Wednesday 9 July 2014

22 Oai nghi chính của Sa Di.

Oai nghi là cung cách hành xử của Sa Di.
1. Kính Tam Bảo: Kính Phật, kính Pháp và kính Tăng:
Kính Phật là tỏ lòng tôn kính Thế Tôn qua các cử chỉ hằng ngày trước ảnh, tượng Thế Tôn; và tỏ lòng tôn kính trí tuệ giải thoát của tự thân.
Kính Pháp là tôn kính các lời dạy của Thế Tôn (tôn kính kinh điển), và tôn kính tâm thanh tịnh cũng như đời sống phạm hạnh của tự thân, biểu hiện qua các hành động cử chỉ hằng ngày.
Kính Tăng là tôn kính chư đại đệ tử của Thế Tôn thời Thế Tôn tại thế, tôn kính đoàn thể Tăng già hiện tại, và kính trọng sự hòa ái trong đời sống xuất gia.
Oai nghi này nhằm nuôi dưỡng lòng tôn kính của người tu.
2. Kính đại Sa môn:
Bao gồm các cử chỉ cụ thể như:
- Tránh việc gọi thẳng tên của đại Tăng.
- Không nghe lén giới Bồ tát và Tỷ kheo.
- Nhường lối đi và tỏ vẻ cung kính trước đại Tăng, trừ các lúc đọc kinh, lúc ăn, lúc bệnh và lúc làm việc của Tăng chúng.
- Không được nói lỗi của chư Tăng.
- Không làm các việc gây phiền muộn cho chư Tăng.
Oai nghi nầy nhằm nuôi dưỡng tâm kính trọng người trên.
3. Thờ thầy:
Việc phục vụ bậc thầy hướng dẫn xuất gia bao gồm các việc cụ thể có quy định, như:
- Hết lòng thương kính thầy.
- Vâng lời thầy dạy.
- Gần gũi thầy để nhận sự chỉ dạy đúng luật, pháp.
- Ngủ sau thầy và thức dậy trước thầy để giúp thầy các việc cần thiết.
- Ðằng hắng hay búng tay (hoặc gõ cửa nhẹ) trước khi muốn vào phòng thầy. Nếu thầy cho phép và mở cửa, mới vào.
- Lúc đứng hầu cạnh thầy, chỉ thưa chuyện khi thầy hỏi. Ðứng yên lặng mà không dựa hay ngồi.
- Lúc thầy hành thiền, thọ thực, vệ sinh, ngủ nghỉ, tắm rửa, kinh hành, thì không được thi lễ.
Oai nghi này dạy cung cách hầu thầy rất tế nhị.
4. Theo thầy đi ra ngoài:
Thực hiện các điều:
- Không ghé qua nhà khác ở dọc đường.
- Không dừng nói chuyện dọc đường.
- Ði không quay nhìn hai bên đường.
- Ðến nhà đàn việt, chỉ ngồi khi thầy bảo; nếu không thì chỉ đứng sau lưng thầy.
- Ðến chùa khác, không được tự tiện sử dụng các pháp khí, nếu không được chùa yêu cầu.
- Dọc đường thường nghĩ tưởng các pháp là vô ngã, vô thường và không thật để khỏi bị các sắc trần quyến rũ.
Oai nghi này dạy tác phong nghiêm chỉnh, lịch sự và tâm giác tỉnh giữa quần chúng.
5. Vào chúng:
Giữa chúng Tăng Sa Di thực hiện các điều:
- Không tranh chỗ ngồi,
- Không gọi với, không nói hay la lớn tiếng;
- Không nói điều xấu của người khác; chỉ nói các điều tốt.
- Không đánh giá người khác qua hình tướng bên ngoài.
- Vấn đề tiểu, dãi cần tế nhị, kín đáo.
- Không nói nhiều, không cười nhiều.
- Ðứng ngồi ngay ngắn nghiêm chỉnh.
- Khi ngáp thì che miệng. Khi ho cũng thế.
Oai nghi này dạy cung cách lịch sự.
6. Dùng cơm trong chúng:
- Nghĩ đến ' năm điều quán niệm'.
- Không nói chuyện tạp khi ăn; không cười đùa.
- Không lấy đồ ăn cho riêng.
- Không gọi đem thêm thức ăn.
- Ðồ ăn đem thêm, nếu không bảo thì không dùng.
- Không vừa nhai vừa nói.
- Khi no thì chỉ ra dấu từ khước lời mời dùng thêm.
- Lấy tay che miệng lúc xỉa răng.
- Không gây khua muỗng, bát khi ăn.
- Trong thức ăn nếu có 'vật lạ' thì lặng lẽ dấu bỏ.
- Rời bàn ăn xong không trở lại ăn thêm.
- Không tự động rời bàn ăn trước.
Ðó là các cử chỉ lịch nhã, tế nhị.
7. Lễ bái:
- Không tranh chỗ giữa điện khi thi lễ,
- Tay chắp nghiêm chỉnh,
- Lễ bái đúng lúc,
- Tay cầm kinh,tượng thì không thi lễ.
8. Học tập kinh điển:
- Học giới luật trước khi học kinh.
- Không cười đùa đối với kinh, luật.
- Không để thức ăn xen lẫn vào kinh sách.
- Tôn kính kinh điển, không dùng miệng thổi bụi trên kinh.
Oai nghi này dạy tôn kính giới và kinh là hình thức dạy tôn trọng giải thoát.
9. Nghe thuyết giảng Phật pháp:
- Y phục chỉnh tề.
- Ngồi ngay ngắn.
- Không chuyện trò, ho hen hay qua lại trong phòng giảng.
- Nghe là cốt hiểu lý, sự mà không vụ lời lẽ văn hoa.
- Rời phòng giảng sau Pháp sư.
Oai nghi nầy bày vẽ cung cách của một người nghe pháp lịch sự, vừa cung kính pháp, vừa tôn kính Pháp sư.
10. Vào tự viện:
- Không đi vào bằng lối giữa của cửa chính; đi vào lối hai bên.
- Nhiễu tháp thì nhiễu bên phải.
- Không để nón, gậy, dép dựa vào tường của chánh điện.
- Không ngồi duỗi chân trong chánh điện.
- Không thô động.
11. Theo chúng vào thiền đường:
- Không nói lớn tiếng.
- Ði, đứng, cử động nhẹ nhàng.
- Không lấy dùng riêng các vật để trên điện, bàn thờ.
12. Làm việc:
- Giữ gìn của chung của Tăng Chúng.
- Múc nước phải sạch tay và nhẹ nhàng.
- Rửa rau sạch sẽ; thay nước ba lượt.
- Ðun bếp, không dùng củi hư thối.
- Giữ tay sạch khi làm bếp.
- Không vứt các rác bẩn giữa lối đi.
- Không quét rác ở đầu gió.
- Không đổ nước sôi, nước nóng trên đất làm chết trùng.
13. Vào nhà tắm:
Tế nhị giữ ý tứ trong các việc:
- Tắm một mình.
- Nhẹ nhàng không ồn ào.
- Giữ vệ sinh phòng tắm.
- Giữ tâm niệm không buông lung.
14. Vào nhà xí:
- Sử dụng dép riêng vào nhà xí.
- Vào nhà xí một mình.
- Ðánh tiếng trước khi vào phòng xí.
- Nếu có người, thì lặng lẽ ở ngoài chờ; không được thôi thúc.
- Xong việc, cần rửa tay sạch với xà phòng.
15. Nằm ngủ:
- Ngủ một mình (không ngủ chung chăn, chung giường)
- Nằm nghiêng về bên hông phải.
- Không ngủ trong điện tháp.
- Không nói chuyện khi nằm.
- Niệm Phật, Pháp, Tăng, Tín, Thí, Giới, Thiên và vô thường trước khi ngủ.
Oai nghi này dạy cung cách của người tu lúc ngủ và giữ niệm giác tỉnh trước khi ngủ.
16. Vây quanh lò bếp:
- Không châu đầu nói chuyện.
- Không hơ, sấy giày, vớ.....
- Không choáng chỗ ngồi của người khác.
- Giữ gọn gàng sạch sẽ.
17. Trong phòng ở:
- Chào hỏi khiêm hòa.
- Tận tình coi sóc bệnh nhân (tu sĩ).
- Không tự tiện vào phòng riêng của người khác.
- Không ho, khạc nhổ không đúng chỗ làm mất vệ sinh.
- Không hý luận.
18. Ðến nhà Phật tử:
- Chỉ ngồi chỗ dành riêng cho mình.
- Không nhìn trái, phải.
- Không nói chuyện riêng với tớ gái.
- Nếu Phật tử hỏi kinh cần thận trọng nói đúng lúc.
- Thái độ tự nhiên mà nghiêm chỉnh; không làm ra dáng vẻ thiền gia (trá hiện oai nghi).
- Không thọ trai trong bếp, phòng vắng, chỗ bị ngăn che.
- Không trao thư từ qua lại.
- Không kết nghĩa cha mẹ, chị em, anh em với người đời.
- Không quản lý giúp việc nhà của Phật tử.
- Giữ gìn tín tâm cho người đời, không nói lỗi của nhà chùa và của người khác.
Oai nghi này hướng dẫn cung cách mô phạm, tế nhị biểu hiện minh bạch thái độ sống phạm hạnh.
19. Khất thực:
- Ði khất thực chung với bậc lão thành lớn tuổi
- Giữ oai nghi.
- Tránh ngồi các chỗ có binh khí , bảo vật.
- Không thuyết phục người cho mình thức ăn.
- Ði đứng đoan nghiêm.
20. Vào làng xóm, phố thị:
- Có duyên sự mới vào.
- Giữ oai nghi đi đứng.
- Không cùng đi với các phụ nữ.
- Không nhìn liếc các phụ nữ.
- Không đi gần các người say rượu.
- Không dừng lại xem các trò ảo thuật, du hí.
- Không cỡi ngựa, nếu không vì công việc quá khẩn thiết.
- Gặp bậc tôn túc thì cung kính nhường lối.
- Tránh gặp các quan quyền lớn nhỏ.
- Về chùa không kể chuyện hoa mỹ của làng xóm, phố thị.
Oai nghi này, tương tự oai nghi 18, 19, hướng dẫn cung cách nghiêm chỉnh, mô phạm và tế nhị của người xuất gia.
21. Mua hàng:
- Không trả giá, không tranh đắc, rẻ.
- Hứa mua hàng của ai thì phải mua, không vì hàng của người khác rẻ hơn mà mua.
- Không mua chịu; không bảo lãnh người khác mua chịu.
Cách mua hàng ấy biểu hiện tư cách đứng đắn, lịch sự của một xã hội có tổ chức, văn minh. Ngày nay, để tiện việc mua bán, các hàng đã được ấn định giá cả.
Người tu hành trọng chữ tín mà không vì lợi; kính trọng con người hơn là giá cả hàng hóa.
22. Làm việc không được tựĩ tiện:
- Các việc đi ra ngoài, giao tiếp bên ngoài, cần được thỉnh ý thầy và nếu được thầy đồng ý.
- Nhận quà tặng cần được thông qua thầy và nếu thầy hoan hỷ đồng ý.
- Cho người khác mượn các vật dụng của nhà chùa cần qua quyết định của thầy.
Oai nghi này hướng dẫn khuôn phép cho một Sa Di trong một số tương hệ với bên ngoài.

Hai mươi oai nghi trên chỉ là những oai nghi tiêu biểu. Nội dung chỉ xây dựng người Sa Di có cung cách của một người xuất gia thể hiện các điểm chính:
- Thể hiện lòng cung kính; tôn sùng giải thoát
- Phạm hạnh và tế nhị trong các việc nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi.
- Chân thật, tế nhị và lịch sự đối với người đời.
- Tránh tranh cãi phải trái; tránh các ngộ nhận và phiền phức có thể xẩy đến cho người tu.
Thầy pháp huynh từng cắt nghĩa rõ ràng từng oai nghi cho các Chú. Thầy kết luận đó là cách sống tế hạnh. Nhờ tế hạnh mà các vọng tâm dễ chìm lắng. Các Chú đã được phép mổ xẻ các oai nghi, nêu ra các vướng mắc.
Chú Tâm Tín bạch, "Bạch thầy, chư Tổ dạy người Sa Di biểu lộ sự tôn kính kinh điển như tôn kính Phật, đến nỗi không nên dùng miệng thổi bụi trên kinh. Tại sao lại có thiền sư nói 'kinh điển như giẻ rách', con không hiểu?"
-- "Ðó là việc của thiền sư. Sa Di tôn kính Pháp là tôn kính giải thoát. Vị thiền sư dù nói thế, vẫn biểu lộ lòng tôn sùng giải thoát; nhưng cách biểu lộ khác đi. Như một bà mẹ nựng con mà bảo:"Má ghét con quá đi!", nhưng đó là sự biểu lộ tình thương con đậm đà của bà.
Không phải lúc nào vị thiền sư ấy cũng nói bạo thế. Người chỉ nói vào một lúc nào đó với một vị thiền sinh quá chấp chặt chữ nghĩa nào đó, cốt để phá tâm chấp thủ của vị thiền sinh. Thế thôi.
Nếu nói nhẹ hơn thì nói "kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng". Nếu chấp chặt ngón tay là mặt trăng thì thà chặt phức ngón tay đi. Thay vì nói thà chặt phứt ngón tay đi, thì nói "kinh điển như giẻ rách".
Ðừng đi xa khỏi phạm vi hạnh Sa Di. Hãy chờ cho đến khi công hạnh thuần thục sẽ hiểu các vấn đề tương tự cũng chẳng muộn. Hòa thượng há không dạy chư Tăng hành sự thuần thục trước khi đi vào kinh,luận đó sao?"


Văn Cảnh Sách

Văn Cảnh Sách là phần sách tấn tu tập. Ðó là tiếng nói trí tuệ của một tu sĩ từng trải qua lộ trình giải thoát để lại kinh nghiệm cho thế hệ sau: một sự chọn lựa độc nhất đi thẳng đến giải thoát, như con suối chảy thẳng về phía trước. Nội dung của bản văn bao gồm năm điều cảnh giác:
1. Ðiều cảnh giác thứ nhất:
Cần thấy rõ thân năm uẩn này là vô thường để lìa xa tham ái. Không nỗ lực tu tập mà khăng khăng giữ nó, thì rồi nó cũng từ bỏ mình, để mình lại đằng sau sinh tử , khổ lụy.
2. Ðiều cảnh giác thứ hai:
Ðã vì mong cầu giải thoát mà từ giã thân thuộc, những tình cảm thân thương nhất, thì không vì lý do gì mà lại không tinh cần tu tập ?
3. Ðiều cảnh giác thứ ba:
Ðã là người xuất gia, thì cần biểu hiện xứng đáng nghĩa xuất thế về hai mặt thân và tâm. Cần biết hổ thẹn về việc không làm những gì cần phải làm.
4. Ðiều cảnh giác thứ tư:
Nếu biếng tu, vụng tu thì sẽ nhận lấy hậu quả đau khổ trong hiện tại và đau khổ trầm luân.
5. Ðiều cảnh giác thứ năm:
Làm các việc xuất thế:
- Tự phá tan si ám của mình; tinh cần thực hiện giải thoát tự thân qua thiền định.
- Nhận lãnh sứ mệnh hoằng dương chánh pháp
Bài văn Cảnh Sách không dài, nhưng chứa đựng nhiều kinh nghiệm tu tập. Ngôn ngữ đầy văn chương mà thiết tha... không có vị Sa Di nào không học thuộc nằm lòng.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.10/7/2014.

NĂM ĐỨC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA:
Qua phần khảo sát trên (phần I), chúng ta đã nắm được phần nào những điểm đặc trưng cho đời sống xuất gia cũng như biết được một số điều đắc-thất trong các lối hành xử của người mặc pháp phục. Bước sang phần II này, chúng ta sẽ khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục mà mình đang mặc.

Theo tự điển Thiều Chữu, chữ ĐỨC có nghĩa là đạo đức, là cái đạo để lập thân, là thiện, là ân, là cái khí tốt (vượng) trong 4 mùa. Nho gia thì cho rằng: đức là cái gốc của muôn hạnh cũng là cái gốc để con người lập thân (Đức gỉ bổn dã). Theo đó mà suy: Năm đức của người xuất gia chính là một trong những nền tảng để lập công hạnh xuất thế. Kinh Phước Điền còn gọi NĂM ĐỨC này là NĂM TỊNH ĐỨC, ý nói đây là năm hạnh thanh tịnh của người mặc pháp y. Nhờ hành xử ứng hợp với năm đức này mà người xuất gia được xưng tán là bậc mô phạm của trời người, là ruộng phước của nhân gian…

Lời ký trong Sa di luật giải có chép: “Người xuất gia chẳng bị thế lực nhà vua ép bức, chẳng vì tham cầu mạng sống, chẳng vì lánh nạn, chẳng vì thiếu nợ, vốn vì mong cầu chánh pháp, vì lòng chánh tín mà vào trong của Phật Pháp nên gọi là HẢO TÂM XUẤT GIA”.

Người hảo tâm xuất gia như vậy có 5 tịnh đức:
• Phát tâm xuất gia, hoài bội đạo cố.
• Huỷ kỳ hình hảo, ứng pháp phục cố.
• Cát ái từ thân, vô thích mạc cố.
(Vĩnh cát thân ái, vô thích mạc cố)
• Uỷ khí thân mạng, tôn sung đạo cố.
• Chí cầu Đại thừa, vị độ nhân cố.
Chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của 5 tịnh đức này:

1) – PHÁT TÂM XUẤT GIA HOÀI BỘI ĐẠO CỐ:
(Phát tâm xuất gia vì thiết tha với đạo pháp)
Bàn về sự phát tâm trong Khuyến Phát Bồ Đề tâm văn có chép “Thường văn :
Nhập đạo yếu môn phát tâm vi thủ, tu hành cấp vụ lập nguyện cư tiên. Nguyện lập tắc chúng sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành. Cẩu bất phát quảng đại tâm lập kiên cố nguyện, tắc túng kinh trấn kiếp y nhiên hườn tại luân hồi; tuy hữu tu hành tổng thị đồ lao tân khổ”

(Từng nghe: cửa thiết yếu vào đạo lấy sự phát tâm làm đầu, việc cấp thiết tu hành đặt sự lập nguyện ở trước. Nguyện có lập thì chúng sanh có thể độ; tâm có phát thì Phật đạo mới kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập nguyện kiên cố thì dẫu trải qua trăm ngàn muôn kiếp vẫn mãi quanh quẩn trong vòng luân hồi. Dù có tu hành cũng chỉ luống công khổ sở)

Trải xem: các ngôi Phật tổ đều nhờ “phát quảng đại tâm lập kiên cố nguyện” mà thành tựu Diệu quả Vô thượng Bồ Đề (như Phật Di Đà với 48 lời nguyện, Phật Dược Sư với 12 lời nguyện v.v…) và gần gũi nhất là Đức Bổn Sư Thích Ca, trong kiếp cuối cùng làm thái tử Tất Đạt Đa nhân phát tâm “tìm con đường thoát khổ cho muôn loài” mà vượt thành xuất gia, dưới cội Bồ Đề lập nguyện kiên cố mà chiến thắng ma quân thành tựu đạo quả giác ngộ.

Xem thế đủ biết: với người Xuất gia, việc phát tâm lập nguyện rất là quan trọng. Vào rừng bắt cọp hẳn phải là người có “lá gan to”, xuống đầm bắt rắn không thể là người có “túi mật nhỏ”. Thế thì, muốn thành tựu được đại sự, đều tiên quyết là phải phát khởi đại tâm. Đặc biệt, với người hảo tâm xuất gia, thì đại tâm ấy được phát khởi như thế nào? Theo Tỉnh Am đại sư, đại tâm ấy tức là 4 loại tâm nguyện: chánh, chân, đại, viên mà chúng ta đã khảo sát ở phần trên (“Các loại học đạo”). Lại nữa, theo Khởi Tín Luận, có 3 loại phát tâm:

1) Trực tâm: tâm thường chất trực, lìa các sự gièm xiệm dày vò, hay thực hành
chánh pháp, thẳng tiến đến đạo giác ngộ.
2) Thâm Tâm: tâm sanh lòng tin sâu vào chánh pháp, vui với tất cả hạnh lành.
3) Đại bi tâm: tâm từ bi thương xót tất cả nỗi khổ đau của chúng sanh, thường

nghĩ tìm phương pháp cứu độ khiến cho chúng sanh được an vui.
Người hảo tâm xuất gia là người phát tâm ứng hợp với các loại tâm này. Tại đây, duyên do để phát khởi các tâm này là “lòng thiết tha mộ đạo và thiết tha được nắm giữ giềng mối đạo”.
Phu chú: Theo tự điển Thiều Chữu, chữ BỘI có 2 nghĩa : 1. Đeo, mang; 2. Nhớ mãi- Do đây mà có 2 thuyết dịch về nhóm từ “Hoài bội đạo”:

1) - Cảm mến đạo pháp.
2) - Gánh vác diệu đạo.
Để dung hợp 2 thuyết này, xin tạm dịch “Hoài bội đạo” là “thiết tha với đạo pháp”. Vì trong “thiết tha” tức đã có cảm mến; và vì đã thiết tha hẳn phải lo gánh vác.

Chữ ĐẠO ở đây chỉ cho DIỆU ĐẠO (đạo mầu), ĐẠI ĐẠO (đạo cả), đạo Giác ngộ, đạo giải thoát…, là con đường chân chánh hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt. Đi theo đạo này phải là người lập công hạnh tự giác, giác tha và tiến tới giác hạnh viên mãn (noi theo con đường chư Phật đã đi). Lại nữa, cũng có thể hiểu chữ ĐẠO này là “ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng”. Trong kinh Phât thường nói Tam Bảo là phước điền là chỗ qui ngưỡng của tất cả chúng sanh. Chỉ có Tam Bảo mới đủ năng lực giúp chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi. Giữa đêm trường tăm tối, người ta mơ ước có được ánh đèn soi đường; nổi chìm chới với giữa bể khơi, người ta mong đợi chếc bè cứu mình khỏi chết đuối. Cũng vậy, được về nương tựa ngôi Tam Bảo, nương tựa cửa Thiền để tấn tu đạo nghiệp giải thoát là niềm hoài vọng, khát khao của người hảo tâm xuất gia. Với niềm hoài vọng thiết tha ấy, sau khi xuất gia, vị này dốc hết tâm chí học đạo, hành đạo và làm hưng thạnh đạo pháp.
Cũng vì thiết tha với diệu đạo này mà xưa kia thái tử Tất Đạt Đa khi còn ở hoàng cung đã bao đem thức trắng”suy tư tìm mối đạo”, khi vượt thành xuất gia thì chẳng quảng khó nhọc “tầm sư học đạo” và khi đã giác ngộ rồi thì không từ chối nhọc mệt để “ban rải ánh đạo”. Ánh đạo mà ngài ban rải cho nhân gian đến nay đã hơn 25 thế kỷ mà vẫn còn tỏa sáng và lại càng lan rộng trên khắp toàn cầu. Tiếp nhận ánh đạo ấy cũng tức là tiếp nhận thông điêp “từ bi và trí tuệ”.

Là người lãnh thọ đạo pháp của Phật, là sứ giả của Như Lai, chúng ta có trách nhiệm lưu truyền rộng rãi thông điệp ấy. Đặc biết, để xứng đáng là “người lãnh thọ đạo pháp của Phật” chúng ta phải tâm tâm niệm niệm lời giáo huấu sau đây của ngài:
“Bác văn ái đạo, đạo tất nan hội
Thủ chí phụng đạo, kỳ đạo thậm đại”
(Học rộng mến đạo, đạo ắt khó gặp
Thủ chí hành đạo thì đạo kia rất lớn)

Ở thế gian, người học rộng là người thông suốt nhiều môn học, có kiến thức rộng rãi đối với các khoa: tâm lý học, thiên văn học, ngôn ngữ học, đạo đức học v.v…Trong đạo, người học rộng là người quảng kiến tam tạng giáo điển (như Bát Đại Nhân Giác chép: “…quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tự biện tài…”). Tuy nhiên, nếu học rộng nghe nhiều mà không thực nghiệm tâm linh, không ứng dụng vào việc làm, tri hành không hợp nhất, hạnh giải không tương ưng thì khó mà đến được chỗ cao tốt của đạo. Người xưa thường nói: “Tu mà kh ông học là tu mù, học mà không tu thì chẳng khác nào cái đãy đựng sách”. Kẻ nào vì mến đạo mà chuyên trau giồi kiến thức, ứng dụng sở tri vào việc ngôn tránh hý luận, dựa nương vào đạo để vun bồi lợi ích cá nhân (danh vị, lợi dưỡng), không khéo kẻ ấy sẽ trở thành người phá đạo, làm hoen ố đạo và dần dần sẽ cách xa đạo. Quảng học đa văn mà không lập chí hướng thượng thì chỉ làm mồi cho ngũ dục (chay theo dục lạc thế gian) đôi lúc lại sa vào chỗ cao tâm (tăng thượng mạn) như con thiêu thân vì ham ánh sáng mà bay tấp vào ngọn đèn khó lòng tránh khỏi cái họa bị lửa đốt. Tiếc thay cho những kẻ mãi vẩn vơ hái hoa bắt bướm ở hai bên vệ dường mà quên rằng mình định đi đâu, đâu là chổ đến, làm uổng phí công la những người dọn đường và chỉ lối!

Người phát tâm xuát gia vì lòng “hoài bội đạo” quyết không thể là hạng người như trên mà phải là người “thủ chí phụng đạo”. Người thủ chí phụng đạo là người biết an trú vào hạnh viễn ly, vượt khỏi phàm tình, không đám say lạc thú ở đời, hằng sống trong chánh niệm tỉnh giác, an bần thủ đạo. Gian khổ không làm cho họ sờn lòng, thử thách không làm cho họ nản chí. Ngày cũng như đêm, người “thủ chí phụng đạo” chuyên tâm hành trì thiện pháp, tự lợi tha, luôn bảo hộ đạo và sẵn sàng dâng hết thân tâm cho đạo.

“Dầu phải chịu muôn ngày gian khổ
Con dốc long vì đạo hy sinh”
Được vậy mới thực sự là người “hoài bội đạo”, là người dõng mãnh phát tâm xuất gia, xứng đáng với tịnh đức đầu tiên này.

2) - HUỶ KỲ HÌNH HẢO ỨNG PHÁP PHỤC CỐ:
(Xả bỏ hình tướng tốt đẹp để xứng hợp với pháp phục)
Pháp phục của người xuất gia chính là pháp y là giải thoát phục, là phước điền y.

• Giải thoát phục là y mặc của người cầu đạo giải thoát. Người mặc áo giải thoát là người lìa sự rang buộc của hoặc nghiệp, thong dong vô ngại, xa lìa quả khổ 3 cõi, không bị câu thúc bởi những hệ luỵ thế gian, tuỳ duyên biến hóa, tự tại đối với các pháp.

• Phước điền y là đức danh của ca sa bởi vì những điều tướng của ca sa giống những mảnh ruộng phì nhiêu. Ruộng có ý nghĩa “sanh trưởng” khiến cho mình và người đều được lợi ích. Như người nông phu gieo giống thì việc thu hoạch có hy vọng.
Tăng Huy ký chép: “Bờ đê giữ nước làm tăng trưởng mạ xanh để nuôi sống con người, rộng pháp y thấm nhuần bốn thứ nước lợi ích làm tăng trưởng gốc mạ ba thiện căn, nuôi lớn pháp thân tuệ mang”

Với những ý nghĩa trên, 2 chữ pháp phục là từ dùng để chỉ cho pháp y mà người xuất gia mặc khi hành lễ (theo Bắc tông) hoặc mặc cả khi đi đường (theo khất sĩ). Bất luận là y 5 điều (An-đà-hôi) hay 7 điều (Uất-đa-la-tăng) hay 9 điều (Tăng-già-lê) thì 2 câu đầu của bài kệ trước pháp y vẫn là:

“Thiện tai giải thoát phục
Vô thượng phước điều y”
(Lành thay áo giải thoát
Áo ruộng phước vôthượng)

Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: người mặc pháp y phải là người ly triền thoát phược, xứng đáng là ruộng phước cho chúng sanh gieo giống lành gặt quả tốt.
Không riêng gì pháp y (mặc khi hành lễ), ngay cả trang phục bình thường, người xuất gia khi mặc đều hướng tâm đến việc tăng trưởng các thiện căn (vô tham, vô sân, vô si):

• “ Nhược trưóc thượng y - Đương nguyện chúng sanh
Hoạch thắng thiện căn - chí pháp bỉ ngạn

• “ Trước hạ quần thời - Đương nguyện chúng sanh
Phục chư thiện căn - Cụ túc tàm quý”
( * Bằng mặc áo trên - Cầu cho chúng sanh
Đặng căn lành tốt - Đến pháp bờ kia
* Khi mặc quần dưới - Cầu cho chúng sanh
Mặc các căn lành - Khẳm đủ xấu hổ)
Theo đó mà suy: áo pháp của Phật hình thức tuy thô sơ, đạm bạc, nhưng kẻ tầm thường đâu dễ mặc được!
Lại nữa, trong một ý nghĩa sâu xa, thì “pháp phục” của Phật là một chiếc áo vô hình không được may bằng vải. Giả như có may bằng vải thì vải ấy không hề được dệt bằng chỉ bằng tơ mà là lại dệt bằng các “thiện công đức”. Áo pháp ấy tức là áo thiện pháp: áo nhẫn nhục, áo tàm quy.

• Trong kinh Pháp Hoa, khi nhắc đến việc “người hoằng pháp phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi toà Như Lai”, Đức Phật đã tuyên bố “nhẫn nhục” là Pháp y của ngài qua đoạn kệ:
“Từ bi lớn làm nhà
Y nhu hoà nhẫn nhục
Các pháp không làm tòa “ [5]

• Trong kinh Di Giáo, khi thuyết minh thắng hạnh của “tàm quý” Đức Phật đã nói:
“Tàm sỉ chi phục ư chư trang nghiêm tối vi đệ nhất.
Tàm như thiết câu năng chế nhân phi pháp”
(Áo mặc hổ thẹn, đối với các thứ trang sức rất là hơn hết
Hổ thẹn ví như móc sắt có thể ngăn ngừa sự phi pháp của người)
Qua đây, chúng thấy rằng: Pháp phục của người xuất gia có hai loại:

1 - Pháp phục là Thiên Pháp y: tức chỉ cho y cắt rọc, vải thôi
sơ, nhuộm màu hoại sắc có những đường viền như những thửa ruộng. Mặc y này là người sống với hạnh thiểu dục tri túc, chuyên tu tạo pháp lành hầu xứng đáng là ruộng phước cho nhân gian.

2 - Pháp phục là Thiên Pháp: áo pháp này giúp người học đạo trang nghiêm pháp thân, đi theo khuynh hướng “bội trần hiệp giác”.
Chính vì muốn làm ruộng phước cho nhân gian, tăng trưởng các thiện pháp, nuôi lớn giới thân tuệ mang, ngược dòng sanh tử thuận bờ Niết Bàn, người xuất gia huỷ bỏ những hình thức trang sức tốt đẹp ở thế gian, cạo tóc nhuộm áo, theo thầy học đạo.

Kinh Di Giáo có đoạn chép:
“ Nhữ đẳng Tỳ kheo đương tự ma đầu, dĩ xả sức hảo, trước hoại sắc y, chấp trì ứng khí, dĩ khất tự hoạt, tự kiến như thị, nhược khởi kiêu mạn, đương tật diệt chi”.

(Tỳ kheo các ông! Hãy tự xoa đầu, đã bỏ những đồ trang sức tốt đẹp, mặc áo hoại sắc, mang bình bát để khất thực nuôi mình, tự thấy như vậy, nếu còn khởi kiêu mạn phải mau diệt nó đi)
Đoạn kinh trên cho thấy: người xuất gia sở dĩ “huỷ kỳ hình hảo” chính là để làm người “tâm hình dị tục” (thân và tâm đều khác với người đời). Thân khác tục nhắc nhở ta phải sống một nếp sống “bạt tục siêu quần”. Tâm khác tực không cho phép ta vọng khởi những pháp uế nhiễm, hạ liệt như phàm tình. Đây chính là nếp sống hướng thượng tuyệt vời mà Tổ Qui Sơn cũng đã từng đề cập trong Cảnh sách văn:
“Phù xuất gia giả, pháp túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiệp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”.
(Luận người xuất gia là người cất bước đến cõi siêu việt, thân tâm khác tục, nối thạnh dòng Phật, nhiếp phục ma quân, mong đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi).

Huống nữa, những hình thức trau tria trang sức của thế gian dễ khiến con người đắm đuối trần cảnh, tăng trưởng tham dục, khó lòng tấn tu đạo giải thoát. Loại bỏ những thú ấy, ta mới an an nhiên với những nếp sống phạm hạnh hướng thượng ly dục của người con họ Thích, xứng hợp với áo pháp mà mình đang mặc.

Xưa kia, đức Bổn Sư từ phụ sau khi vượt hoàng thành đến bời sông Anoma thì hoàng bào, ngọc đái, bảo kiếm v.v… trở thành những thứ thừa thãi. Từ địa vị cao quý của một vì vương giả, ngài hạ mình xuống làm một kẻ khất sĩ lang bạt không nhà. Đệ tử phó pháp của ngài, trưởng lão Ca Diếp từng là con nhà cự phú sống trong nhung gấm lụa là thế mà khi theo Ngài xuất gia lại tự vui long với nếp sống khổ hạnh “mặc y chàm vá”, chuyên khất thực ở những nhà nghèo và nơi trú ngụ thường là nhũng bãi tha ma.

Những người y cứ vào hình thức thường cho rằng đệ tử Phật là những kẻ nghèo. Họ đâu biết rằng “bên trong những chiếc áo chằm và” ấy là cả một kho châu báu vô giá mà kẻ phàm phu không sao có được. Hãy theo chân Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đến mà tham quan kho báu ấy:

“Cùng Thích tử khẩu xưng bần
Thật thị thân bần đạo bất bần
Bần tắc thân thường phi lũ hạt
Đạo tắc tâm tàng vô giá trân
Vô giá trân dụng bất tận
Lợi vật ứng cơ chung bất lận
Tam thân tứ trí thể trung viên
Bát giải lục thong tâm địa ấn”
(Cùng Thích tử miệng xưng nghèo
Rõ thực thân nghèo, đạo chẳng nghèo
Nghèo ắt thân thường manh áo chắp
Đạo ắt tâm hằng châu báu đeo
Châu báu đeo dùng chẳng hết
Ba thân bốn trí, thể tròn viên
Tám giải sáu thông, tâm ấn hiệp)

Đấy! Kho báu của người xuất gia là như thế đấy. Nó không phải là ngọc ngà châu báu mà người thế gian có thể làm đồ trang sức hay dùng làm vật đổi chác nhưng lại có thể làm chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân (giới) khiến cho người xuất gia thân tuy mặc áo vải thôi sơ mà vẫn rạng rỡ bởi “đường đường tăng tướng dung mạo khả quan”. Kho báu của thế gian thường được bảo quản kỹ càng, đêm ngày người ta lo âu sợ kẻ trộm; nhưng kho báu “Thất thánh tài” của người xuất gia thì cửa mở quanh năm luôn được ban rải để cứu tế cho nhựng kẻ nghèo phước đức, nghèo trí tuệ. Đây cũng chính là kho báu mà Đức Phật hứa sẽ ban cho chú bé La Hầu La khi chú ấy nghe lời mẹ đến vòi vĩnh “xin cha cho thừa kế gia tài”. Ôi! Gia tài Thánh pháp của đấng pháp vương đâu riêng gì La Hầu La (trưởng tử của Ngài) được hưởng. Bất cứ người nào hễ đi theo con đường tam vô lậu học mà Ngài hướng dẫn, đến được “bảo sở” thì mặc tình “sử dụng của báu”.

Tuy nghiên, như Kinh Pháp Hoa nói “muốn đến Bảo sở” phải vượt qua 500 do tuần đường hiểm. con đường hiểm nạn sanh tử này đầy những : gai độc “tham ái”, hố sâu “dục vọng”, giặc cướp “phiền não”… muốn vượt khỏi chốn đó đâu phải dễ dàng. bởi vậy, Phật dạy người xuất gia trong bước đầu học đạo phải sống một nếp sống đơn giản, ly khai ngũ dục lạc của thế gian, dồn hết tâm trí để “cứu lửa cháy đầu”. Như con cá biết tránh né nôm lờ, như con ruồi lánh xa hũ mật mới thoát khỏi cái họa mất mạng. Loại bỏ những lạc thú tạm bợ của phàm tình mới có thể thong dong đến “Bảo sở”. Đây là ý ngĩa của việc “Huỷ kỳ hình hảo”.

Đặc biệt, chữ HÌNH HẢO còn có nghĩa là: hình vóc tốt đẹp (vẻ đẹp thuộc hình hài). Việc “cạo tóc” vừa biểu ý “đoạn trừ trần lao phiền não” vừa để giảm bớt cái vẻ đẹp hình hài. Không trang điểm thêm thì còn dễ chấp nhận chứ làm bớt đi cái vẻ đẹp thì người thế tục khó mà cam tâm. Ấy vậy mà người hảo tâm xuất gia lại là người sẵn lòng làm việc khó làm này. Đọc “Góp nhặt cát đá”, ta không không khỏi cảm động và nể phục trước tấm gương “huỷ kỳ hình hảo” của Ryonen. Ryonen (một cô gái Nhật) đã đi khắp các Thiền Viện xin được xuất gia nhưng đều bị từ chối với ly do “sắc đẹp của nàng chỉ gây them phiền”. Để đạt chí nguyện, Ryonen đã không ngần ngại đặt bàn ủi nóng lên mặt mình khiến nhang sắc mỹ miều ấy mất đi vĩnh viễn. Thiền sư Hakuo đã nhận nàng làm đệ tử. Phía sau tấm gương soi, Ryonen đã ghi lại những dòng hồi tưởng:

“Trong khi hầu hạ hoàng hậu yêu quí, ta đã đốt hương để ướp thơm những áo quần tuyệt đẹp của ta.
Bây giờ muốn làm một tên ăn mày không nhà, ta đốt mặt ta để được bước vào Thiền viện”

Làm việc này, Ryonen đã chứng tỏ hảo tâm xuất gia của mình: sẵn sàng “huỷ bỏ hình tướng tốt đẹp” (đức thứ hai) để nhập pháp môn, đồng thời cũng cho thấy nàng đã “xem thướng thân mình vì tôn sùng” (đức thứ tư).
Qua đây, chúng ta thấy rằng: người xuất gia đã chấp nhận việc “xả bỏ hình tướng tốt đẹp” để họ đạo giải thoát thì phải sống sao cho ứng hợp với áo pháp mà mình đang mặc. Đừng chạy theo văn minh thời đại mà để cho áo pháp giải thoát của mình phải nhuốm “bụi trần lao”.

3. - CÁT ÁI TỪ THÂN, VÔ THÍCH MẠC CỐ:
(Cắt đứt sợi dây thân ái, vì không còn thân sơ)
Thế gian có nhiêu người cho rằng:
“Tu đâu bằng tu tại gia
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”.

Phật Giáo không hoàn toàn bác bỏ điều này bởi lẽ Đức Phật cũng đã từng nói: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm, hiếu hạnh vô phi Phật hạnh” (tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh của Phật). Xưa kia, đức Phật từng khuyến khích đệ tử của Ngài (tôn giả Mục Kiền Liên) thiết Vu Lan bồn hội cứu vong mẫu thoát cảnh u đồ. Bản thân Ngài từng về Ca-Tỳ-La-Vệ thuyết pháp độ hoàng thân. Vua cha ngài trước khi băng hà đã chứng được sơ quả. Ma-ha-ba-xa-ba-đề, Da-du-đà-la, La-hầu-la, Na-đà, A-Nan…những người thân của Ngài cũng được ngài độ cho xuất gia và lần lượt dự vào dòng Thánh (“nhất nhân thành đạo cửu huyền thăng” đích thực là nghĩa như vậy). “Đại phương tiện Phật báo ân kinh”, “Vu Lan Bồn kinh”, “Báo hiếu phụ mẫu ân kinh” là những chứng minh hùng hồn: đạo Phật cũng là đạo hiếu. Người học Phật tu theo Phật phải là người con chí hiếu. Việc thờ cha kính mẹ cũng là một trong những hạnh tu. Tuy nhiên, nếu cho “tu tại gia” là tuyệt hảo thì quả là chưa thấy được chân giá trị của đời sống xuất gia.
Hãy thử đọc dòng suy tưởng của một vị sơ tâm nhập đạo qua đoạn kinh như sau:

“Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người ở gia đinh có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đáp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đinh”
Kinh Tâm Địa Quán, Phẩm Yếm Xả, đức Phật cũng có nói:

“Tại gia bức bách như lao ngục
Muốn cầu giải thoát rất là khó
Xuất gia thư thái như hư không
Tự tại vô vi k hỏi ràng buộc”

Gia đinh quyến thuộc là xiềng xích giam hãm ta trong ngục tù “vị thân vị kỷ”. Phá tan xiềng xích đó, vượt khỏi ngục tù đó mới thấy rõ được bầu trời chân tánh rộng lớn như thế nào. Việc “Cát ái từ thân” của người xuất gia chính là hình thức phá xiềng xích, vượt ngục tù.

Chữ THÂN nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì là: song thân (cha mẹ), lục thân (cha, mẹ, anh, em, vợ, con), còn nghĩa rộng của nó là chỉ chung thân bằng quyến thuộc.

Chữ ÁI tức là ái hệ, ái phược, ái kết, là sợi dây ái n hiễm của phàm tình. Đó là sự trói buộc của lòng thương, nó ràng rịt con người vào vòng ưu bi khổ não, nó thắt buộc lấy thân tâm con người không cho được tự do tự tại. Trong một nghĩa sâu hơn thì Ái là một chi phần trong Thập nhị nhân duyên, là đầu mối của sanh tử. Kinh Tứ thập nhị chương, Đức Phật từng khẳng định: “Sử nhân ngu tệ giả, ái dữ dục dã”. (Cái khiến cho người ta ngu tối và khuất lấp là ái và dục). Ái và dục là nguyên nhân làm xáo trộn làm rối ren, khiến những chất uế trược trong lòng hưng khởi lên. Người tu hành nếu chưa đoạn được ái và dục thì không sao thấy được đạo. Chính vì muốn chặt đứt vòng quay sanh tử, vượt khỏi nhà lửa tam giới mà người xuất gia “cát ái từ thân”. Tuy nhiên, đừng vội y cứ vào đây mà cho ngươì xuất gia là người hoàn toàn không gia đình, không quyến thuộc, không tình cảm. Hãy nghe một du tăng nói về đời sống xuất gia của mình:

“Đời tu sĩ bốn phương trời rảo bước
Cõi ta bà đâu cũng là nhà ta.
Một mình đi với bình bát ca sa.
Trong khắp chốn, muôn loài là quyến thuộc”.

Ôi! Nếu từ bỏ gia đình quyến thuộc chỉ vì một lẽ duy nhất “sống cho riêng mình” thì còn gì là ý nghĩa “vô ngã vị tha” của đạo Phật? Nếu nói người xuất gia là người không tình cảm thì sao có câu “Phật thương chúng sanh như mẹ hiền thương con”? Kinh Thập Địa có chép: “Vào gia đình chư Phật là nhận lấy và giáo hóa hết thảy muôn loài làm quyến thuộc của mình”. Trên cơ sở này, chúng ta thấy rằng: người xuất gia từ bỏ gia đình quyến thuộc hạn hẹp là để trải lòng sống với đại gia đình, đại quyến thuộc. Không lập gia đình vì phải phụ trách một đại gia đình gồm toàn thể chúng sanh như con chim từ bỏ tổ ấm nhỏ bé là để tung đôi cánh rộng xông lướt trên nền trời bao la. Giam mình trong “vành đai kiềm tỏa” của gia đình thì khó lòng thực hiện chí cao hạnh cả. Tình yêu gia đình làm chướng ngại tình thương rộng lớn.

Khi đã khư khư cố chấp: đây là cha mẹ mình, là anh chị em mình, là con cháu mình… ta dễ dàng thờ ơ trước nổi khổ của những người xung quanh. Cái gia đình như thế, cái tình thương như thế làm sao xứng hợp với tâm lượng lợi tha quảng đại của người xuất gia? Bởi vậy, trong quyển Tăng già Việt Nam, Hòa thượng Trí Quang đã khẳng định: “Người xuất gia chỉ rộng lớn được khi không còn phân chia muôn loài là phải hay không phải thân thuộc của mình. Tình thương của người xuất gia không có điều kiện, không hướng về một chỗ, tình thương ấy ở trong phát ra chứ không phải ở ngoài sinh vào. Trước mắt người xuất gia, tất cả muôn loài đều bình đảng trong đau khổ mà bổn phận của họ là phải cô thân độc ảnh để nhiếp hóa tất cả”.

Cũng chính vì thấy “muôn loài đều bình đẳng trong đau khổ”, vì muốn “cô thân độc ảnh để nhiếp hóa tất cả” nên thái tử Tất Đạt Đa đã thực hiện “một chuyến đi vĩ đại”. thành Ca-Tỳ-La lúc nữa đêm cách đây hơn 2500 năm đã chứng kiến chuyến đi lịch sử thiêng liêng này, cuộc chia ly đầy cảm động này. Không gian cô tịch như chuển mình xúc cảm trước những lời tha thiết của đấng Đại Hùng Lực, Đại Từ Bi:

“Hỡi nhân loại đang quằn quại đau thương, hởi cõi đời sầu khổ! Vì các ngươi mà ta dành bỏ tuổi măng tơ, bỏ ngôi báu, bỏ những ngày vàng và đêm ngọc, gỡi cánh tay bám víu của người vợ hiền, cắt ngang tình yêu mãnh liệc của phụ vương và xa lánh đứa con thơ đang nằm trong bụng mẹ. Hỡi phụ hoàng, hiền thê, bào nhi và xã tắc! Xin hãy gắng chịu đựng sự chia ly này cho đến ngày tôi tìm ra ánh đạo”

Ôi ! Ánh đạo vàng mà ngài ban rải cho nhân loại sau bao năm khổ hạnh chốn rừng sâu há chẳng đã được đổi bằng cả một sự hy sinh to lớn? Thế nhân nếu đã ca ngợi những anh hùng “vì nhục nước quên thù nhà” thì cũng nên trân quý đối trước người xuất gia, những bậc “xuất thế anh hùng” vì hạnh phúc an lạc của muôn vạn nhà mà không thể cột chân trong một ngôi nhà (dẫu rằng đó là ngôi nhà thân thương trìu mến nhất!) Ôi! Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay đã từng là cha mẹ, anh chị em thân thuộc của nhau, vậy thì tình thương yêu đâu thể chỉ gói gọn trong một gia đình mà đủ!

Qua đây, chúng ta thấy rằng: trong một ý nghĩa rộng lớn, người xuất gia là người cắt đứt mọi sợi dây trói buộc của phàm tình, phá vỡ bức tường thành vọng chấp ngã và ngã sở. Người ấy không còn là sở hữu của quốc gia nào, giai cấp nào, gia đình nào hay của riêng một người nào. Người xuất gia là người trải lòng sống với bốn tâm vô lượng (từ, bi, hỷ, xả) của bậc Thánh, lấy “tam thiên đại thiên thế giới” làm nhà, “tứ thánh lục phàm” thảy là quyến thuộc. Tình thương của người xuất gia không phải là thứ tình uỷ mị mà người ta có thể đong đầy hay phong kính trong một trái tim, một tâm hồn mà là thứ tình trong sáng, lan tỏa, trải rộng không bến bờ. Đúng như Hòa thượng Nhất Hạnh đã viết:

“Hiến tặng niềm vui mà không gây khổ luỵlà TỪ. chuyển hóa khổ đau là BI. Tình thương mà không hệ luỵ, tình thương mà trong đó tự do còn được bảo trì nguyên vẹn là XẢ. Trong tình thương naỳ, những người thương chỉ hiến tặng cho nhau niềm vui mà không bao giờ kéo nhau vào vòng bi luỵ, đó là HỶ Chính vì muốn thương với tình thương mầu nhiệm ấy mà ta đã phát nguyện sống đời xuất gia”.

4.- ỦY KHÍ THÂN MẠNG, TÔN SÙNG ĐẠO CỐ:
(Xả bỏ thân mạng vì tôn sùng đạo pháp)
Thân mạng là cái mà người đời yêu quý vô cùng. Người ta chẳng ngại bận rộn nhọc nhằn để cung phụng cho thân được “mặc đẹp ăn sang’, thường bôn ba vất vả để cầu cạnh cho thân có được chỗ ngồi cao quý. Mải mê nâng niu chìu chuộng vóc huyễn người ta hầu như quên bẵng: “mình sống để làm gì?” và đôi khi lại tỏ thái độ “tham sanh uý tử” (ham sống sợ chết).
Ôi! Con người ta sinh ra trên đời đâu phải chỉ để ăn để ngủ rồi già rồi chết. Con người còn phải sống như thế nào đó có để cuộc sống này có ý nghĩa, có giá trị. Văn Thiên Tường, một triết gia Trung quốc đã từng bày tỏ quan điểm sống tích cực của mình.
“Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử?
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người đời từ trước ai không chết?
Cốt để long son rọi sử xanh)

Với ông, cái chết đã là một qui luật tất yếu không ai tránh khỏi, thế thì: hãy tranh thủ làm điều tốt đẹp trước khi chết để có thể lưu lại chút gì tốt đẹp sau khi chết. Quan điểm này đã vạch ra hướng sống cao đẹp cho kẻ sĩ. Quả thật, con người sống trên đời không ai có thể lẩn tránh được cái chết. Tuy nhiên, có những cái chết âm thầm vô danh như cây cỏ, có những cái chết để lại tiếng nhơ nghìn đời, có những cái chết lưu lại danh thơm muôn thuở. Người có tinh thần thượng võ của kẻ sĩ, khi phải chọn lựa, sẽ không ngần ngại để chọn cái chết loại thứ ba; và bằng mọi giá họ luôn bảo trì triết tháo của mình. Đối với những người này thì: “Chết đứng hơn sống quỳ, chết vinh hơn sống nhục” và họ sẵn sàng “Sát thân thành nhân, xả sanh thủ nghĩa”. (Xả bỏ thân mạng để giữ tròn nhân nghĩa).

Vượt lên trên phàm tình thế gian, người hảo tâm xuất gia là người “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”. Thú vui vật chất không ràng buộc được thân họ, danh thơm tiếng tốt không phải là mục đích sống của đời họ. Cái mà họ tôn sùng, ngưỡng vọng là cái đạo vô vi, đạo giải thoát - một cái đạo “không dựng xây mà vẫn sừng sững nguy nga”, “không tô điểm mà vẫn rỡ ràng xán lạn.” Con đường để đi đến cái đạo mầu nhiệm này chính là con đường trung đạo “không bất cập cũng không thái quá”. Đức Phật Thích Ca, bậc đạo sư của họ đã từng chỉ dạy: từ nơi thân này có ra sự sanh khởi thế giới (khổ) thì cũng chính từ thân này mà có ra sự đoạn diệt thế giới (khổ diệt). Ngay nơi thân sanh tử này tiềm tàng thể tánh giác ngộ. Bởi vậy, Đức Phật không chủ trương “hành thân hoại thể” theo lối tu ép xác khổ hạnh mà khuyến khích hộ trì xác thân để tăng tiến đời sống phạm hạnh. Người xuất gia học đạo “trên xin giáo pháp của Phật để trưởng dưỡng giới thân tuệ mạng; dưới xin cơm đàn việt để duy trì huyễn thân, mượn nó làm phương tiện để tu hành. Thấu được thân ngủ uẩn là pháp duyên sinh như huyễn: “Sống chết là việc đi về”, “sanh như đáp chăn Đông, tử như cởi áo Hạ”, “sanh tử khứ lai đô thị mộng”…nên người xuất gia đối với thân này, tuỳ duyên tuỳ thời mà có cách ứng xử hài hòa thích nghi. Đặc biệt, khi cần thiết phải bỏ thân mạng để thủ trì phạm hạnh, để bảo toàn giới thể thì họ cũng chẳng do dự để mà “cởi trả chiếc áo Hạ” ấy.

Lật lại những trang sử Phật Giáo, chúng ta không khỏi cảm phục trước gương xả thân cầu đạo của chư vị tiền bối đứng đầu là đức Bổn sư từ phụ. Từ bỏ điện ngọc cung vàng, trên con đường tìm đạo, bước chân vương giả của Ngài đã đạp bằng mọi “hiểm trở gai góc”; tấm thân ngày ngọc của ngài từng phải chịu đựng “những ngọn nắng cháy thịt, những trận mưa rách da của xứ Ấn Độ”. Sau bao năm trời khổ hạnh gối tuyết nằm sương chịu đói chịu khát mà mục đích chưa đạt, nơi cội Bồ Đề, ngài đã trải tòa cỏ lập kiên cố nguyện: “Nếu không đắc đạo thì dù thịt xa nát xương tan quyết không rời khỏi tòa này” (Ngã kim nhược bất chứng đắc vô thượng Bồ Đề, mình khả toái thị thân chung bất khởi thử tọa)

Chư vị cao tăng ở Trung quốc trên đường “nhập Trúc cầu pháp” đã trải qua biết bao gian khổ hiểm nguy. Nhiều vị phải bỏ mình khi chưa thỉnh được kinh về Đông độ. Thử đọc mộ đoạn trong “Phật Quốc Ký” của ngài Pháp Hiển để hình dung phần nào nỗi gia khổ của tiền nhân:

“Sa hà trung hữu ác quỷ, nhiệt phong, ngộ tắc gia tử vô nhất toàn giả; thượng vô phi điểu, hạ vô tẩu thú, biến vọng cực mục, dục cầu độ xứ tắc mạc tri sở nghĩ, duy dĩ tử nhân khô cốt vi tiêu xí nhĩ”
(Trong sông cát (sa mạc) có nhiều quỷ dữ, gió nóng, gặp phải thì đều chết, không một người toàn tánh mạng. Sa mạc đó, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, nhìn mỏi mắt cũng không suốt, muốn tìm nẻo đi thật vô phương suy tính, chỉ còn biết nương vào xương cốt người chết làm cờ nêu để tiến bước).
Pháp Sư Huyền Trang đời Đường trong chuyến Tây du cũng đã từng trải qua những đoạn đường cam go nguy hiểm tương tự như thế.

Đó là đoạn đường “Sa mạc mênh mông, ngày chỉ có ánh nắng gay gắt của mặt trời, đêm chỉ có ánh mờ mờ của các vì sao, cảnh cô độc thật ghê gớm…”

Đó là đoạn đường “Cát bụi mù mịt, chạm vào da thịt chỗ nào thì muốn cháy chỗ đó”
Đó là đoạn đường có núi ca nguy hiểm: “ngọn đụng trời, tuyết phủ”, băng đóng quanh năm, những cơn going tuyết luôn chầu chực sẵn.

Đó là đoạn đường vòng Đại Tuyết Sơn “mây như đạc lại, tuyết bay loạn suốt ngày, không bao giờ thấy ánh mặt trời, đường cheo leo không có chỗ nào phẳng…Có khi nào phải qua những chiếc cầu kết bằng mây đong đưa ở trên không, chỉ vô ý một chút là té xuống vực thẳn thác đổ ào ào”

Chỉ nghe kể lại thôi mà chúng ta đã cảm thấy khiếp sợ, lo ngại biết dường nào. Thế mà, Pháp Sư Huyền Trang đã vượt qua những đoạn đường hiểm nguy như thế cũng như khắc phục mọi chướng ngại khác để hoàn thành “một công cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân loại”. Đã có lúc, ngài chịu khát bốn năm ngày liền “không một giọt nước thâm môi, lưỡi sưng, môi nứt, mắt mờ sức kiệt”. Đã có lúc ngài chịu đói chịu lạnh, leo núi trèo đèo, mạng sống gần như “nghìn cân treo sợi tóc”. Với nghị lực phi thường, ngài đã bất chấp tất cả và quyết định “Thà đi về phương Tây mà chết còn hơn là trở về hướng Đông mà sống”. Tinh thần “cần cầu đạo pháp chẳng quí tiếc thân mạng” của Ngài cổ kim hiếm ai bì kịp.

Xem thế đủ thấy ngưòi xưa vì trọng đạo pháp nào có tiếc gì tấm thân. Chẳng những thế, trường hợp bức bách không còn cách nào khác, có vị đã sẵn sàng tự huỷ thân để bảo trì giới thân tuệ mạng. Trong sơ Đẳng Phật học giáo khoa thư, bài “Trinh khiết nhi tử” có chép câu chuyện: một chú Sa di tướng hảo trang nghiêm nhân khi đến nhà thí chủ khất thực gặp phải nạn “Ma Đăng Già” (bị thiếu nữ nài ép làm điều bất chính); không còn cách thoát còn cách thoát thân, chú đã tự đâm cổ mà chết. Thi thể của chú sau đó được đưa về kinh đô hỏa táng trọng hậu. Mọi người hết long quí kính chú chính vì câu di ngôn được viết bằng máu của chú còn lưu lại trên vách: “Ngã ninh xả mạng, bất hủy Phật giới” (Ta bà xả bỏ thân mạng, quyết không hủy phạm giới của Phật).

Trên đây đã nói về các gương “vì đạo pháp quên thân mình” của tiền nhân. Theo đó mà suy: Đối trước sự nghiệp thiêng liêng, lý tưởng cao cả thì thân mạng trở thành một thứ nhỏ nhoi không đáng kể. Người đời từng nói: trong hoàn cảnh bất đắc dĩ, phải biết bỏ ngón tay để cứu bàn tay, bỏ bàn tay để cứu cánh tay, bỏ cánh tay để cứu thân mình; thậm chí phải biết bỏ thân mình để giữ lấy đạo nghĩa. Vẫn biết “được thân người là khó” nhưng “gặp Phật Pháp” lại là điều khó hơn. Người trí, khi cần thiết phải biết hy sinh tiểu tiết để thành tựu đại sự. Kẻ sĩ ở đời còn biết quên mình vì tiết tháo. Bậc “xuất thế anh hùng” há lại vì quí chuộng thân mạng mà xem nhẹ đạo pháp hay sao?

5.- CHÍ CẦU ĐẠI THỪA VI ĐO NHÂN CỐ:
(Chí cầu Đại thừa, vì cứu độ chúng sanh)
Trong văn Sám hối có đoạn chép: “Ngã kim phát tâm bất vị tự cầu nhân thien phư1ơc báo, Thanh Văn, Duyên Giác, nãi chí Quyền thừa chư vị Bồ Tát, duy y Tối thượng thừa Bồ Đề tâm. Nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đác A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-Đề” (con nay phát tâm không vì riêng cầu cho mình phước trời người, các quả vị: Thanh Văn, Duyên Giác nhẫn đến Quyền thừa Bồ Tát. Chỉ hướng về Tối thượng thừa mà phát tâm Bồ Đề. Nguyện cùng pháp giới chúng sanh đồng một lúc chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Tối thượng thừa ở đây tức chỉ cho Phật Thừa, Đại thừa.

ĐẠI THỪA: tiếng Phạn là Mahayana, Trung hoa dịch âm là Ma ha diễn, dịch nghĩa là Đại thừa.
Đại thừa là pháp rộng lớn, siêu việt cả thời gian và không gian (thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương), có khả năng lợi ích nhiều ngưới, giúp chúng sanh và Bồ Tát thành tựu Phật quả (ví như cỗ xe lớn có thể chuyên chở được nhiều người). Theo quan điểm của ngài Đức Thanh, Đại thừa có 5 nghĩa:

1) - Vì đối với TIỂU nên gọi là ĐẠI
• Tiểu tâm đối với Đại Tâm
• Tiểu trí đối với Đại trí
• Tiểu Pháp đối với Đại pháp.
• Tiểu hạnh đối với Đại hạnh
• Tiểu nguyện đối với Đại nguyện.
• Tiểu quả đối với Đại quả
2) - Có khả năng đưa đến Phật quả.
3) - Là chỗ y cứ của chư Phật
4) - Là chỗ y cứ của chư Bồ Tát, Đại sĩ
5) - Là pháp rộng lớn cao siêu.

Cũng vì cầu Đại thừa này mà xưa kia khi vượt thành xuất gia, thái tử Tất Đạt Đa dã phát 4 đại nguyện:
• Nguyện tế độ chúng sanh khỏi nguy đốn tai ách.
• Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sanh
• Nguyện đoạn trừ tà kiến giúp chúng sanh
• Nguyện độ chúng sanh khỏi vòng khổ hải.

Giáo pháp của các đạo sĩ: Bạt-Già, A-La-Lã, Uất-đầu-lam-phất v.v… không sao làm thỏa mãn chí nguyện của Ngài. Bởi vì: chí của Ngài là chí cầu Đại thừa, nguyện của Ngài là nguyện “cứu độ quần sanh”, và quả của Ngài chứng phải là quả vô thượng Bồ Đề.

Sau Phật diệt độ, cũng với cái chí ấy, một hàn sĩ từ đất Lãnh Nam đã lặn lội 30 dặm đường đến gõ cửa thất Huỳnh Mai để trình bày sở nguyện: “Chỉ cầu là Phật, không cầu việc gì khác”. Hàn sĩ đó không phải ai xa lạ, chính là lục tổ Huệ Năng, một người danh chấn sơn môn với kỳ tích “Một chữ không biết viết mà thuyết pháp độ sanh lợi ích vô số kể”. Đệ tử của Ngài, những vị như: Thanh Nguyên, Nam Nhạc Hoài Thượng, Thần Hội, Huyền Giác v.v…đều là những bậc pháp khí, long tượng chốn Thiền Môn

Đạo nghiệp của Phật tổ sở dĩ huy hoàng xán lạn chính là nhờ ở chí cao nguyện rộng, nghị lực phi thường. Đọc Bát Đại Nhân Giác Kinh, chúng ta không khỏi cảm phục trước đại nguyện “vào đời độ sanh” của chư vị Bồ Tát..
“Sanh tử xí nhiêu
Khổ não vô lượng
Phát Đại thừa tâm
Phổ tế nhất thiết
Nguyện đại chúng sanh
Thọ vô lượng khổ
Linh chư chúng sanh
Tất cánh đại lạc”
(Đệ bát giác tri)
(Sinh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng, phát tâm Đại thừa, độ khắp tất cả, nguyện thay chúng sanh, chịu vô lượng khổ, khiến các chúng sanh, được an lạc rốt ráo)

Noi theo công hạnh của Phật Tổ và Bồ Tát Đại sĩ, người hảo tâm xuất gia là người có chí nguyện hướng thượng tuyệt vời.

“Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”

(Luận người xuất gia là người cất bước đến cõi siêu việt, thân tâm khác tục, nối thạnh dòng Phật, nhiếp phục ma quân, mong đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi).

Với chí nguyện hướng thượng tuyệt vời này, người xuất gia như một viên dũng tướng tự trang bị cho mình “áo giáp tinh tấn” và “thanh gươm trí tuệ”, xông xáo vào trận địa phiền não, đối đầu với những đại tặc “tam, sân, si”. Người đời vì đền ơn Vua mà chẳng ngại trải thân ngoài trận mạc để diệt giặc an dân. Người xuất gia vì báo ân Phật mà mở lòng bi mẫn bạt tế tam đồ. Càng nhớ đến công ơn khai sáng đạo mầu của đức Bổn Su từ phụ, người xuất gia càng tâm tâm niệm niệm “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Bởi lẽ:

“Giả sử đãnh đới kinh trần kiếp
Thân vi sàng tòa biến tam thiên
Nhược bất hoằng pháp độ chúng sanh,
Tất cánh vô năng báo ân dã”
(Giả sử đầu đội trăm ngàn kiếp
Thân làm giường tòa khắp(cõi) tam thiên
Nếu không hoằng pháp độ chúng sanh
Rốt chẳng báo được ân của chư Phật)

Vì sứ mệnh thiêng liêng, vì trách nhiệm trọng đại, người xuất gia quyết chí cầu thắng pháp, dốc lòng nắm giữ giềng mối Thánh Đạo, tiếp nối công hạnh của Phật tổ khơi sáng đèn thiền, truyền bá chánh pháp, lợi lạc quần sanh. Đây chính là ý nghĩa của tịnh đức thứ năm đồng thời cũng là lý do mỗi khi làm việc gì, người xuất gia thường đọc lời kệ phát nguyện hồi hướng:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”

C. KẾT LUẬN
Trong lời tựa Hợp chú sách Thiên lâm bảo huấn, Tịnh Tuệ cư sĩ có dẫn một câu nói của cổ đức: “Xuất gia nãi đại trượng phu chi sự, phi tướng chi sở năng vi”. Nghĩa là: “Xuất gia là việc làm của bậc đại trượng phu, chẳng phải là việc mà hàng quan tướng (văn võ trong triều) có thể làm được”. Điều này cho thấy: xuất gia là việc làm vô cùng trọng đại. Và, không thể xem thường người hảo tâm xuất gia, người tự nguyện bắt tay vào việc làm trọng đại. Thử xem: văn quan nơi triều nội, nhiều người tinh tường “thiên kinh vạn điển”, thông thạo “chước quỷ mưu thần” nhưng đã có được mấy ai chịu khó quán sát thực tướng vạn pháp, cứu xét nguồn cội tự tâm để được “siêu phàm nhập thánh”. Võ tướng ngoài trận mạc, lắm vị xông xáo giữa rừng gươm biển giáo, phá lũy đoạt thành nhưng dễ gì tìm được người hùng lực: dập tắt lửa dữ sân hận, chặn đứng nước lũ dục tham, phá vỡ hảo luỹ vọng chấp để vào thành trì Niết Bàn ! Thảo nào, đối trước những vị dục chí “xuất thế anh hùng phóng hạ vạn duyên tục luỵ”, Tổ đức đã không ngớt lời tán thán:

“Thiện tai! Đại trượng phu
Năng liễu thế vô thường
Xả tục thú Nê-hoàn
Công đức nan tư nghì”
(Lành thay ! Đại trượng phu
Rõ được đời vô thường,
Bỏ tục hướng Niết Bàn,
Công đức khôn suy lường)

Ôi ! Việc xuất gia đã được xem là việc làm trọng đại như vậy thì người hảo tâm xuất gia, người được xưng tán là bậc Đại trượng phu hẳn phải là người có lối hành xử cao thượng tuyệt vời.

Phần khảo sát trên tuy chỉ là những nét phác họa sơ sài nhưng qua đó chúng ta không thể không thừa nhận: năm đức của người hảo tâm xuất gia chính là một trong những chất liệu cấu thành tính cao thượng tuyệt vời đó. Dĩ nhiên, vẫn còn nhiều chất liệu khác nữa mà ở đây chúng ta chưa bàn đến; song điều quan trọng không phải là ở số nhiều mà là ở chỗ: biết và làm ứng hợp. Chỉ với năm đức này thôi mà chúng ta biết và hành trì ứng hợp cũng đủ để làm bậc mô phạm của người, làm ruộng phước cho nhân gian. Trong Tuy Môn Cảnh Huấn có chép: “Năm đức này là phần trọng yếu của người xuất gia. Năm chúng đều phải kính phụng chứ không phải chỉ dành riêng cho tiểu chúng, suốt đời làm theo chứ không chỉ cho người mới thọ giới mà thôi”. Chúng ta thường có thói quen thích làm những chuyện cao siêu của bậc Đai Sa môn mà ít khi đoái hoài đến những việc của Sadi, cho đó là điều tiểu tiết của kẻ ấu trĩ. Sao không nhớ rằng: “Người đi được ngàn dặm vẩn không lìa cái bước ban đầu”, “Đại bàng càng lớn thì đôi cánh càng phải dài rộng hơn”. Năm đức của người xuất gia chính là “cái bước ban đầu “ của hành trình Giác Ngộ Giải thoát, là “đôi cánh” cần phải lớn mạnh để xông lướt đến cõi Đại Phương. Ôi ! Nếu như với người sinh viên, ngày thành đạt công danh (tốt nghiệp ra trường) là ngày cụ thể hóa những ước mơ của ngưỡng cửa đại học thì với người học đạo, ngày viên mãn công hạnh tự lợi lợi tha mới là ngày hiện thực hóa hoài bão của cái thuở “sơ tâm xuất gia”. Hiện tại, cái ngày ấy với chúng ta hầu như vẫn còn là cái ngày mong đợi. Vậy thì, trong khoảng thời gian mong đợi ấy, hãy nên nỗ lực tăng tấn hạnh giải… và lúc nào cũng phải nhớ rằng:

“Trần lao vượt khỏi, việc phi thường
Nắm chặt đầu dây, giữ lập trường
Nếu chẳng một phen xương thấu lạnh
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương!” (*)
(*)Lời thị chúng của Thiền sư Hoàng Bá, Trích dịch “Truy môn Cảnh huấn” tập 7

PHỤ LỤC
Cảm phục trước những gương “vì đạo pháp quên thân mình” của tiền nhân, người viết xin trân trọng chép lại bài thơ của Nghĩa Tịnh Đại Sư kèm theo phần phỏng dịch và lời kết khuyến do chính người viết biên soạn để tự nhắc nhở sách tấn lấy mình cũng là để tặng chư pháp lữ hành trang trên bướnc đường “hoằng pháp lợi sinh”

● Phiên âm:
Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường đại gian
Cao tăng cầu pháp ly Trường An
Khứ nhân thành bách, quy vô thập
Hậu giả an tri tiền giả nan
Lộ viễn bích thien duy lãnh kết
Sa hà già nhật lực bì đan
Hậu hiền như vị am tư chỉ
Vãng vãng tương kinh dung dị khan

● Tạm dịch:
Trong khoảng các triều đại: Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường
Chư vị Cao Tăng cầu pháp xa lìa đất Trường An
Ra đi đủ một trăm, trở về không được mười
Người sau nào biết sự gian nan khổ cực của người trưóc
Đường xa trời thảm, duy có “cái rét của băng tuyết”
Sông cát (sa mạc) nắng thiêu, sức mỏi mòn
Hậu hiền như ai chưa am tường ý chỉ cầu pháp của tiền bối
Thường thường đem kinh ra đọc một cách dễ duôi!

● Phỏng dịch theo văn vần:
Trải suốt bao triều: Tấn, Tống, Lương…
Cao tăng cầu pháp, biệt quê hương
Trăm đi, chưa được mười quay lại
Gian khổ, hậu lai mấy kẻ tường?
Thăm thẳm đường xa, thân rét buốt
Mịt mù cát nóng, sức khôn đương
Hậu hiền chưa tỏ Cao Tăng ý
Hời hợt xem kinh như sách thường !

● Kết khuyến:
Tiền nhân cầu pháp gian lao
Hậu sanh thừa nghiệp, lẽ nào dễ duôi ?HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.9/7/2014.
Quy Sơn Cảnh Sách
Đại Đức: Thích Hạnh Tấn Giảng
DownloadNamePlaySizeLength
download Quy Son Canh Sach 01
29.6 MB64:42 min
download Quy Son Canh Sach 02
27 MB59:03 min
download Quy Son Canh Sach 03
25 MB54:36 min
download Quy Son Canh Sach 04
26.5 MB57:52 min
download Quy Son Canh Sach 05
27.9 MB60:54 min
download Quy Son Canh Sach 06
21.7 MB47:30 min
download Quy Son Canh Sach 07
14.7 MB32:02 min.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.9/7/2014.
Do nghiệp lực trói buộc mà có thân này, không khỏi bao điều khổ lụy. Thân thể từ cha mẹ sanh ra, vốn thật chỉ là giả hợp các duyên. Dù là nương nơi bốn đại mà tồn tại, nhưng bốn đại ấy chẳng lúc nào là không xung khắc.

Chuyện vô thường già chết không hề hẹn trước. Sớm còn tối mất, thoắt chốc đã sang đời khác; như sương như móc, thoạt có thoạt không; như cây ven bờ vực, như dây leo vách giếng, có chi bền chắc?

Niệm niệm nhanh chóng nối nhau, chỉ trong chớp mắt, trút hơi thở đã qua kiếp khác. Sao lại có thể yên lòng mà bỏ phí cuộc đời trôi qua vô ích?

Làm người xuất gia, chẳng thể dâng cho cha mẹ miếng ăn ngon ngọt, cho đến quyến thuộc cũng đều dứt bỏ. Không lo việc nước, cũng chẳng kế tục nghiệp nhà; xa lìa xóm giềng thân tộc, xuống tóc theo thầy học đạo. Vậy nên trong lòng phải biết chuyên cần sớm tối công phu, ngoài học lấy đức hiền hòa không tranh chấp; xa lánh chốn thế tục mà một lòng cầu giải thoát.

Lẽ nào vừa được thọ giới phẩm liền tự xưng là bậc tỳ-kheo, ăn hạt cơm của tín thí thập phương chẳng chịu xét cho cùng do đâu mà có, chỉ nói bừa rằng việc ấy là lẽ tự nhiên. Ăn xong dụm đầu trò chuyện huyên thuyên; cứ vậy chạy theo cái vui trong chốc lát, không biết rằng vui đó chính là nguyên nhân của khổ.

Lăn lóc bao đời theo thói tục, chưa từng nhìn lại chính mình. Thời gian năm tháng lần lữa luống qua, thọ nhận càng nhiều, lợi dưỡng càng lắm, chẳng lúc nào nghĩ đến việc dứt bỏ. Tích tụ ngày càng nhiều, chung quy cũng chỉ là nuôi giữ lấy xác thân phù phiếm.

Đấng đạo sư đã có lời khuyên răn khuyến khích, tỳ-kheo phải tiến lên trên đường đạo, chớ nên buông thả thân mình; chuyện ăn mặc ngủ nghỉ đừng bao giờ hưởng thụ cho đầy đủ. Người ta vốn phần đông tham đắm vào những chuyện ấy, chỉ quanh quẩn mãi thoắt chốc đã hết đời. Vậy nên kẻ hậu học chưa hiểu sâu tông chỉ cần phải siêng năng cầu học với người đã biết. Sao lại toan nói rằng việc xuất gia quý cầu no cơm ấm áo?

Phật trước kia chế định giới luật, mở bày chỉ dạy người tăm tối; oai nghi phép tắc trong sạch như băng tuyết. Kẻ mới phát tâm nương theo đó mà ngăn chặn mọi điều sai phạm. Phép tắc tinh vi, dẹp bỏ hết những điều tồi tệ. Nơi truyền dạy giới luật chưa từng lạm được nương theo, thì pháp rốt ráo thượng thừa làm sao có thể hiểu thấu được? Thật đáng tiếc thay, bỏ phí một đời trôi qua vô ích, sau dù hối tiếc cũng không còn kịp nữa. Lời Phật dạy không chịu ghi lòng tạc dạ thì đạo nhiệm mầu không thể do đâu mà tỏ ngộ.

Cho đến khi tuổi tác về già, dù xuất gia trải đã nhiều năm mà trong tâm thật chẳng được gì. Vì chẳng chịu gần gũi học người hiền đức, chỉ biết ngông nghênh cao ngạo.

Chưa thông giới luật, chẳng biết tự chế phục mình. To tiếng nặng lời khoác lác huyênh hoang, chẳng biết kính nhường kẻ trên người dưới, so ra khác gì ngoại đạo? Đến bữa ăn khua bát ồn ào, ăn vội vàng đứng dậy đi trước. Đi ở không tuân phép tắc, chẳng ra dáng vẻ bậc xuất gia; đứng ngồi hoảng loạn, náo động tâm người khác. Phép tắc ít nhiều chẳng giữ, oai nghi lớn nhỏ đều không, chẳng dựa vào đâu để răn đe kẻ dưới, mà người mới nhập đạo nhìn vào cũng chẳng thấy có gì để noi theo học.

Như có ai vừa chỉ ra chỗ sai sót, liền bảo rằng: Như ta đây mới thật bậc ẩn tu! Chưa nghe làm theo lời Phật dạy, chỉ một lòng ôm giữ tánh tình thô thiển. Chỗ thấy biết như vậy, chung quy cũng là vì khi mới nhập đạo biếng nhác chẳng tinh cần, tham đắm thế tục, lần lữa qua ngày. Thấm thoát hết đời thành ra buông lung thô lỗ. Thoắt chốc đã già nua lụm cụm, gặp việc đành bế tắc. Người mới học đến thưa hỏi chẳng có chi để chỉ bày. Như có gượng nói ra cũng chỉ là sai kinh lệch nghĩa. Vậy mà có bị khinh chê, lại trách rằng hậu sinh vô lễ, rồi nổi trận lôi đình to tiếng với người.

Một mai nằm trên giường bệnh, khổ não đau đớn bức bách không kể xiết. Bấy giờ mới sớm tối lo sợ, tâm tưởng hoang mang. Đường sắp tới u ám mê mờ chẳng biết về đâu! Trong lòng hối tiếc cũng không còn kịp nữa, như kẻ khát nước mới đi đào giếng, có ích lợi gì? Tự hận mình trước đã không sớm lo tu tập, để khi tuổi già chất chứa đầy tội lỗi. Cái chết gần kề trong thoáng chốc, hãi hùng khiếp sợ biết bao! Trút hơi thoát khỏi cuộc đời, như con chim bay xuyên qua dải lụa, nghiệp lực dắt dẫn thần thức trôi lăn. Như người nhiều nợ lắm chủ theo đòi, ai mạnh được trước; tạo nghiệp đã nhiều, phải tùy theo chỗ nặng nề nhất mà thọ thân gánh chịu. Con quỷ vô thường luôn chực cướp đi sinh mạng của mình, chẳng lúc nào ngưng. Đời người hạn cuộc chẳng thể kéo dài, thời gian trôi qua không hề chờ đợi. Ba cõi luân hồi chưa thoát được ra thì cứ phải như thế mà mãi mãi thọ thân lưu chuyển.

Lạ lùng thương cảm biết bao! Trong lòng thương xót thống thiết, há có thể ngậm miệng không nói? Nên muốn nhắc nhở cảnh tỉnh cho nhau. Đáng buồn là chúng ta sanh ra cuối thời tượng pháp, cách xa các bậc thánh hiền, pháp Phật chẳng mấy ai am hiểu, nhiều người giải đãi. Vì vậy lược nói ra đây đôi chút thấy biết hẹp hòi để khuyên răn những người hậu học. Nếu chẳng từ bỏ sự kiêu căng cao ngạo, nết cũ thật khó chuyển đổi!

Người đã xuất gia, cất bước vượt lên cao xa; tâm tánh, cốt cách khác người thế tục. Tiếp nối mà làm hưng thịnh đạo pháp, nhiếp phục hết thảy những thói hư tật xấu. Lấy việc ấy mà báo đáp bốn ơn, bạt khổ cứu nguy khắp trong ba cõi. Nếu không được vậy, chỉ là kẻ lạm mang hình tướng xuất gia, lời nói việc làm phóng túng lơ đễnh, uổng nhận sự cúng dường của thập phương tín thí. Như người dậm chân tại chỗ, dù nhiều năm qua một tấc chẳng dời! Mơ màng thoắt chốc qua hết một đời, chẳng biết nương vào đâu làm chỗ dựa!

Huống chi, đường đường mang hình tướng của một vị tăng, dáng vẻ tốt đẹp, đều là quả báo có được nhờ căn lành gieo trồng từ thuở trước. Lẽ đâu lại khoanh tay ngồi yên để thời gian trôi qua không hối tiếc? Sự nghiệp nếu chẳng chuyên cần, dựa vào đâu mà mong thành đạo quả? Chẳng những một đời vô ích, cho đến kiếp sau cũng chẳng được gì!

Quyết tâm rời bỏ mẹ cha, khoác áo nâu sòng là ý muốn vượt trên thế tục. Sớm tối khắc ghi việc ấy, lẽ đâu để luống ngày qua? Nguyện làm được bậc trụ cột trong Phật pháp, nêu gương hậu thế. Thường mong muốn như thế nhưng chưa được ít nhiều như nguyện.

Mở miệng nói ra phải hợp kinh điển. Luận bàn phải dựa theo những gương sáng thuở xưa. Hình tướng oai nghi đĩnh đạc, tâm ý khí lực cao cả thanh thoát.

Đi xa phải có bạn hiền, thường giữ cho tai mắt được trong sạch. Trú ngụ phải chọn cùng người tốt, thường nghe những việc chưa nghe. Cho nên nói: “Sinh ta ra là cha mẹ, giúp ta thành người là bạn hữu.” Được gần người hiền như đi giữa đám hơi sương, tuy không ướt áo nhưng lúc nào cũng được ẩm mát. Gần kẻ ác thì nuôi lớn thêm điều ác trong chỗ thấy biết; sớm tối làm việc ác liền phải chịu lấy quả báo trước mắt. Sau khi chết rồi phải chịu chìm đắm; thân người một khi mất đi, muôn kiếp khó lòng được lại.

Lời nói thẳng trái tai, sao không khắc ghi vào tâm khảm? Theo đó liền có thể lắng sạch tâm trí, nuôi dưỡng đức hạnh, lui về chỗ vắng vẻ không còn hình tích danh tánh, giữ lòng chuyên chú trong sạch mà dứt hết sự ồn ào nhiễu loạn.

Như muốn tham thiền học đạo, vượt thẳng qua những pháp môn dùng làm phương tiện, tâm phải hợp được với tôn chỉ huyền diệu, cứu xét chi ly chỗ tinh yếu, quyết định chọn lấy chỗ sâu xa, hiểu thấu cội nguồn chân thật.

Rộng đường học hỏi với những người đi trước, gần gũi bạn hiền. Cách tu này rất khó đạt đến chỗ kỳ diệu, nên phải khẩn thiết dụng tâm tinh tế, mới có thể do trong ấy mà tức thời hiểu được chỗ cốt yếu nhất, liền nương theo đó mà dần dần ra khỏi trần tục.

Như vậy tức là phá sạch hết hai mươi lăm cảnh có trong ba cõi. Hết thảy các pháp trong ngoài đều rõ biết là không thật. Do tâm khởi hiện, tất cả đều là tên gọi không thật. Chẳng cần dùng tâm để hiểu thấu, chỉ cần tâm không đắm nhiễm nơi vật, thì vật cũng không ngăn ngại được người. Mặc tình cho muôn pháp chuyển xoay, không dứt bỏ cũng không nối tiếp.

Nghe biết âm thanh hình sắc, thảy đều là những chuyện bình thường; dù bên này hay bên kia, chỗ ứng dụng thảy đều đầy đủ.

Chỗ làm nếu được như thế, thật không uổng đã mặc áo xuất gia. Báo đáp được bốn ơn, bạt khổ cứu nguy khắp trong ba cõi. Như trong nhiều kiếp vẫn có thể không thối chí, thì quả Phật nhất định đạt tới. Đối với ba cõi không còn ràng buộc, chỉ như người khách đến đi, lúc hiện lúc ẩn đều có thể làm khuôn phép cho kẻ khác.

Tu theo phép học đạo tham thiền như vậy, quả là pháp môn huyền diệu hơn hết. Chỉ cần có đủ quyết tâm, pháp không sai dối.

Như với người ở mức bình thường, không thể nhất thời vượt thoát, thì nên hết sức chú tâm tìm tòi học hỏi giáo pháp. Thông thuộc kinh điển, nghiền ngẫm cứu xét nghĩa lý tinh tường, rồi truyền rộng ra khắp nơi, dẫn dắt người hậu học, báo đáp ơn đức Phật.

Thời gian trôi qua, chớ nên luống mất, phải nên lấy sự tu tập như trên mà làm chỗ dựa đời mình. Giữ lấy oai nghi, thành bậc pháp khí giữa chúng tăng.

Chẳng thấy như dây leo kia, nhờ dựa vào thân cây tùng mà lên được đến tầng cao chót vót. Hãy chọn nhân lành cao trổi mà ký thác đời mình, mới có thể rộng làm lợi ích. Phải hết lòng tu tập, giữ gìn trai giới, đừng khinh thường mà giảm bớt hoặc bỏ qua. Đời đời kiếp kiếp về sau nhờ đó mà được hưởng quả phước rất nhiệm mầu.

Không nên nhàn nhã để phí ngày qua, biếng nhác bỏ đi thời khắc. Thời gian quý giá biết bao, sao chẳng cầu vươn tới? Uổng nhận của thập phương tín thí, lại phụ cả bốn ơn. Phiền lụy chất chứa càng nhiều, bụi trần khuất lấp tâm trí, đường tới thành ra ngăn lấp, người người đều khinh chê.

Người xưa nói: “Đã là trượng phu, ai ai cũng có thể làm nên việc.” Không nên tự hạ thấp mình mà nhụt tâm, thối chí. Nếu không được như vậy, thật uổng công xuất gia, thoắt chốc qua hết một đời không chút ích lợi.

Thành khẩn cầu mong các vị đều bừng cao chí khí quyết liệt, mở rộng hoài bão khác người. Mỗi mỗi việc làm đều noi gương những bậc cao thượng, chẳng buông thả theo kẻ thấp hèn.

Chỉ một đời này quyết tu hành chứng đạo, tự mình lo liệu chẳng dựa vào ai. Ngăn dứt vọng niệm, cắt đứt muôn duyên, không còn chạy theo trần cảnh. Tâm không cảnh lặng, sự ngăn ngại xưa nay chỉ do chẳng ngộ.

Hãy đọc cho thật kỹ văn này, luôn luôn tỉnh giác gắng tu. Mạnh mẽ tự chủ lấy mình, đừng buông thả theo thói thường. Nghiệp quả dẫn dắt người đi thật khó lòng trốn tránh, như âm thanh thế nào tiếng vọng thế ấy, hình thể có ngay thì bóng soi mới thẳng. Nhân quả rõ ràng như thế, lẽ nào không lo sợ?

Vì vậy trong kinh nói rằng: “Dù việc làm đã trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp quả không thể mất. Khi nhân duyên đã hội đủ rồi, quả báo phải tự nhận lấy.” Vậy nên biết rằng hình phạt trong ba cõi luôn bám theo mà giết hại người, phải nỗ lực chuyên cần tu tập, đừng bỏ phí ngày qua.

Bởi hiểu thấu được sự nguy hại của tội lỗi, nên mới khuyên nhau tu tập hành trì. Nguyện sao trong trăm ngàn kiếp, dù sinh ra ở đâu cũng được cùng nhau làm bạn đồng tu.

Có bài tụng để khuyên răn rằng:
Thân hư huyễn trong mộng,
Hình sắc giữa chốn không.
Việc đã qua không cùng,
Việc về sau ai biết?

Sanh đây, thác về kia,
Chìm nổi, lăn lóc khổ.
Chưa thoát ngoài ba cõi,
Sao có thể nghỉ yên?

Tham luyến chốn thế gian,
Năm uẩn duyên hợp thành.
Sanh ra mãi đến già,
Rốt không được gì cả!

Gốc rễ tự vô minh,
Từ đó phải mê lầm.
Ngày tháng luống trôi qua,
Thời khắc không lường được.

Một đời này uổng phí,
Qua đời khác chẳng thông.
Tiếp nối mãi mê lầm,
Đều do sáu tên giặc.

Lăn lóc giữa sáu đường,
Loanh quanh trong ba cõi.
Sớm cầu bậc minh sư,
Gần gũi người đức hạnh.

Thân tâm khéo chọn lựa,
Quét hết bao gai góc.
Đời nổi trôi phù phiếm,
Sao để duyên thúc bức?

Phải xét cùng pháp lý,
Quyết chứng ngộ đạo mầu.
Tâm cảnh đều mất sạch,
Không nhớ, không tưởng đến.

Sáu căn tùy tự nhiên,
Đi ở đều vắng lặng.
Tâm định không sanh khởi,
Muôn pháp tự dứt lìa.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.9/7/2014.

Monday 7 July 2014

[PDF]

Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm - Chùa Dược Sư

www.chuaduocsu.org/KinhSach.../KinhNhanDuyen.p...
Căn cơ nhân loại khác nào như thông. Vì thế trong chuyến ... của Sư Bà Hải Triều Âm ở chùa Linh Quang là bài pháp quý Phật tử trong đoàn cảm nhận sâu xa nhất, làm tươi ... nó kích thích chúng ta tạo nghiệp để cảm quả báo sầu đau luân hồi. ..... Đứa con quý vị đang xoa đầu ôm ấp đây, quý vị có muốn ngày mai nó ...HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.7/7/2014.
Quý Liên Hữu Đồng Tu vào trong web site này download các bài giảng của Sư Bà Hải Triều Âm giảng rất hay.
 
 
Sau khi Quý Liên Hữu Đồng Tu nghe xong bài này rồi thì từ từ vào nghe tiếp các bài khác lần lượt như sau nhé
 
Sau đây là những bài giảng của Tôn Sư Hải Triều Âm:
 
Căn Bản dùng hàng ngày:
 
 
Phát Bồ Đề Tâm:
        (Kinh Phạm Võng) Bồ Tát Giới http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=105
 
Cúng Vong Linh:
        Mông Sơn Thí Thực (Có sách) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=108
 
Bắt đầu học kinh sách :
Nói đến nghiệp của các bệnh
 
        Kinh Dược Sư (Có sách) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=112
 
Niệm Phật: Cầu sanh Tịnh Độ:
 
        Kinh A Di Đà Yếu Giải (1995) (Có sách)  http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=113
 
Đi xâu vào Quán Thân Bất Tịnh:
 
        Kinh Tứ Niệm Xứ (Có sách)  http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=91
        Bài Tập Tứ Niệm Xứ  http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=91
        Niệm Phật Thập Yếu (Có sách) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=89
 
Tìm TÂM Phật: "Khai Thi Ngộ Nhập Phật Tri Kiến"
 
        Thủ Lăng Nghiêm (Chánh Văn) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=104
        Kinh Lăng Nghiêm (1994) (Bài Pháp Mới !!!)  http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=122
        Lăng Nghiêm Chính Mạch  http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=100
        Lăng Nghiêm Toát Yếu (Có sách) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=101
        Bát Nhã Tâm Kinh (Có sách) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=111
        Quy Nguyên Trực Chỉ (Có sách) http://www.chuaduocsu.org/index.php?option=content&task=view&id=114.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.7/7/2014.

Sunday 6 July 2014

Sa Di Luật Giải

SA-DI LUẬT NGHI, Yếu Lược, Tăng Chú, QuyểN Thượng.
Luật nghi của Sa -di, lời yếu lược, lời tăng chú, cuốn thượng.
Bồ-TáT GIớI, Đệ Tử, Vân Thê Tự, Sa-Môn Châu Hoằng Tập.
Thụ giới Bồ -tát, đệ tử, chùa Vân Thê, Sa-môn Châu Hoằng chép.
Bồ-Đề Tâm, Tỳ-Kheo, Đảnh Hồ Sơn, Sa-Môn Hoằng Tán Chú.
Thụ giới Bồ -đề tâm, Tỳ-kheo, núi Đảnh Hồ, Sa-môn Hoằng Tán chú giải.
-o0o-







9. Chẳng Ăn Phi Thời
Thiệt căn lìa vị trần qua giữa ngày, nên nói chẳng ăn phi thời.
Giải rằng: Phi thời ấy, là qua giữa ngày rồi, phi phần buổi của nhà tăng ăn vậy. Chư thiên ăn buổi sớm, Phật ăn giữa ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, quỷ ăn ban đêm, chúng tăng nên học theo Phật, chẳng ăn quá giờ ngọ.
Đại Luật nói “Phi thời ấy có hai phần ngằn. 1- Rằng mặt nhựt quá giữa ngày; 2- Là ánh sáng của mặt trời chưa rạng đông”. Lại nói bóng mặt nhựt đã trịch qua tây chừng một sợi tóc, sợi chỉ, tức gọi là phi thời.”
Nay đây nói nhựt ngọ đó, là thuận theo lời ở phương đây, chính nơi kinh luật thì nên nói là nhựt trung mới đúng. Do vì, với giờ ngọ có chia làm tám khắc. Bốn khắc trước gọi là “chánh thời” bốn khắc sau gọi là “phi thời”. E người ta hiểu lộn xộn, nên chẳng nói chữ ngọ, mà nói chữ Trung.
Khởi thế nhân bổn kinh nói “ô -phô-sa-tha, dịch tăng trưởng, nghĩa là người thụ trì trai pháp đây, được tăng trưởng căn lành. Như Phật dạy “Dùng cái sự qua giữa ngày cẳng được ăn, làm nghĩa chay.”
Như kinh Tỳ -la Tam-muội, lấy bữa “ngọ thực” là pháp thực.
Vua Bình Sa hỏi “Bạch Phật, cớ sao Phật ăn bữa giữa ngày?
Phật đáp “Sáng sớm dậy, chư thiên ăn, mặt nhựt đúng ngọ là bữa ăn của chư Phật ba đời, mặt nhựt xế qua tây là súc sanh đi ăn, mặt nhựt về chiều tối là quỉ thần đi ăn; Như Lai nay muốn dứt cái nhân sáu thú, khiến cho chứng vào cái đạo lý trung bình, nên mới chế ra bữa ăn của chư tăng đồng với chư Phật ba đời.”
Sở dĩ Như Lai hằng ở nơi đạo lý trung bình, từ giáng sanh xuống cung vua, cho đến lúc Niết -bàn, thời gian đó, chưa hề ăn nuốt phi thời.
Đời nay, các học giả lại có chia ra là Thiền, là Luật. Bên phe Thiền thì tự gọi là không câu chấp chi cả, mặc ý giờ nào ăn nuốt cũng được, thì ra buông lung không biết thẹn, ăn mãi không luận ngày đêm. Chớ đâu có biết: Thiền là tâm của Phật. Luật là hạnh của Phật, cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa, thảy đều đồng học!?
Nên Luật Bổn nói “Đã đồng học một thầy, như nước hợp với sữa”. Đó, đã đồng học một giáo pháp của Như Lai đại sư thì đâu đặng phân ra là Thiền, là Luật, hòa hợp như nước lẫn sữa, há khá chê bai lẫn nhau?
Lại, Giới tỷ như cơm áo với người, phi cơm áo thì sanh mạng của người đâu sống! Thiền mà không Luật thì huệ mạng của tăng đâu còn! Nên Đại Luật nói: “Tạng Tỳ -ni đó, là mạng sống của Phật pháp, hễ chúng tăng còn giữ giới luật, thì Phật pháp cũng sống còn!” Nên khi sắp vào Niết -bàn, đức Như Lai hãy còn nằng nằng trối dạy, khiến các Tỳ -kheo nương nơi giới luật là thầy (Phật). Tổ Ca -diếp vâng giữ trọn đời, giữa ngày ăn một bữa, Tổ Tổ truyền giữ, chưa hề có Tổ nào hủy giáo diệt luật. Nếu học giả mà được thấõy hiểu hơn Như Lai, đức hạnh vượt Ca -diếp, thì mặc ý hủy đó diệt đó; còn như chưa được như thế, thì mau mau biết đổi, chớ há có lẽ nào, ngộ được tâm của Phật Tổ, mà lại hủy cái hạnh của Phật Tổ ư? Tỷ như đọc sách của đức Khổõng Tử, mà lại chê lễ của đức Khổng Tử? Kẻ thế Nho còn chẳng nỡ làm như thế! Huống chi con nhà Thích tử học đạo xuất thế, mà lại nhẫn tâm chê Luật giáo của Thích Tôn sao!?
Quỉ đói nghe tiếng chén bát, thì trong cuống họng lửa nghiệp nổi cháy! Nên bữa ăn ngọ, còn phải giữ vắng lặng thay, huống lại quá ngọ mà còn ăn ư?
Yên: cuống họng. Bởi người mà quá ư tham ăn bón rít, nên sau khi chết, đọa trong ngạ quỉ đạo (đường ma đói), cuống họng nhỏ như trôn kim, bụng lớn bằng cái trống chầu, thường bị cơn đói khát ép ngặt! Nếu nghe đâu tiếng chén bát bị người khua, thì trong họng cổ nó phực lửa ngọn ra tự đốt cháy luôn cả miệng bụng!
Với trước giờ ngọ, tuy phi thời ăn của ngạ quỷ, mà hãy còn phải giữ vắng lặng, không cho chúng nghe tiếng bát, nổi lửa nghiệp, mà phải chịu cái khổ đốt cháy! Huống là sau giờ ngọ chính là giờ ăn của ma đói, lại khiến cho chúng nghe tiếng bát, thấy đồ ăn, tức nhiên trong bụng ngoài thân đều bị lửa nghiệp đốt cháy! Thích tử lòng từ, nỡ nào làm cho kia chịu khổ, mà Thích tử tự nhiên an tâm ăn ư!?
Thế nên, hai thời (bữa) cháo cơm, còn thí thực chú nguyện, khiến kia được ăn, huống chi phi thời ăn nuốt, khiến cho chúng sanh khổ! Cả hai trái hẳn tâm của Bồ -tát, cũng phi hạnh lành của Thích tử nữa!
Xưa có vị cao tăng, nghe ông sư ở phòng gần, sau giờ ngọ còn nhúm lửa, bỗng chốc rơi lệ khóc, vì thương pháp Phật suy tàn!
Nhen lửa là chữ soán; lên hơi là chữ xuy; nghĩa là nổi lửa để nấu đồ ăn vậy.
Thuở xưa, ngài Pháp Huệ thiền sư, trụ trì ngôi chùa tại huyện Nghiệp, thuộc tỉnh Hà Nam, nghe vị Tỳ -kheo ở bên liêu gần, sau giờ ngọ còn đốt lửa nấu ăn, Thiền sư tự nghĩ: Cách Phật đã hằng xa, người xuất gia phần nhiều chẳng giữ giới luật, nhân thương hại cho Phật pháp đã suy tàn, bất giác sa nước mắt thấm bâu!
Người xuất gia đời nay, đã không cái tâm hộ pháp như bực hiền xưa, mà lại còn sanh lòng hủy chê, lì quen không thẹn được sao?
Đời Tống, vua Huy Tôn nghe lầm lời yêu mị của đạo sĩ tên Lâm Linh Tố, đổi đạo Phật làm đạo Tiên, có Ngài pháp sư hiệu là Vĩnh Đạo, dâng sớ can gián, vua cả giận, bắt Vĩnh Đạo giam vào ngục khai phong. Quan thái thú đất Thung Lăng bảo Sư rằng “Đạo sư nhân ăn rau quả, vả lại không quá giờ ngọ chi cho lắm cũng phi trọn kế để sống, thôi, chi bằng ăn ngũ vị tân và thịt cá còn hơn!” Sư mỉm cười nói “Chết thì ta chịu chết, chớ với điều Phật cấm, ta chẳng dám phạm.”
Lại, đời Đường, pháp sư hiệu Ngộ ân, tự Tu Kỷ, đương thời ai ai cũng xưng tặng là Nghĩa Hổ! Hằng ngày chỉ ăn một bữa, không rời y bát, chẳng chứa của cải, với bữa cháo sớm mai, đích thân xem có ánh rạng đông mới ăn. Mỗi lễ Bố -tát, đại chúng hội họp, lệ dầm dề sa xuống! Bởi nhớ trong kinh Đại Tập có lời rằng: “Những Tỳ -kheo không giữ giới đầy dẫy cõi Nam -diêm-phù-đề.”
Người nay vóc yếu nhiều bịnh, muốn hằng hằng ăn hoài, hoặc có người không thể giữ được giới đây. Nên cổ nhân khen bữa ăn chiều là phương dược thạch, là ý nghĩa dùng làm lành bịnh đói. ắt thế, biết trái lời Phật chế, cả sanh lòng biết hổ thẹn, nghĩ đến ngạ quỷ bị khổ, thường làm việc bi tế, chẳng nên ăn nhiều, chẳng biết ăn ngon, chẳng yên tâm ăn, ngõ hầu mới được vậy!
Sộc: năng. Dược thạch: người xưa chích kim, đốt lá ngại diệp trị bịnh thì dùng bằng đá; đời nay thì dùng bằng sắt, để còn cái dấu tích đó, nên nói là dược thạch. Lại năm thứ đá, đều có thể trị bịnh được, nên cũng kêu là dược thạch.
Người xưa khen bữa ăn chiều là dược thạch đó, bèn là các Tổ đức xưa, quan sát theo căn cơ, chỉ quyền tạm cho một thời đó thôi; Đều rằng ắt biết trái lời chế sắc minh bạch của Phật, thì chẳng nên chấp quyền mà quên thực, cho là cái quy tắc thường đồ. Y pháp chẳng y người, mới là Phật tử có chánh kiến!
Do ắt biết trái Phật chế, nên cả sanh lòng hổ thẹn! Do vì hổ thẹn, nên chẳng an ý để ăn! nhớ ngạ quỷ bị khổ, nên thường hành thương giúp. Do vì thương giúp, nên với bữa ăn lòng chẳng an ý biết ngon, lại bớt phần thí kia, nên chẳng ăn nhiều!
Như có bịnh nặng, phi hơi thóc thì chẳng điều trị được, thầy thuốc bảo ăn, thì cho phép phải ở chỗ vắng mà ăn, khi lành bịnh rồi, liền phải thôi dứt hẳn! Huống bịnh đã lành mạnh rồi, vẫn còn có cao đơn hoàn tán.
Với khi có bịnh, Như Lai cho uống nước nhựa của năm thứ trái, tám thứ tương, đường, mật, sữa, dầu, thế cũng đủ để lành bịnh được, còn dùng chi đến vật phải nhai ăn, riêng trái lời Phật dạy, tự vời lấy tội khốn!?
Nên Tổ Thiên Thai than rằng: “Vì bịnh nên phá giới thứ chín nầy, như phá cái đãy nổi! Tiếc cái thân máu mủ tanh hôi, mà phá cái pháp thân thanh tịnh!
Kinh Xứ Xứ chép lời Phật dạy: “Giữa và sau giờ ngọ chẳng ăn, được phước có năm điều: 1- ít dâm dục; 2- ít buồn ngủ; 3- Được nhứt tâm. 4- ít hạ phong (địt); 5- Được thân an lành, cũng chẳng xuông bịnh”.
Đã rằng an lành, lại chẳng sanh bịnh, thì khi có bịnh, chính phải răn đấy!
Người xưa nói: “Họa từ miệng ra, bịnh từ miệng vào”.
Nên Đại Luật nói: “Tỳ -kheo có bịnh, liền khiến dứt ăn, hạn đến lành bịnh làm chừng, gọi là thuốc thiên nhiên”. Vậy khi có bịnh, khi không bịnh, thường phải quan sát cái thân đây, nó là cái gốc sanh, lão, bịnh, tử, cái nguồn các khổ, rất phải trách mình, hạn chế bớt tình dục, sao lại buông ái căn kia, tự thêm gốc khổ!
Nên sách Pháp Uyển nói: “Chỉ thương vì cái vô thường, khổ, không, nhớ cái khốn, sanh, lão, bịnh, tử, hằng đêm xót điều khổ treo ngược những đắm chìm trôi sa sụp, nghĩ mà đau thương, cũng rất khá sợ! Thế mà, chẳng sợ tai ương lụy kiếp? Chỉ lo sanh mạng một thân! Sở dĩ ăn no ngủ kỹ, khác nào heo, chó; phá trai ăn đêm, không khác quỉ ma! Thế nên thí chủ mất cái phước phải thời, chúng tăng tổn giống lương điền!
Gần đây, thấy kẻ đạo người tục, nghe trong luật mở ra cho uống nước nhựa của các thứ trái; đó rồi, liền bèn ăn nước nhựa của trái táo khô (Dầm lấy nước uống), hoặc với trái lê sống, trái nho tươi, trái lựu chín, chẳng đâm lấy nước uống, mà lại ăn luôn cả hột; hoặc có dầm lấy nước nhựa, mà chẳng lóng trong, nhè lấy nước cặn đục, vớt xác ăn luôn. Hoặc có người nghe luật mở cho uống nước nhựa Xá -lâu-già, để giải bịnh nhiệt, đó rồi bèn lấy ngó củ sen ăn sống. Hoặc có người lấy nước cơm mà uống; hoặc có người không đói khát, phi thời ăn uống sữa, dầu, mật, đường phèn… hoặc có người lấy quả hạnh nhân, chưng cho nước thành keo mà uống. Như thế lộn xộn chẳng một, không thể kể cho hết đặng!
Như hoặc chẳng vậy, mắc tội càng nặng!
Di: lớn, lắm; như hoặc chẳng vậy ấy, nghĩa là không bịnh mà gá rằng bịnh; bịnh nhẹ mà dối rằng bịnh nặng. Lại, chẳng sanh lòng biết hổ thẹn lớn… Mà hủy cấm giới của Phật để ăn, thì mắc tội chẳng nhẹ! Nên nói càng nặng.
Gần đây, có A -sư chẳng hiểu luật dạy, tự bảo là có bảy sự nhân duyên, được ăn phi thời, rằng khi có bịnh, khi chế tác y phục, khi bố thí y phục, khi đi đường, khi đáp tàu, khi đại chúng nhóm họp, và khi Sa -môn thí thực.
Nhưng, nguyên bảy sự đây, chế ra về “giới biệt chúng thực”, mà mở ra cho trước giờ ngọ, có bảy duyên ấy, được phéựp riêng chúng mà ăn; chứ chẳng phải rằng sau giờ ngọ được ăn đâu. Vả lại, bảy sự ấy chẳng hơn gì với giới “phi thời thực”, vì khác xa nhau lắm. Luật đã có câu văn viết rõ ràng, sao chẳng xem xét?
Với 250 giới tướng, còn tự chẳng biết, mà xưng là Tỳ -kheo đó, đâu chẳng hổ ru!? Đã lầm cho mình, lại lầm lây cho người nữa, thì tội lỗi chẳng nhỏ đâu!?
Thuở xưa, ngài Phó Đại Sĩ là hóa thân của đức Di -lặc, mỗi kỳ vào nhà thanh trai, trọn ngày đó không ăn, lại giảm phần cơm của mình, để thí cho kẻ nghèo đói.
Người đời nay, ngày ăn no hai bữa, hãy còn chẳng biết xấu! Nếu trái với điều Phật chế, chẳng trông gương Tổ đức, không nhớ kẻ thiếu hụt, thì đâu được gọi là hảo tâm xuất gia!?
Hoặc có người nói “Tổ Vĩnh Gia bảo “Bực đại ngộ, chẳng câu nệ nơi tiểu tiết”, như vậy, thì đâu phải ở nơi mọn mọn mà hành trì?
Đáp: Đấy là chỉ rõ về chỗ lý thực tế, chẳng chịu một mãy gì, rất đổi với chân như Phật tánh, còn chẳng lập thay, huống là tiểu tiết kia ư?
Như nói “Với phòng dâm, quán rượu, đâu chẳng là thanh tịnh đạo tràng (chùa)”. Đó là đứng về mặt lý tánh mà nói; dẫu chấp về sự tướng mà nói bướng như thế, thì vào địa ngục mau như tên bắn.
Kìa, đức Ca -diếp kiết tập luật, còn chẳng dám bỏ những giới vi tế thay, thì sao ông dám nói là chẳng câu nệ? Nếu là người bực thượng thượng căn, với sự sự đều được không ngại, thì giữa muôn sự cũng chẳng bỏ một pháp nào, thế lại còn có tiểu tiết gì mà thất câu nệ ư?
Hoặc nói: Có hai thầy Tỳ -kheo phạm dâm và sát, ông ưu -ba-ly kết thêm tội, ông Duy -ma liền dứt nghi. Đấy lại thế nào?
Đáp: ấy là chỉ rõ về cái điều vô tâm phạm giới vậy. Nguyên hai vị Tỳ -kheo kia, cùng ở chung thảo am trên núi. Bữa nọ, một ông ra ngoài dạo núi chơi; một ông ở nhà ngồi thiền rồi nằm ngủ muồi mẫn… Nhưng đương bấy giờ có tiều nữ vào am kiếm nước uống, thấy vậy, trộm phạm tịnh giới của ông, khi ông giựt mình thức dậy, biết thế, tự tâm chẳng yên! Kế ông ra ngoài trở về, ông ở nhà kể bày việc trên, ông kia liền giận, rượt đuổi tiều nữ, tiều nữ sợ chạy sa xuống hầm suối mà chết!
Ñoù, rồi hai ông đều ôm lòng lo buồn! Vì một đàng bởi vô tâm mà bị phạm dâm, một đàng bởi vô tâm mà bị phạm sát. Do ban đầu Như Lai kết giới, chưa chế ra điều “Vô tâm thì chẳng phạm”. Nên ngài ưu -ba-ly cứ theo tội mà kết tội, nếu mà hữu tâm, thì mắc nghiệp đọa A -tỳ liền! Dầu cho có đặng làm pháp Yết -ma sám hối đi nữa, thì chỉ khỏi đọa địa ngục mà thôi chứ hiện đời đâu được chứng quả ngộ đạo. Đó, nếu lấy điều dâm, điều sát cho là tiểu tiết, thì chẳng biết còn lấy điều gì làm đại giới ru?
Hoặc nói ngài Dõng Thí xét tội tánh trọn chẳng khá đặng, liền qua phương đông, chóng thành quả chánh giác, đó, sao lại nói hiện đời chẳng đặng chứng quả ngộ đạo?
Đáp: Dõng Thí chính là Bồ -tát tái lai thị hiện, khiến cho đời sau những người làm lễ sám hối, phải hiểu thấu tội là nó không có tự tánh, tức là nó không thực có, chỉ mê vọng mà thôi, tâm không pháp không, thì tội do đâu có, xét hiểu như thế, là diệt được căn bản của nghiệp. Ví dẫu Ngài phi bực tái lai, thì đâu có thể thành Phật chóng thế. Nên có kinh nói “Nhiều kiếp đã làm tiên nhẫn nhục”, đó là rõ ra rằng chẳng phải chỉ một đời hiện tại đó đâu.
Như hoặc chưa được vậy, xin tự xét lại mình coi. Chư Phật có vô lượng thần thông diệu dụng, còn ông nay thì trăm phần không có một khả năng nào, thế, do đâu liền thành quả chánh giác? Đối với sự,, tánh, tướng, mắt chạm đến đâu là lù mù đến đó, thế, làm sao chẳng câu nệ tiểu tiết? Tham sân đầy bụng, chấp nhân chấp ngã lấp hông, chưa có thể nghe lời chê như uống vị cam lộ, thế do đâu chóng vào cảnh giới bất tư nghì?
Há chẳng nghe thừa, giới đều cần cấp, tỷ như chim có hai cánh, bay luyện chốn Tiêu Hán, trên gió phù diêu muôn dặm, đặng không khoái ru? Nếu như một phen quấy sanh điều hiểu tà, tức sa vào chỗ trống không, bát bỏ lý nhân quả, thế gây bởi tâm, họa vào thân! Hoặc như chẳng tín, nên xem văn dưới.
ôi há chẳng răn sao?
Đại Luật nói “Các Sa -môn Thích tử, thà chịu cái khổ tự mổ bụng mình, chớ nên ăn đêm!
Kinh Sa-di ni giới nói “Nếu quá nhật trung rồi, mà dẫu cho các vị quốc vương, trưởng giả đem vật thực cúng thí đi nữa, cũng chẳng đặng ăn, thà trọn nhịn đói mà chết, chớ chẳng phạm đến giới thứ chín đây vậy!
Kinh Đại Thừa Liên Hoa Tạng nói “Người mà đã thụ lãnh cấm giới của Phật rồi, nếu chẳng làm gương để hộ trì cho tương lai, lại cùng nhau đều nói rằng “Ta đây là y theo pháp Đại thừa”, thế là dường như ở trong đêm tối! Hoặc đều tự nói với nhau rằng: “Ta đây đã đắc Phật pháp”, thế là phải đọa địa ngục thiếc tương (tấm cà -sa bằng sắt)! Sau khi ra khỏi địa ngục, lại sanh làm người câm, ngọng, điếc, đui, không thấy chánh pháp”.
Lại, kinh Xá -lợi-phất chép lời Phật dạy: “Nầy,-lợi-phất! Người ăn phi thời, là người phá giới, là người phạm giới trộm, là người bị bịnh lác sói đầu, chớ chẳng phải xuất gia thụ giới thế độù cạo tóc! Vì phá hoại quả lành, phi đệ tử của ta! Vì trộm pháp lợi của ta, như là trộm danh, trộm cơm một vắt, một vốc, chút muối, chút tương, chết rồi đọa địa ngục đốt ruột, nuốt huờn sắt nóng! Từ địa ngục ra, sanh trong loài heo chó, ăn đồ bất tịnh, và sanh làm loài chim quái gở, xú ác, ai cũng ghét tiếng nó kêu! Sau sanh làm ngạ quỷ, trở lại trong vườn chùa, ở nơi nhà xí, ăn nuốt phẩn uế, cả trăm ngàn muôn năm! Lại sanh trong loài người nghèo hèn cùng khốn, ai cũng chán ghét! Có nói năng lời chi, người ta chẳng tin dùng!
Thế chẳng thà ăn trộm tài vật của một người, tội hãy còn nhẹ, còn ăn phi thời là cướp đoạt ruộng phước giống lành của nhiều người, là dứt đứt con đường giải thoát ra khỏi thế gian, là kẻ giặc cướp lớn, tức là quỉ đói, tức là làm cái ổ hang tội!
Người mà ăn bữa chánh thời đó, tức là ruộng phước, tức là xuất gia, tức là bạn lành của nhân thiên, tức là Đạo sư của trời và người; như lời Phật nói đã dẫn trên đó, khiến người lông xương rởn ốc! Sao vì cái ăn một bữa phi thời đó, mà để nhiều khốn lụy đến thế!?
Phàm là người có trí biết suy xét, khá chẳng nghĩ sâu để răn mình ư!?
 
Chú Thích
Giới phi thời thực: Giới cấm ăn phi thời. Đây là nguyên nhơn mà Phật chế giới Cấm ăn phi thời; giới đây là giới thứ 37 trong 90 Ba -dật-đề của Tỳ -kheo giới. Chung gọi là điều Giới pháp để cấm chẳng cho qua giờ ngọ rồi mà còn ăn nữa. Nguyên nhân như thế nầy.
Luật Ngũ Phần, quyển 8 chép rằng “Phật ở tại thành Vương Xá, bấy giờ Phật chưa vì Tỳ -kheo chế giới phi thời thực, vì chưa có duyên sự. ông Ca -lưu-ñaø-di, ban đêm, ông mặc áo tạp sắc bởi vá nhiều giẻ xen màu, mặt ông thì da đen, tròng con mắt thì đỏ, đêm tối đi khất thực. Cô thí chủ là phụ nữ có thai bưng thức ăn ra dâng, vừa lúc chớp sáng, thấy rất kinh sợ, la rằng quỷ Tỳ --cha (dịch quỷ ăn tinh khí)! Và té, đọa thai! Nhân đó thấu đến tai Phật, Phật bèn kết giới rằng “Nếu Tỳ -kheo ăn phi thời, phạm lỗi Ba -dật-đề”.
Phi thời thực: ăn phi chánh thời. Nghĩa là mặt nhựt qua giữa ngày rồi mà còn ăn. Luật chế làm giới pháp, như “chẳng ăn qua giữa ngày”, trong bát quan trai, và trong 10 giới Sa -di, và “giới phi thời thực” của Tỳ -kheo giới. Số là sự tu hành trong đạo Phật, buộc phải hạn chế cái điều tham muốn ăn vậy.
Phi thời: Luật dùng từ sớm mai đến lúc mặt nhựt đúng giữa ngày gọi là chánh thời, từ mặt nhật đúng ngày, đến phần sau của đêm, là phi thời. Xuất ở bộ Tát --đa Tỳ --sa Luận, cuốn thứ 7.
Ba-la-ñeà-mộc-xoa: Một danh trong ba danh giới luật. Dịch Biệt giải thoát; lại nói Xứ xứ giải thoát. Giới luật của 7 chúng theo chỗ thụ lãnh, đều là nghĩa giải thoát 7 điều ác của thân nghiệp và khẩu nghiệp, mà chọn riêng làm định côùng giới, đạo cộng giới, gọi là biệt giải thoát giới. Có hai nghĩa. 1- Vì giữ giới hạnh, hay khỏi nghiệp quấy, nên gọi giải thoát; 2- Hay đặng quả giải thoát kia, nên gọi là giải thoát.
Huân huyết: Hôi cay máu thịt. Huân là thứ rau hôi mà cay. Thế tục cho rằng ăn thịt là chữ huân; ăn rau là chữ tố. Lại, huân tân là thứ rau quá nồng xẳng. Sách phiên dịch danh nghĩa chép rằng: “Hôi mà chẳng cay là vị a ngùy; cay mà chẳng hôi là gừng với hột kinh giới. Vừa hôi vừa cay là ngũ vị tân”. Kinh Phạm Võng nói “Chẳng đặng ăn ngũ vị tân” Ngũ vị tân là: Hành, hẹ, tỏi, nén, rau hưng cừ (chẳng phải vị hưng cừ trong thuốc bắc là a ngùy), kiệu cũng là một loại với hành, không nên ăn, bởi khí vị, tánh chất cũng cay hôi!
Nghĩa hổ: Hiểu nghĩa rất mãnh liệt, tỷ như cọp vậy. Sách Thích Thị Yếu Lãm nói “Vị Cao tăng là ngài Đạo Quang, ở đất Giang Đông, nghiên cứu nghĩa lý, người bấy giờ đều xưng tụng Ngài là Nghĩa Hổ.”
Đại Tập: Gọi đủ là Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh. Đại Phương Đẳng là cái danh thông đồng cả Đại thừa kinh. Phật ở trung gian hai cõi Dục giới, Sắc giới rộng nhóm chư Phật Bồ -tát từ mười phương về hội họp, rồi Phật nói ra kinh Đại thừa, gọi đó là Đại Tập Kinh, từ trước đến sau, các pháp sư đều dịch mỗi một bộ phận, không được toàn bổn. Tạng bổn của nước Cao Ly gồm thâu các bộ của các sư dịch lại, hợp thành một bộ có 60 quyển.
Diêm-phù: Cựu dịch là Diêm -phù-ñeà, tân dịch là Thiệm -bộ-châu. Vị trí ở Nam núi Tu -di, tên một châu lớn, tức là chỗ chúng ta ở đây. Diêm -phù, tân dịch là Thiệm -bộ, tên cây; Đề kêu đủ là Đề -bệ-ba, dịch là châu. Chính giữa châu này, có rừng cây diêm phù, nên lấy tên cây đặt tên Châu vậy. Lại, thuộc về phía Nam núi Tu -di, nên gọi là Nam -diêm-phù-đề.
Dược thạch: Dược là phương dược; thạch là phiến thạch. Đều sở dĩ để trị bịnh vậy. Lại, dùng lời nói qui giới để công kích lỗi người, như lấy dược thạch để công trị bịnh người, nhân dùng làm tỷ dụ. Sách tả truyện chép “ông Tang Tôn nói “ông Mạnh Tôn ghét ta, là dược thạch vậy. Nghĩa là tiếng nói kín bữa cháo chiều của Thiền lâm.” Sách Hoàng Thanh Quy nói “Dược thạch là bữa ăn chiều. Tỳ -kheo quá ngọ rồi chẳng ăn, nên bữa ăn chiều gọi là dược thạch, vì lành bịnh đói khát vậy”.
Ngũ thạch: Bạch thạch anh, tử thạch anh, thạch cao, chung nhủ, thạch chi, lại có 5 thứ đá, các tu sĩ bên đạo tiên, luyện ngũ thạch để ăn, làm cái thuật trường sanh. Sách Bảo Phốc Tử nói “Ngũ thạch là đơn sa, hùng hoàng, bạch phàn thạch, tăng thanh, từ thạch”. Bài thơ của ông Khoách Phốc có câu rằng: An kỳ luyện ngũ thạch.
Châm cứu: Chích, đốt. Một phương pháp của cổ nhân để trị bịnh, xét nơi mỗi huyệt, đường kinh, đường mạch của người bịnh, hoặc dùng kim chích, hoặc dùng lá ngại đốt, để cứu trị đó. ông Hoàng đế có bộ kinh châm cứu; Tổ Biển Thước có bài phú châm cứu Ngọc Long; đời Đường có bản đồ châm cứu; đời Tống có bản đồ Đồng Nhân Du Huyệt châm cứu. Đời nay với người được tinh thông phương pháp ấy đã ít có rồi!
Ngũ quả: Năm thứ trái cây, 1- A-tử, 2- Bi ích, giống trái đào, xứ này không có, 3- Dư cam tử, 4- Tất bạc, 5- Hồ tiêu (tất bạt là trái tiêu lốt, hồ tiêu là tiêu hột). Lại, ngũ quả: 1- Hạch quả, như trái táo, trái hạnh, trái đào, trái lý…; 2- Phu quả, như trái dưa, trái lê…; 3- Xác quả, như trái hồ đào, trái thạch lựu…; 4- Khoái quả, như hột tùng, hột bách…; 5- Giác quả, như các thứ trái đậu lớn, trái đậu nhỏ, trái ấu… Thấy ở tập danh nghĩa thứ ba, và Vu Lan Bồn kinh Sớ Tân Ký cuốn hạ. Mà trong luật thường kể ngũ quả.
Bát tương: Tám thứ nước nhựa: 1- Trái lê, 2- Hột trái diêm phù, 3- Trái toan táo, 4- Nước cây mía, 5- Trái hủy nhuy, 6- Ngó sen, 7- Bà lâu sư, hột của nó giống trái anh áo, xứ này không có, 8- Trái nho; Tám món kể trên, dùng vật ép ra nước lấy đảy lược, đứng trong, chắt nước vào đồ sạch, đợi lóng trong sẽ uống, chẳng đặng nhai nghiến, và chẳng đặng sắc lấy nước uống. Đời nay, người ta lại còn ăn mật cảm lảm, nước ngọt dưa hấu, nước ngọt bí đao (đông qua), sắc củ khoai mài (hoài sơn), hột bo bo (ý dĩ), lấy nước để uống vào khoảng phi thời, rất là phi pháp.
Tô du: Do sữa của bò, dê nấu ra dầu. Nghĩa là đem sữa để vào cái chảo, nấu hai ba dạo sôi, bưng nghiêng trút vào cái bồn để nguội, đóng váng, vớt cái váng ấy sắc nữa ra dầu, bỏ cặn, trút vào nồi, thành tô du. Thấy ở sách Cù Tiên Thần ẩn.
-lâu-già: Nước nhựa ngó sen. Luật Thiện Kiến cuốn 17 nói: Lấy ngó hay là củ của hai thứ sen ưu -bát-la, câu-vật-đầu giã nát, vắt lấy nước, lóng trong gọi là Xá -lâu-già tương.
A-: Cũng như a -thùy, a nương: Người nào, nàng nào. A sư: Thầy nào, như nói: ông sư nào đó. Sách Bích Nham Trứ nói: Đa khẩu a sư, thầy nào nhiều miệng thế.
Thanh trai: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ngã thời từ Phật, yên hối thanh trai. Bấy giờ tôi từ giả Phật, ngày Hối Yên nhà thanh trai”. Lời chú: Hối là ngày cuối mỗi tháng âm lịch. Thanh trai là cái thất (tịnh thất). Lại, sách Thích Thị Yếu Lãm quyển hạ nói: Ngày nay, tục lệ của dân, dùng giờ thìn, uống một chung nước, trọn ngày đó không ăn chi cả, gọi là thanh trai.
Thực tế lý địa: Cảnh giới chân như vô tướng. Bộ Hộ Pháp Lục cuốn 6 nói: “Thực tế lý địa bất nhiễm nhứt trần”. Nghĩa là: Chỗ chân tâm không nhiễm một mảy bụi.
Thượng thượng căn nhân: Hạng người trên bực thượng căn. Thượng nhân là người bực thượng đức; nhà Phật gọi trong tâm có đức trí, ngoài thân có thắng hạnh, ở trên cả người, nên gọi là thượng nhân. Mà thượng thượng căn nhân lại còn cao hơn thượng nhân một bực nữa.
Lại, kinh Ma-ha Bát -nhã nói “Người mà nhứt tâm hành A -nậu Bồ -ñeà, tâm chẳng tán loạn, gọi là thượng nhân.” Kinh Niết -bàn cuốn 14 nói “Người bực thượng căn là voi chúa của loài người, như các ngài Ca -diếp Bồ -tát…
Ba-ly Tăng tội kiết: Chứng Đạo Ca chép: “Hữu nhị Tỳ -kheo phạm dâm, sát, Ba-ly hoanh quang tăng tội kiết, Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi, du như hích nhật tiêu sương tuyết: Có hai Tỳ -kheo phạm dâm sát, Ba-ly lửa đốm thêm kết tội, Duy-ma đại sĩ liền dứt nghi, dường như nhựt đỏ tan sương tuyết. Chú: Lửa đốm là tỷ trí của Thanh văn; nhựt đỏ là dụ trí của Phật. Lấy bốn ánh sáng dụ bốn trí, nghĩa là: Sáng mặt nhựt dụ trí của Phật; sáng của mặt trăng dụ trí của Bồ -tát; sáng ngôi sao dụ trí của Duyên giác; sáng lửa đốm dụ trí của Thanh văn.
Tánh tướng: Tánh là tự thể của pháp, ở trong chẳng khá đổi được. Tướng là tướng mạo, hiện ở bên ngoài, khá phân biệt được. Hữu vi vô vi đối nhau, thì pháp vô vi là tánh, pháp hữu vi là tướng. Mà hữu vi vô vi đều có tánh tướng. Tự thể là tánh, còn cái mà biết được nó là tướng. Trí Độ Luận cuốn 31 nói: Tánh là chỉ cho thể; Tướng là nói có thể biết được .
Cam lộ: Tiếng Phạm Amrta (A-mât-rị-đa) dịch Cam lộ, một tên lạ là rượu trời, nước ngon. Mùi ngọt như mật, vật của các trời ăn. Sách Quang Minh Văn Cú cuốn 5 nói: Cam lộ là thuốc bất tử của chư thiên, vì ăn nó là mạng dài thân an, sức mạnh vóc sáng. ông Sanh nói: Món ăn của trời là vị cam lộ, ăn vào thì trường thụ, bèn gọi là thuốc bất tử.
Dũng thí: Kinh nói đời quá khứ có một Tỳ -kheo tên Dũng Thí, phạm bốn trọng tội, muốn được thanh tịnh lấy ba pháp y vắt lên tích trượng, dạo đi, cao giọng hô rằng: Tôi phạm trọng tội, ai chứng cho tôi sám hối? Gặp đức Tỷ -cúc-đa-la tôn giả bảo đem tội lại đây ta sám cho! Dũng Thí tìm xét tội tánh nó chẳng có, rỗng vậy đại ngộ, liền qua phương đông, thành Phật hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Nên nói thành Phật rất chóng!
Tiêu hán: Chỗ mé trời. Sách Hậu Hán nói: Khá dùng lên Tiêu Hán ra ngoài vũ trụ.
Phò diêu: trên giữa trời, có thứ gió xoay vần mạnh lắm, các loại chim không thể bay qua được, chỉ có con cá côn hóa làm chim bằng mới có thể lách gió phò diêu, vượt lên muôn dặm. Xuất ở sách Trang Tử. Bằng tức là chim đại bàng.
Lương phước điền: Ruộng phước thiện lương, tức là ngôi Tam Bảo vậy. Do vì cúng dường Tam Bảo, thì phát sanh được vô lượng phước lợi. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Thị chư chúng sanh đại lương phước điền.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.(  3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.7/7/2014.