải là hành vi gian khổ mà là mượn đạo tạo đời, đạo tâm đã thui chột. Một khi đạo tâm đã thối lui rồi thì không việc ác nào lại không dám làm. Kỳ thật, đạo lý nhân quả báo ứng không chừa một ai, dù nhỏ như sợi lông hạt bụi vẫn chưa bao giờ sai khác. Cho nên, người xuất gia không thể không nghĩ đến nhân quả báo ứng, đó điều thiện hạnh thứ mười, Cảm ứng, tức là phải luôn luôn ghi nhớ luật nhân quả.

Mười điều thiện hạnh trên đây nếu tu tập đầy đủ thì đạo hạnh mới hoàn thiện, mới trở thành nhân tài có thể kham nhận Phật pháp. Cũng giống như đất đai đã được cải thiện phì nhiêu, mầu mở rồi sau đó mới có thể trồng cây, gieo hạt được tốt tươi. Đất tâm cũng vậy, một khi đã được tinh thuần rồi thì đạo lý mới có thể tin hiểu, thọ trì; đạo lớn bồ đề chí cao vô thượng mới có thể kỳ vọng thành tựu. Nếu không như lời trên đây để tu hành thì chỉ là một phường phàm phu bỉ lậu mà thôi!

Đạo lý làm người mà không làm được, thì làm sao học làm Phật? Dù thầy là người thượng căn lợi khí, rất mực tài trí thông minh đi nữa, cũng chỉ có hại mà thôi. Trí lực càng cao, chướng ngại càng lớn, tu hành càng khó thành tựu. Người không có đạo hạnh như vậy làm sao có thể làm người xuất gia tu hành?

Khi tôi nói xong mấy lời trên đây thì vị tăng ấy lại nói:

- Diệu pháp tu tập của tôi là một hạt bụi không lập, xưa nay không một vật, bụi bặm báo vào đâu? Mười thiện hạnh của ngài đem dùng vào chỗ nào?

Tôi trả lời:

- Rõ ràng là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đang thiêu đốt mạnh mẽ, rối loạn khắp nơi; bốn đại địa, thủy, hỏa, phong đang gây phiền phức khắp chốn, sao lại nói không có vật gì?

Vị tăng ấy cãi:

- Bốn đại vốn không có tướng, năm uẩn vốn chẳng có thật.

Tôi nghe vậy liền bước đến trước thầy ấy đánh cho một tát, nói:

- Hiện nay, kẻ học đòi lời lẽ của người xưa để biểu thị kiến giải của mình rất nhiều. Thầy đáp chưa trúng vào đâu cả, hãy thử dùng kiến giải của chính bản thân thầy đáp lại tôi xem.

Vị tăng ấy không đáp được, giận dữ bỏ đi. Khi ấy tôi cười mà nói:

- Bây giờ trên mặt thầy đầy vẻ giận dữ, đó chính là bụi bẩn của bốn đại và năm uẩn đấy, sao thầy không lau đi!

Người xuất gia cần phải chú ý! Lên cao phải tự biết mình bé nhỏ, chớ nên tự đại, đừng vọng nói Bát nhã, lạm giải Tánh không mà tự chuốc lấy tai ương. Và, ngàn vạn lần xin khuyên người xuất gia đừng vì một chút danh lợi bèo bọt, hư vinh mà tham đắm. Hãy tu dưỡng phẩm hạnh đạo đức của mình, đem hết tâm lực tinh thần mà tu tập, quyết một phen sống chết, lâu ngày tự nhiên tâm được bừng mở, cửa ngỏ giác ngộ bước đến nơi, sau đó mới có được sự thể hội chân chính, không bỏ vạn hạnh cũng chẳng nhiễm trần; suốt ngày không chấp không mà cũng chẳng chấp có, đó chính là đạo lý đệ nhất nghĩa đế: chân không diệu hữu. Đây mới là trí tuệ chân thật của nhà Phật. Xin những người xuất gia hãy một lần để tâm tham cứu.

Tôi rất lấy làm hỗ thẹn vì đạo lớn vẫn còn chưa thể hội, thêm nữa đức hạnh mỏng manh, viết cuốn sách này, mục đích chủ yếu là muốn cứu vãn những căn bệnh của người xuất gia ngày nay, để báo đáp ân đức của chư Phật mà thôi. Người có trí thấu tình đạt lý, nếu không vì chỗ nông cạn của tôi mà bỏ qua những sơ xuất, hy vọng còn lưu thông cuốn sách này để cho mọi người tu thiền tham cứu thì thật là quý báu biết bao!

    

   

    


Chương: Lời Nói Đầu || Tiểu Sử Đại Sư Liên Trì || Tựa || 01|| 02 || 03 || 04 || 05 || 06 || 07 || 08 || 09 || 10.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).

No comments:

Post a Comment