Thursday 21 June 2012

SA DI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC THƯỢNG HẠ
Đệ-Tử, Bồ-Tát-giới, chùa Vân-Thê Sa-Môn Châu-Hoằng biên-tập.
Thích Tâm Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
THIÊN TRÊN: CỬA GIỚI-LUẬT
Phật dạy người xuất-gia, năm Hạ trở về trước chuyên-tinh về giới-luật, năm Hạ trở về sau, mới cho nghe giảng về giáo-lý và tham thiền.
Thế nên, vịSa-Di cạo tóc rồi, trước phải thụ mười giới, sau mới đến giới-đàn thụ giới Cụ-Túc. Nay được tên Sa-Di, chính do ở chỗ thụ giới. Thế mà, người ngu mờ vậy không biết, người dại khinh mà chẳng học, lại toan vượt bực, ý muốn cao xa, cũng đáng thương xót!
Nhân đem mười giới, lược-giải vài lời, để cho người mới học, biết phương-hướng tới. Người hảo tâm xuất-gia, dốc chí vâng làm, cẩn-thận, chớ có trái phạm.
Như thế, sau này, gần thì làm thềm bực cho giới Tỳ-Khưu, mà xa thì làm cội gốc cho giới Bồ-Tát.
Nhân giới sinhđịnh, nhân định phát tuệ, ngỏ hầu thành-tựu Thánh-đạo, chẳng uổng chí người xuất-gia vậy!
Nếu ai muốn xem rộng hơn, tự mình nên xem trọn bộ Luật-tạng.
Mười giới sauđây, rút trong kinh Sa-Di Thập-Giới. Đức Phật sai Tôn-Giả Xá-Lỵ-Phất truyền-trao cho ông La-Hầu-La.
GIỚI THỨNHẤT: KHÔNG SÁT SINH
Trên từ chưPhật, Thánh-nhân, sư, tăng, cha mẹ và dưới cho đến các loài: bò, bay, cựa-quậy... côn-trùng nhỏ-nhặt, phàm các loài có tính-mạng không nên cố ý giết. Hoặc mình giết, hoặc xúi người giết, hoặc thấy người khác giết tùy-hỷ, trong kinh nói rằng: “Ai phạm giới này chẳng phải là Sa-Di vậy.” (Trong kinh, luật nói rộng-rãi vì văn nhiều, nên không chép ra đây).
Trong kinh chép: “Tháng mùa Đông hay sinh ra loài rận, nếu áo có rận, bắt bỏ vào ống và lấy bông gòn cho vào cho nó ấm, rồi cạo những cấu nhơ trong mình, bò vào cho nóăn. Với tâm từ, còn sợ chúng đói, lạnh mà chết, huống là còn dám giết chúng!
Cho đến, những việc như lọc nước, che đèn, không nuôi các loài mèo, chồn v.v.. đều là đạo từ-bi của đức Phật. Loài nhỏ còn không nuôi, loài lớn chúng ta hẳn biết rõ ý vậy!
Hạnh từ-bi nhưthế, mà người đời nay không làm được, còn thêm sự giết hại, nên chăng?
Trong kinh Sa-Di Thập-Giới có nói: “Thi ân tế phạp, sử kỳ đắc an” nghĩa là, ra ân cứu giúp lúc người bị thiếu ngặt, khiến cho họ được yên vậy, nếu thấy kẻ khác giết-hại, nên khởi tâm từ.
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ HAI: KHÔNG TRỘM CẮP
Giải rằng: Những vật quý trọng như vàng, bạc cho đến vật nhỏ như cây kim, ngọn cỏ, người ta không cho thì không được lấy.
Hoặc của thường-trụ, hoặc của tín-thí, hoặc của chúng-tăng, hoặc của nhà nước, hoặc của dân, hoặc của tất cả; hoặc cướp ngang mà lấy, hoặc ăn cắp, hoặc dối gạt mà lấy..., cho đến việc trốn thuế, dối đò v.v.., đều là thái-độ gian-trộm!
Trong kinh chép: “Một Sa-Di trộm của thường-trụ bảy trái cây, một Sa-Di thứ hai trộm của chúng-tăng vài cái bánh, một Sa-Di thứ ba trộm của chúng-tăng một chút đường phèn, cả ba Sa-Di này, khi chết phải đọa vào địa-ngục.”
Vì vậy, trong kinh có nói: “Thà chịu chặt tay chứ không lấy của phi-tài.”
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ BA: KHÔNG DÂM DỤC
Giải rằng: người tại-gia giữ năm giới, chỉ cấm tà-dâm. Người xuất-gia thụ mười giới, đoạn hẳn dâm-dục.
Hễ can-phạm tất cả nam, nữ trong thế-gian, đều là phá giới.
Kinh Lăng-Nghiêm chép: “Tỳ-Khưu-Ni Bảo-Liên-Hương, riêng làm việc dâm-dục và tự nói rằng: dâm-dục không phải như sát-sinh, như ăn trộm, không có tội báo, liền cảm thấy trong thân sức nóng phát ra mãnh-liệt và sinh-thân ấy phải đọa vàođịa-ngục.”
Người đời vì dâm-dục, thân mất, nhà tan. Người xuất-gia, ra khỏi nhà thế-tục làm vị Tăng, há lại vi-phạm!
“Căn-bản sinh-tử,dâm-dục là thứ nhất.”
Trong kinh nói:“Dâm-dật mà sống, chẳng bằng trinh-khiết mà chết.”
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨ TƯ:KHÔNG NÓI DỐI
Giải rằng: Nói dối có bốn loại:
Một là, Vọng-Ngôn: Nghĩa là, lấy phải làm trái, lấy trái làm phải; thấy nói là chẳng thấy, chẳng thấy nói là thấy, nói những lời dối-trá chẳng thực v.v ...
Hai là, Ỷ-Ngữ:Nghĩa là, những lời nói thêu-dệt trau-chuốt, khúc hát hay, lời tình-tứ, khơi lòng dục, thêm sự bi-cảm, làm xiêu tâm-chí người ta.
Ba là, Ác-Khẩu: Nghĩa là lời nói thô-ác, mắng nhiếc người ta v.v..
Bốn là, Lưỡng-Thiệt: Nghĩa là nói lưỡi đôi chiều, hướng người này nói người kia, tới người kia nói người này, ly-gián ân-nghĩa, xúi giục đấu-tranh v.v... Cho đến, trước khen, sau chê, trước mặt phải, sau lưng trái. Chứng ghép tội cho người và vạch bày cái xấu của người.
Như trên, đều thuộc loại vọng-ngữ.
Nếu kẻ phàm-phu tự nói mình đã chứng được quả Thánh, như nói: “Mình được quả Tu-Đà-Hoàn, quảTư-Đà-Hàm v.v...” gọi là đại-vọng-ngữ, tội ấy rất nặng.
Còn vọng-ngữ vì cứu người cấp-nạn, phương-tiện quyền biến khéo-léo, từ-bi giúp ích cho người, thì không phạm.
Cổ-nhân nói:“Điều cốt-yếu để lập công-hạnh cho mình, trước tiên là không được vọng-ngữ”.Người đời còn thế, huống là người học đạo xuất-thế!
Trong kinh chép:“Một Sa-Di khinh cười một vị Tỳ-Khưu già đọc kinh, tiếng như chó sủa mà vịTỳ-Khưu già ấy đã là bực A-La-Hán. Nhân ấy vị Tỳ-Khưu già dạy cho vị Sa-Di kia biết, nên gấp sám-hối, hầu khỏi đọa vào địa-ngục, nhưng vẫn phải làm thân chó.”Một lời nói ác, bị hại đến thế! Vì vậy trong kinh nói: “Ôi, người ta ở đời, búaở trong miệng. Sở dĩ, thân mình bị chém, là do lời nói ác” .
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨNĂM: KHÔNG UỐNG RƯỢU
Giải rằng: Uống rượu là uống những thứ gì có chất rượu, có thể làm say người ta. Nước Tây-Vực xưa có nhiều loại rượu. Có những loại, lấy cây mía, trái nho, các thứ hoa mà làm ra rượu. Và, Trung-Hoa lấy gạo làm ra rượu, cũng đều không nên uống.
Trừ khi có bịnh nặng, nếu không có rượu, không sao chữa khỏi được, nên bạch cho chúng biết, rồi sau mới uống. Vô cố, một giọt cũng không được thấm vào môi.
Cho đến, khôngđược ngửi rượu, không được dừng ở nhà làm rượu và, không được lấy rượu cho người uống.
Ông Nghi-Địch làm rượu rất ngon, vua Vũ-Đế nhà Hạ uống biết, nhưng nhân đó liền cấm dứt.
Vua Trụ nhà Ân, làm ao đổ rượu, nước phải diệt vong!
Làm vị Tăng mà uống rượu, đáng hổ-thẹn lắm!
Xưa kia có một ông Ưu-Bà-Tắc-giới, nhân vì phá giới rượu mà các giới liền bị phá. Trong 36 lỗi, chỉ một lần uống rượu liền phạm hết. Như vậy, lỗi chẳng phải nhỏ!
Những người ham uống rượu, chết phải đọa vào trong địa-ngục Phí-Thỉ (phân sôi), đời đời ngu-si, mất giống trí-tuệ.
Rượu là thứthuốc dại mê-hồn, tệ hơn vị tỳ-chậm. Cho nên trong kinh Thập-Giới nói rằng: “Thà uống nước đồng sôi, đừng nên phạm vào rượu”.
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨSÁU:
KHÔNG ĐEO TRÀNG HOA HƯƠNG,
KHÔNG THOA HƯƠNG VÀO MÌNH.
Giải rằng: Tràng hoa là một vật phẩm, người Tây-Vực (Ấn-Độ) lấy hoa xâu làm tràng, để trang sức trên đầu. Như người Trung-Hoa, lấy các loại nhung, lụa, vàng, ngọc, châu báu chế làm khăn, mũ v.v... vậy.
Thoa hương vào mình, như những người sang bên Tây-Vực lấy các thứ danh-hương nghiền làm bột và bảo kẻ thanh-y thoa vào mình. Tại Trung-Hoa có những thứ như đeo hương, xông hương và các thứ son phấn v.v...
Người xuất-gia há nên dùng những thứ ấy!
Đức Phật chế ra ba y, toàn dùng bằng vải gai, to, thưa. Những thứ bằng lông thú, miệng con tằm hại vật, tổn lòng từ, chẳng phải các thứ người xuất-gia nên dùng.
Trừ khi người nào tuổi đến bảy mươi, già yếu quá, không có vải lụa thì không ấm, nên có thểmặc được. Những người khác thì không được.
Vua Vũ nhà Hạmặc áo xấu, ông Công-Tôn nhà Hán đắp mền vải. Vua, quan là hàng sang-trọng,đáng sắm mà còn không sắm, há là người tu mong đắc đạo lại trở lại tham đồ mặc hoa-mỹ ư? Y-phục hoại sắc, áo phấn-tảo che thân-hình, mới hợp với người xuất-gia vậy.
Xưa kia có vịCao-Tăng( tức là Huệ-Hưu Pháp-Sư, đời Đường) ba mươi năm mang một đôi giầy, há là kẻ phàm vậy ư?
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨBẢY:
KHÔNG CA, VŨ,XƯỚNG KỸ, KHÔNG ĐI XEM, NGHE
Giải rằng: “Ca”là miệng hát ra những bài hát. “Vũ” là thân làm trò múa giởn. “Xướng kỹ” là những loại đàn cầm, đàn sắt, ống tiêu, ống quản v.v...
Không được tựmình làm, không được khi người khác làm, cố ý đến xem, nghe.
Xưa kia có ông Tiên, nhân nghe các cô gái hát giọng tiếng vi-diệu, liền mất thần-túc-thông. Xem, nghe còn hại như thế, huống là mình tự làm ư?
Người ngu-mêđời nay nghe trong kinh Pháp-Hoa có câu: “Tỳ-bà nạo-bạt” liền tha-hồ đi học âm-nhạc. Song, trong khinh Pháp-Hoa nói về âm-nhạc, là để cúng-dường chư Phật, không phải là để vui cho mình!
Những tự-việnứng-hợp với việc làm đạo-tràng pháp-sự cho nhân-gian, còn có thể làm được. Nay vìđường sinh-tử, bỏ tục, xuất-gia, há lại không tu việc chính, mà lại đi cầu học nghề âm-nhạc cho giỏi sao?
Cho đến đánh cờvây (vi-cơ), cờ lục-bác, ném xúc-xắc (đầu-trịch), đánh bạc (su-bồ) các việc,đều loạn đạo-tâm tăng thêm lỗi xấu.
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨTÁM:
KHÔNG NGỒI GIƯỜNG CAO, RỘNG, LỚN
Giải rằng: Đức Phật chế giường cây, cao không quá tám ngón tay đức Như-Lai. Quá kích-thước đó thời phạm.
Cho đến các thứgiường sơn vẽ, chạm trổ và các thứ màn nệm bằng tơ lụa cũng không nên dùng.
Người xưa dùng cỏlàm tòa ngồi, đêm thì nằm ngủ dưới gốc cây. Nay ta có giường chõng cũng đã hơn xưa rồi, sao còn muốn giường cao, rộng chỉ làm buông-lung cho tấm thân giả-dối!
Ngài Hiếp-Tôn-Giả, suốt đời, lưng chẳng đặt xuống chiếu. Ngài Cao-Phong-Diệu Thiền-Sư lập nguyện đứng ba năm, không bén tới giường chõng. Ngài Ngộ-Đạt Quốc-Sư đời Đường, nhân ngồi lên tòa trầm-hương giảng pháp, còn bị tổn phước mà mắc quả báo.
Than ôi, có thểmà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨCHÍN: KHÔNG ĂN PHI THỜI
Giải rằng: Phi thời là quá giờ Ngọ, không phải thời-phận của chư Tăng ăn. Chư Thiên ăn sớm mai. Chư Phật ăn giờ Ngọ. Loài quỷ ăn tối. Chúng-Tăng nên học Phật, không ăn quá giờ Ngọ.
Loài Ngã-Quỷnghe tiếng chén bát thời trong cổ họng bốc lửa. Vì vậy, ăn đúng giờ Ngọ, còn nên im-lặng, huống là ăn quá giờ Ngọ ư?
Xưa kia có vịCao-Tăng (Pháp-Huệ Thiền-Sư) nghe vị Tăng ở căn phòng bên, sau giờ Ngọ, nổi lửa nấu ăn, bất giác, ngài sa nước mắt khóc, thương Phật-Pháp suy-tàn vậy!
Người đời nay, thân-thể suy-yếu, nhiều bịnh muốn ăn hoài hoài, hoặc không thể giữ được giới này, nên người xưa có nói bữa ăn chiều vì muốn chữa bịnh, cũng ví như“Dược-Thạch”. Tuy thế, phải biết, đó là trái lời Phật dạy sinh tâm rất thẹn-hổvà, phải nghĩ đến nỗi khổ của loài Ngã-Quỷ, thường làm việc thương xót cứu giúp, không ăn nhiều, không ăn ngon, ăn mà tâm-ý không yên, họa may mới có thể được! Và, nếu chẳng được như thế, mắc tội rất nặng!
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
GIỚI THỨMƯỜI:
KHÔNG CẦM GIỮ ĐỒ SINH, TƯỢNG, VÀNG, BẠC, CỦA BÁU
Giải rằng:“Sinh” là vàng thực. “Tượng” là tương-tự (gần giống như); tương-tự vàng là bạc. Nghĩa là: Vàng, bổn-chất của nó vàng, nay đem bạc nhuộm màu vàng, màu nó giống như vàng mà thôi!
Của Báu, đây là chỉ cho bảy thứ châu báu vậy.
Vì các thứvàng, bạc, của báu trên đều thêm lớn lòng tham, hư hại đạo-nghiệp, nên đức Phật khi còn tại thế, chư Tăng đều đi khất-thực, không lập lò bếp; y-phục, phòng-thất, đều nhờ thí-chủ ủng-hộ. Đã nhờ ngoại duyên ủng-hộ, dù có cầm giữvàng bạc, cũng thành vô-dụng. Cầm giữ còn cấm, thì biết được sự thanh-bạch nhưthế nào!
Ông Quản-Ninh và ông Hoa-Hâm đời nhà Hán cuốc đất được vàng, chẳng thèm lấy. Người thế-nho còn thế, người Thích-Tử xưng là nghèo, còn chứa của làm chi?
Người đời nay,đều chẳng hay làm hạnh khất-thực. Hoặc vào chốn tùng-lâm, hoặc ở nơi am-viện, hoặc đi phương xa, cũng không khỏi phải chi-phí đến tiền bạc. Tất nhiên vậy, nhưng nên biết đó là trái lời Phật dạy, sinh tâm rất hổ thẹn và, nên nghĩ đến sự nghèo thiếu của kẻ khác, mà thường làm việc bố-thí, Không lo tìm, không cất chứa, không buôn bán và, không dùng bảy báu, trang-nghiêm y-phục, khí cụ, các vật.. họa may còn có thể được!
Như hoặc chẳngđược như vậy, mắc tội rất nặng!
Than ôi, có thểnào mà chẳng răn được ư!
CHÚ-THÍCH
1.Cụ-Túc: Tức là giới Tỳ-Khưu.
2.Năm Chúng Xuất-Gia: Tức là Sa-Di, Sa-Di-Ni, Thức-Xoa-Ma-Na, Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni.
3.Hạ:Người xuất-gia không lấy năm của đời làm tuổi. Mỗi năm có 3 tháng an-cư kết Hạ,các vị Tỳ-Khưu tinh-tiến tu-hành được viên-mãn cho tới ngày tự-tứ, được thêm một tuổi, gọi là tuổi Hạ (Hạ-lạp).
4.Ba mươi sáu lỗi: Nhân uống rượu mà phạm 36 lỗi. Kinh Thiện Ác Sở Khởi nói: 1/ Của cải hao mất. 2/ Hiện-tại nhiều tật-bịnh. 3/ Khi say đánh lộn với người. 4/ Thêm nhiều sự sát hại. 5/ Tăng thêm lòng giận-dữ. 6/ Nhiều việc không toại-ý. 7/ Trí-tuệ dần kém. 8/ Phúc-đức không thêm. 9/ Phúc-đức càng giảm. 10/ Tiết-lộchuyện kín. 11/ Sự-nghiệp không thành. 12/ Thêm việc ưu-khổ. 13/ Các căn mê-muội. 14/ Nhơ-nhuốc cho cha mẹ. 15/ Không kính bậc Sa-Môn. 16/ Không tin người tu phạm-hạnh. 17/ Không kính Phật. 18/ Không kính Pháp và Tăng. 19/ Gần bạn ác. 20/ Xa bạn lành. 21/ Bỏ việc ăn uống. 22/ Thân-thể trần-truồng. 23/ Việc dâm-dục lẫy-lừng. 24/ Nhiều người không ưa. 25/ Nói cười lả-lướt. 26/ Cha mẹ không mừng. 27/ Bà con ghét bỏ. 28/ Hay làm việc phi-pháp. 29/ Xa-lìa chính-pháp. 30/ Không kính bậc hiền-thiện. 31/ Trái phạm nhiều tội-lỗi. 32/ Xa-lìa đạo Niết-Bàn. 33/ Điên-cuồng khất-khưởng. 34/ Tán-loạn thân tâm. 35/ Buông-lung tâm ác. 36/ Thân hoại, mệnh mất đọa vào địa-ngục lớn, chịu khổ khôn cùng.
5.Bảy thứ châu báu: Tức là vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê, xà-cừ, san-hô, hổ-phách.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TNCT,SDN. TAM THANH.MHDT.22/6/2012.

Monday 11 June 2012

NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TRUOC KHI THO GIOI SADI VA SADI -NI,CHUNG TA PHAI HOC THUOC QUA NHUNG BAI SAU DAY. 1=QUY SON CANH SACH CUA HOA THUONG THUONG THU THICH TAM CHAU DICH.  2=LUAT NGHI YEU LUOC THUONG HA-HOA THUONG THUONG THU DICH. 3=SADI LUAT NGHI YEU LUOC THUONG HA.CUA HOA THUONG THUONG THU TAM HA CHAU DICH. 4=TY NI NHAT DUNG=RAT QUANG TRONG PHAI HOC THUOC LONG O DUOC GION. 5=OAI NGHI VA CANH SACH.( LUAT TRUONG HANG ). PHAI HOC THEM VE PHAN THAP THIEN, NGU GIOI PHAT TU, 10 GIOI DUC, SADI LUAT NGHI YEU LUOC TANG CHU. DAY LA PHAN RAT QUANG TRONG KHI CHUNG TA THO GIOI SADI.NAM MO QUAN THE AM BO TAT.( 3 LAN ).

Sunday 10 June 2012

(Oai Nghi Cảnh Sách Y ếu Giải).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.11/6/2012.

Giới Sa-di: Giới Pháp Sa-di

Bài 2. GIỚI PHÁP SA-DI
Giảng viên ĐĐ. Thích Thiện Chơn
Trong giai đoạn đầu, đức Phật chưa quy định rõ số tuổi tối thiểu để thọ giới Tỳ-kheo, nhưng về sau, vì nhóm thiếu niên 17 người, đệ tử của Tôn giả Mục-kiền-liên chưa đủ 20 tuổi, thọ giới Cụ túc rồi mà không đủ sức kham nhẫn nếp sống Tỳ-kheo, không chịu đựng nổi việc không ăn phi thời, nên ban đêm kêu khóc.

Phật chế định tuổi tối thiểu để thọ giới Cụ túc là 20 tuổi và cao nhất là 70 tuổi với điều kiện còn đủ sức khỏe. Do vậy, người chưa đủ 20 tuổi, hoặc trên 70 tuổi được xếp vào chúng Sa-di. Người xuất gia trước khi được thọ giới Cụ túc cần phải trải qua một giai đoạn chuẩn bị, đó là thực hành nếp sống Sa-di.

Người thọ giới pháp Sa-di đầu tiên là La-hầu-la. Đức Phật dạy tôn giả Xá-lợi-phất là làm Hòa-thượng và tôn giả Mục-kiền-liên làm A-xà-lê truyền mười giới.

Quyển Sa Di Luật Nghi Yếu Lược được tổ Châu Hoằng (1532 - 1612) ở Chùa Vân Thê rút ra từ trong bộ Sa Di Thập Giới và biên tập thành quyển luật cho dành cho hàng Sa-di thọ trì với văn tự yếu lược. Tổ Hoằng Tán (1611 - 1685) ở núi Đảnh Hồ chú giải để người học dễ nhận rõ nghĩa lý.
Người xuất gia trong Phật giáo chia làm 5 chúng: Tỳ-kheo, Ty-kheo-ni, Thức-xoa, Sa-di, Sa-di-ni. Giới của Sa-di và Sa-di-ni có 10 điều giống nhau. Còn điểm khác nhau của Sa-di và Sa-di-ni giới là oai nghi tuỳ đại chúng học.

I. Khái Quát về giới Pháp Sa-di:
1. Khái niệm Sa-di:
Sa-di là dịch âm chữ Phạn Sràmanera.
Cựu dịch là Tức-từ, nghĩa là dứt các điều ác mà thực hành tâm từ, dứt sự đắm nhiễm các pháp thế gian mà từ bi cứu giúp chúng sanh.
Tân dịch là “cần sách”, nghĩa là tiếp thọ sự khuyến khích siêng gắng của đại Tỳ-kheo Tăng.
Lại còn có nghĩa là cầu tịch, nghĩa là cầu lấy đạo Niết-bàn và quả viên tịch.
Sa-di đệ tử nhỏ trong chúng xuất gia của đức Phật, thọ trì mười điều giới Sa-di và các oai nghi hàng ngày tập sống theo hạnh của Tỳ-kheo, đời sống của một vị Thánh giả.

2. Các cấp bậc Sa-di:
Tăng đoàn của Phật giáo tương tợ như đại gia đình. Trong đó có nam, có nữ, có già, có trẻ, có lớn, có nhỏ dung hợp đối xử với nhau hòa thuận vui vẻ. Sự tiếp nhận Tăng đoàn của Sa-di là nhân tài của Phật giáo, tăng thêm sự nối tiếp lực lượng mới sinh. Vì thế, Sa-di lấy tuổi nhỏ làm chủ yếu.
Sa-di trong Phật giáo chia làm 3 cấp bậc:

- Khu Ô Sa-di (Sa-di đuổi quạ): Chỉ cho những vị tuổi đời còn nhỏ từ 7 tuổi – 13 tuổi chưa thể tu tập như các vị lớn tuổi. Chỉ có thể sai đi đuổi chim quạ để hàng Tỳ-kheo tu tập thiền định.
- Ứng pháp Sa-di (Sa-di hợp pháp): Chỉ cho những vị tuổi đời từ 14 – 19 tuổi, những vị này có hai nhiệm vụ chính: Một là làm các việc nặng nhọc để hầu hạ Thầy và thứ hai là học tập kinh điển, tu tập thiền định và thực hành nghi thức thọ trì kinh kệ.

- Danh tự Sa-di (Sa-di danh tự): Là chỉ cho những người từ 20 tuổi – 70 tuổi, ở tuổi này đúng ra được thọ giới cụ túc nhưng vì xuất gia trễ chưa đủ ngày để thọ giới Tỳ-kheo, hoặc những vị này bản chất tối tâm, căn tánh chậm lụt không thể lãnh thọ giới pháp của Tỳ-kheo được.

Thời đức Phật còn tại thế, người xuất gia là được thọ giới làm sa di ngay, nhưng theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền, đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay khi được cạo tóc xuất gia chỉ giữ gìn 5 điều giới và được gọi là Tịnh nhơn. Sau đó khi học thuộc kinh kệ, gìn giữ oai nghi đã thuần thục mới cho đến đàn thọ giới pháp Sa-di.

Hình đồng Sa di: Hình thái tuy đồng Sa-di nhưng vẫn chưa đủ tư cách của Sa-di, vẫn còn bản chất của người tục, vì thế gọi là Hình đồng Sa-di.
Người thọ Sa-di thập giới gọi là Pháp đồng Sa-di.


II. Nội dung giới Pháp Sa-di và Sa-di-ni:
1. Giới pháp Sa-di, Sa-di-ni gồm mười điều:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cướp.
3. Không dâm dục.
4. Không vọng ngữ.
5. Không uống rượu.
6. Không đeo tràng hoa thơm, không dùng dầu thơm xoa thân.
7. Không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe.
8. Không ngồi nằm giường lớn cao rộng.
9. Không ăn phi thời.
10. Không cần giữ sanh tượng vàng bạc vật báu.
2. Oai nghi của Sa-di, Sa-di-ni:
Đây không phải là giới điều, nhưng Sa-di, Sa-di-ni thuộc chúng đệ tử xuất gia của đức Phật nên cần gìn giữ một số oai nghi và phép tắc. Gồm 24 điều:
1. Kính các bậc Thầy lớn
2. Thờ Thầy
3. Theo Thầy đi ra ngoài
4. Vào ở trong chúng
5. Theo chúng đi ăn
6. Lễ lạy
7. Nghe pháp
8. Học tập kinh điển
9. Đi vào chùa viện
10. Theo chúng vào thiền
11. Làm công việc
12. Vào nhà tắm
13. Vào nhà vệ sinh
14. Nằm ngủ
15. Quanh lò sưởi
16. Sống ở trong phòng
17. Đến chùa Ni
18. Đến nhà người
19. Đi xin thức ăn
20. Đi vào xóm làng
21. Đi chợ mua đồ
22. Khi làm các việc
23. Đi tham học các nơi
24. Tên gọi và hình dạng của y
3. Thực hành Tỳ-ni:
Sa-di là hàng sơ cơ vào đạo nên cần lấy sự phát tâm làm gốc. Thế nên, từ sáng đến tối đọc các bài kệ, các câu chú gắn với từng cử chỉ, từng hoạt động trong sinh hoạt hàng ngày của mình để điều phục ba nghiệp, khiến khắp cả chúng sanh, đều đượm pháp lợi, đồng nên đạo giác.

4. Ghi khắc cảnh sách: Phải luôn ghi nhớ những lời nhắc nhở của chư Tổ.
III. Tư cách Bổn Sư:
a. Các điều kiện cần có của Bậc Thầy:
Trách nhiệm giáo dục, tài bồi phẩm cách đạo đức cho đệ tử rất quan trọng. Tư cách làm thầy phải xét ở có khả năng cung cấp các phương tiện sống cho đệ tử theo tiêu chuẩn thiểu dục tri túc của người xuất gia và khả năng hướng dẫn đệ tử hành trì giới luật và học kinh điển, tu tập thiền định, có đủ kinh nghiệm để giải quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử.
- Kinh Đại Tỳ-kheo Tam Thiên Oai Nghi nói: “Tỳ-kheo giới đủ 10 năm mới được độ người, nếu chẳng biết ngũ pháp thì suốt đời chẳng được độ người”.
Ngũ pháp là:
1. Thông hiểu sự lợi ích rộng của hai bộ giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.
2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh trọng đáng phạm của đệ tử.
3. Đệ tử ở phương xa đủ sức khiến đệ tử quay về.
4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác.
5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc được như cha nuôi con.
Nếu người chẳng biết năm việc ấy thì suốt đời không được độ người. Nếu độ người đắc tội Đột-kiết-la”.
Thiện Kiến Luật nói: “Nếu chẳng biết Luật, chỉ biết Tu đa la (Kinh), A tỳ đàm (Luận) thì chẳng được độ Sa-di”
Nói một cách cụ thể, tổng hợp những đức tính mà các Luật bộ quy định về tư cách làm thầy, có năm điều chính yếu như sau:
1. Tuổi đạo phải đủ mười hạ.
2. Phải biết rõ các trường hợp trì và phạm, khinh và trọng về giới luật.
3. Kiến thức phải rộng rãi.
4. Có đủ khả năng giải quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử.
5. Có khả năng đoạn trừ tà kiến cho đệ tử.
Nói tóm lại, làm thầy phải biết giáo dục đệ tử về các mặt giới, định và tuệ, đó là ba khoa mục học hỏi mà người học đạo cần phải theo đuổi trong quá trình tấn tu đạo nghiệp. Nếu tự nhận thấy quá yếu kém trong các khoa mục đó, thì khoan làm thầy vội, mà bản thân cần phải tự cố gắng để đạt đến trình độ khả quan, chứ không nên thâu nhận đệ tử một cách cẩu thả vội vàng, vô trách nhiệm.
b. Số người được độ xuất gia:
Trong Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 có quy định như vầy: “Đệ tử thọ Tỳ-kheo Cụ túc giới rồi, trong 12 tháng phải dạy cho người đệ tử ấy tất cả pháp của một Tỳ-kheo, rồi sau đó mới được cho một đệ tử khác thọ Cụ túc giới, nếu chưa đủ 12 tháng chẳng được cho thọ giới. Sa-di thọ đại giới rồi, sau đó mới được nhận một Sa-di khác”.

Đây là nói khi đệ tử thứ nhất thọ Tỳ-kheo giới, trong 12 tháng không được độ Sa-di xuất gia, phải sau 12 tháng của người Sa-di thứ nhất thọ Tỳ-kheo giới, mới được độ người Sa-di thứ hai.
Trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ, của Luật sư Đạo Tuyên nói: “Tứ Phần Luật không cho đồng thời nuôi hai Sa-di”.
Trong Luật Tăng-kỳ: Không cho nuôi nhiều Sa-di, chỉ cho nuôi từ một đến ba người là nhiều nhất.
Quy định không cho đồng thời thế độ hai người Sa-di xuất gia, có hai lý do:
1. Đã từng có một Tỳ-kheo đồng thời nuôi hai Sa-di, hai Sa-di ấy do không hiểu biết, lại sinh tham dục đến đỗi hai người hành dâm với nhau. Vì phòng ngừa sự kiện tương tự như thế phát sinh, nên chỉ cho có một Sa-di.

2. Đệ tử Sa-di nhiều, sức dạy dỗ và cung cấp của thầy thế độ thường thường không thể lo tròn. Các đệ tử Sa-di không được giáo dục và cung cấp đầy đủ chỉ làm lụy đến con em người và làm hại Phật giáo, vì thế chẳng được đồng thời nuôi nhiều Sa-di. Song trong luật cũng có khai lệ: Nếu như vị thầy trí huệ cao sâu, phước lực thù thắng có đủ khả năng dạy dỗ dưỡng nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa-di trở lên.

Trong luật có nói: “Bậc thầy phân làm 4 hạng:
1. Có pháp lại có cơm áo.
2. Có pháp mà không có cơm áo.
3. Có cơm áo mà không có pháp.
4. Không có pháp cũng không có cơm áo.
Người thâu nhiều đồ chúng xuất gia mà không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là có tội. Như trong Kinh Bồ tát Thiện Giới quyển 4 nói: “Chiên đà la (người hạ tiện làm nghiệp ác) và kẻ đồ tể tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai thì không nhất định phải đọa trong ba ác đạo. Làm thầy mà không dạy răn đệ tử là phá hoại Phật pháp, nhất định sẽ bị đọa trong địa ngục. Vì danh dự mà chứa nuôi đồ chúng gọi là tà kiến, là đệ tử ma”.
c. Tăng giám sát:
- Tư cách làm thầy phải được Tăng nghiệm xét và chấp nhận. Nếu Tăng chưa chấp thuận cho phép thâu nhận đệ tử, mà cứ tự ý thâu nhận thì đó là việc làm phi pháp.

- Sự thâu nhận đệ tử phải được thông báo cho Tăng biết. Nếu Tăng không chấp thuận, phải chấp hành nghiêm túc phán quyết ấy.

- Tăng phải kiểm nghiệm cẩn thận tư cách của người thọ giới, không được truyền thọ bừa bãi.

Có 2 lý do Tăng giám sát vị Thầy:
1. Đã từng có Tỳ-kheo tự mình không đủ tư cách làm thầy độ người mà làm thầy độ người, sau khi độ người chẳng thể răn dạy đúng như pháp, không đủ sức cung cấp nhu cầu cơm áo đúng như pháp, khiến cho người ngoài chê bai, vì thế cần phải được sự đồng ý của đại chúng và do đại chúng đánh giá tư cách của ông thầy độ người.
2. Đã từng có Tỳ-kheo độ một đứa bé xuất gia mà chưa được sự đồng ý của cha mẹ đứa bé, cũng chưa được sự chấp nhận của đại chúng trong Tăng đoàn, cha mẹ của đứa bé vào tự viện hỏi, các Tỳ-kheo khác đều không biết sự việc nên nói chưa thấy đứa bé này. Vì thế Đức Phật quy định muốn độ người xuất gia, trước tiên cần phải được Tăng đoàn chấp nhận.
Tỳ-kheo cũng chỉ có thể thế độ Sa-di, không được thế độ Sa-di-ni, chẳng được làm Hòa thượng của Tỳ-kheo-ni, chỉ có thể làm Yết-ma A-xà-lê, Giáo-thọ A-xà-lê của Ni chúng. Sa-di-ni phải do Tỳ-kheo-ni thế độ.
Tư cách của Tỳ-kheo-ni cũng đồng như Tỳ-kheo độ Sa-di nhưng phải đủ 12 năm giới lạp trở lên.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).11/6/2012.
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích nữ Tuệ Đăng Dịch


Thiên thứ năm: Sa Di Thập Giới Và Thức Xoa Lục Pháp
Chương 4: Sa Di Thọ Giới Và Trì Phạm Oai Nghi

I. THỨ LỚP CỦA SỰ THỌ GIỚI
Sa di xuất gia sau khi thay đổi trang phục, cần phải bàn đến vấn đề thọ giới. Sa di giới tuy lấy thập giới làm chủ yếu, nhưng trước tiên phải thọ tam quy ngũ giới rồi sau đó mới thọ thập giới. Ngũ Phần Luật và Thập Tụng Luật đều nói: “Trước truyền ngũ giới sau truyền thập giới”. Luận Tát Bà Đa cũng nói: “Trước dùng ngũ giới điều phục thân tâm, lòng tin ưa dần dần tăng thêm, mới truyền thập giới. Nếu không thọ ngũ giới mà lại thọ ngay thập giới, vị tăng truyền giới đắc tiểu tội. Nhân vì thất chúng giới là tiệm thứ giới phải thọ theo thứ tự, không được một phen tiến vào cửa Phật xuất gia liền thọ Sa di thập giới; đây là e ở trên tâm lý, người thọ giới chuẩn bị không kịp. Nhưng cũng có người mang ý kiến ngược lại, cho rằng ngũ giới là giới tại gia, đâu cần sau khi xuất gia lại phải thọ ngũ giới này. Kỳ thật, thọ thêm một lần chẳng phải là càng tốt sao? Trong luật đã có quy định như thế tại sao lại sợ phiền? Lại nữa, giới luật của Phật giáo là y theo quan niệm luân lý của xã hội loài người làm cơ sở xuất gia, giới có quan hệ đến luân lý và cũng là một thứ thăng hoa của yêu cầu ấy, nếu trước tiên không bắt đầu từ việc thọ ngũ giới, ấy là không có nền tảng. Căn cứ trong Tứ Phần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng Nhất nói: “Cạo tóc xong, trước thọ ngũ giới điều phục thân tâm, suốt sáu tháng hầu hạ chúng tăng, lòng tin ưa dần dần tăng thêm… Đợi mãn hạn, Hòa thượng cho thọ thập giới”. Đây là càng nghiêm khắc hơn, trước thọ ngũ giới, sau nửa năm mới thọ Sa di thập giới.
Nhưng tại Trung Quốc, tiểu Hòa thượng vào chùa tư xuất gia rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia đúng như luật, lại thiếu nghi thức thọ giới. Bất luận ngũ giới, thập giới, Tỳ kheo giới, toàn bộ đều giao vào tay của đạo tràng truyền giới chăm lo. Đạo tràng truyền giới của Trung Quốc cũng chỉ chiếu theo bộ sách “Truyền Giới Chánh Phạm” làm các việc xướng niệm, quỳ lạy trong mấy mươi ngày giống như diễn kịch y theo kịch bản làm một tuồng, kể là truyền giới đắc giới. Đạo tràng truyền giới chỉ chú ý sự quỳ lạy xướng niệm chỉnh tề đẹp mắt của số đông giới tử, mà không chú ý xem các giới tử có lãnh hội được ý nghĩa của sự thọ giới hay không? Có đắc giới hay không? Đến như tư cách của Giới sư có hợp với yêu cầu thấp nhất ở trong luật hay không, đó lại là điều không hỏi tới.
Nhân vì thầy thế độ của Trung Quốc không lo việc truyền giới căn cứ theo giới luật, thầy thế độ không phải là Thân giáo sư (Hòa thượng) mà chỉ đồng như Y chỉ sư hoặc Giáo thọ sư. Trên thực tế, Sa di thọ ngũ giới, thập giới là đều việc rất giản đơn. Tại sao các thầy thế độ của Trung Quốc lại bỏ một quyền lợi và nghĩa vụ thiêng liêng này?
II. NGHI THỨC THỌ GIỚI CỦA SA DI THẬP GIỚI
Trong quyển Truyền Giới Chánh Phạm của Đại sư Độc Thể biên đính, Sa di giới là trình tự của nghi thức sơ đàn. Nhân vì muốn dùng để thích hợp với sự truyền giới tập thể, thế nên phô trương hình thức rất lớn, nghi tiết cũng rất phiền phức. Kỳ thật, hình thức thọ Sa di thập giới không cần phải lớn đến thế ấy. Theo trong luật, truyền thọ Sa di thập giới chỉ cần một vị Hòa thượng, một vị Giáo thọ sư là đủ. Trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Lúc thọ thập giới, Hòa thượng vắng mặt, cũng đắc thập giới. Nếu lúc thọ giới Hòa thượng chết, nếu nghe biết chết, giới thọ không đắc”. Đây là ý nói khi chúng ta thọ thập giới, Hòa thượng có thể vắng mặt. Nếu Hòa thượng đã chết mà không biết Ngài chết, người thọ thập giới vẫn được đắc giới. Lúc thọ thập giới Hòa thượng ở trước mặt, cố nhiên là đúng như pháp; đặc biệt Hòa thượng đi vắng, chỉ cần có một A xà lê cũng thọ được thập giới. Đây là một Phật sự cực kỳ giản đơn mà chư Tăng Trung Quốc thời gần đây lại xem nó là Phật sự lớn, thật là việc nhỏ mà xem thành việc lớn!
Trong thiên Sa di Biệt Hành của Hành Sự Sao, Luật sư Đạo Tuyên đối với sự biên đính nghi thức thọ thập giới cũng giản đơn như thế, phân ra làm ba môn:
1. Nhân duyên thọ giới: Như thỉnh được hai thầy, người xuất gia trước thọ tam quy ngũ giới rồi hỏi giá nạn (tội ác chướng giới).
2. Nói về giới thể: Dùng tam quy nạp thọ giới thể.
3. Nói về giới tướng: Tuyên nói điều văn của Sa di thập giới. Sau đó nói ngũ đức và thập số. Nghi thức thọ giới bèn viên mãn.
Nếu y chuẩn thông lệ của Phật sự Đại thừa, thêm phần phát nguyện hồi hướng là xong. Gần đây, Pháp sư Tục Minh chiếu theo trình tự này biên đính một nghi quỹ thọ thập giới rất sáng sủa và giản dị thiết yếu, hiện được in trên sách “Giới Học Thuật Yếu” do Pháp sư Tục Minh trứ tác, tôi xin chép ra đây để cùng tham khảo:
Cạo tóc và thọ ngũ giới rồi, người thọ giới ở trước Phật chí thành sám tội:
Trước kia đã tạo các nghiệp ác
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sinh ra
Nay đối trước Phật đều sám hối”.
(nói 3 lần, lạy 3 lạy)
Sau khi sám tội, người thọ giới đến trước Hòa thượng Giới sư bái lễ, rồi quỳ gối chắp tay. Giới sư bèn hỏi giá nạn:
- Thiện nam tử lắng nghe! Bây giờ là lúc chí thành, lúc nói thật. Ta nay sẽ hỏi ông, ông phải đáp đúng sự thật.
- Ông có phạm biên tội chăng?
Đáp: Không.
- Ông có ô Tỳ kheo ni (Ni thì ô Tỳ kheo Tăng) chăng?
Đáp: Không.
- Ông có phải tặc trụ nhập đạo chăng?
Đáp: Không.
- Ông có phải huỳnh môn chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết cha chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết mẹ chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết A la hán chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải phá tăng chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải ác tâm làm thân Phật ra máu chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải là phi nhân chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải là súc sinh chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải người hai hình chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông tên gì?
Đáp: Con tên…
- Hòa thượng của ông là ai?
Đáp: Đại Hòa thượng, thượng…, hạ…
- Ông bao nhiêu tuổi?
Đáp: Con… tuổi.
- Y bát của ông đầy đủ chăng?
Đáp: Đủ
- Cha mẹ (Ni thì thêm chồng) của ông có cho xuất gia không?
Đáp: Cho.
- Ông không phải là kẻ thiếu nợ người chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải là quân nhân, quân công hiện chức chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông là trượng phu có các bệnh cùi, ung thư, tiểu đường, điên cuồng (Ni thêm vào hai đường tiểu tiện hợp chung, âm đạo nhỏ, đại tiểu tiện thường rỉ chảy, nước mũi, nước miếng chảy) chăng?
Đáp: Không.
Hỏi xong giá nạn, Giới sư bèn nói với người thọ giới rằng:
- Lục đạo chúng sinh phần nhiều bị giới chướng, con người tuy được thọ, nếu có giá nạn cũng không được thọ. Ông không có giá nạn nhất định được thọ giới. Ông phải phát tâm tăng thượng thệ độ tất cả chúng sinh. Giới là cội gốc của các thiện; hay làm chánh nhân của tam thừa. Giới là của báu trong Phật pháp hay hộ trì thiện pháp khiến chánh pháp trụ lâu ở đời ông nên nhất tâm lãnh thọ. Hãy bạch theo tôi:
- Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Con nay theo Phật xuất gia, Ngài… làm Hoà thượng. Như Lai chí chân Đẳng giác là Thế Tôn của con (nói 3 lần, lạy 3 lạy, bèn đắc giới).
Dưới đây là tam kết:
Con là… quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, Ngài… làm Hòa thượng. Như Lai chí chân Đẳng chánh giác là Thế Tôn của con (nói 3 lần, lạy 3 lạy).
Đã phát giới rồi, tiếp theo là nói giới tướng và vấn đáp:
- Suốt đời không sát sinh là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không trộm cướp là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không được dâm là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không vọng ngữ là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không uống rượu là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa dầu thơm vào thân là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không nằm giường lớn cao rộng là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không ăn phi thời là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không cầm giữ vàng bạc vật báu là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Nói giới tướng xong, tiếp theo nói ngũ đức của Sa di. Kinh Thỉnh Tăng Phước Điền nói: Sa di phải biết ngũ đức:
1. Phát tâm xuất gia vì ôm lòng mộ đạo.
2. Hủy bỏ hình thể đẹp đẽ ứng hợp với pháp phục.
3. Cắt đứt vĩnh viễn sự thân ái vì không có thân sơ.
4. Liều bỏ thân mạng vì tôn sùng đạo.
5. Chí cầu đại thừa vì độ mọi người.
Sa di phải biết thập số:
1. Tất cả chúng sinh đều y vào thức ăn (phá ngoại đạo chủ trương tự nhịn đói)
2. Danh sắc (phá ngoại đạo tự nhiên)
3. Tưởng đau nhức (phá ngoại đạo chủ trương Phạm Thiên là nhân).
4. Tứ đế (phá vô nhân quả ngoại đạo).
5. Ngũ ấm (phá thần ngã ngoại đạo).
6. Lục nhập (phá nhất thức ngoại đạo).
7. Thất giác ý (phá ngoại đạo chủ trương không tu).
8. Bát chánh đạo (phá tà nhân ngoại đạo).
9. Cửu chúng sinh cư (phá sắc, vô sắc thiên chấp Niết bàn ngoại đạo).
10. Thập nhất thiết nhập (phá sắc không ngoại đạo).
Mười điều này quan hệ đến danh số pháp tướng, người sơ học không dễ gì hiểu nên tôi cũng lược bớt.
Sau cùng phát nguyện hồi hướng:
Thọ giới công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Nguyện khắp các chúng sinh chìm đắm
Chúng sinh mười phương tịnh độ Phật
Thập phương tam thế tất cả Phật
Hết thảy Bồ Tát Ma ha tát
Ma ha Bát nhã Ba la mật.
Phật sự thọ giới hoàn tất, người thọ giới lể tạ hai thầy và tiếp thọ sự đảnh lễ chúc mừng của thân bằng quyến thuộc và các cư sĩ xem lễ.
Hiện tại cần phải giải thích nội dung của giá nạn. Trong đó giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá tăng, làm thân Phật chảy ra máu, là tội ngũ nghịch ở trong thiên ngũ giới đã nói qua, không cần giảng lại.
Phi nhân là quỷ thần biến hóa. Súc sinh là rồng súc biến hóa. Hai hình là gồm cả hai bộ phận sinh dục của nam và nữ. Điều mười một từ “ông tên gì” trở xuống, văn nghĩa rõ ràng không cần giải thích. Cần phải giải thích là năm điều đầu tiên:
- Biên tội: Là chỉ người thọ Phật giới không xả giới mà lại phạm một trong bốn giới: Giết người, hành (tà) dâm, trộm cướp (5 tiền trở lên), vọng ngữ (tự xưng là Thánh hiền); bị bỏ ra ngoài biển lớn Phật pháp, không được thọ giới lại.
- Ô Tỳ kheo ni: Là chỉ cho người đã từng phá hoại giới phạm hạnh của Tỳ kheo ni thanh tịnh. Điều này ở trong Thiện Kiến Luật quyển 17 có nói kỹ càng: “Ở ba chỗ miệng, âm đạo, hậu môn” của Tỳ kheo ni hành dâm, đều gọi là hoại Tỳ kheo ni, nếu vuốt ve, xúc chạm Tỳ kheo ni thì không chướng xuất gia. Nếu đem y phục thế tục rồi ép Tỳ kheo ni mặc rồi hành dâm cũng gọi là hoại Tỳ kheo ni, chẳng được xuất gia. Nếu Tỳ kheo ni thích mặc y phục thế tục hành dâm thì không chướng xuất gia. Người đã ô hoại Tỳ kheo thanh tịnh cũng thành giới chướng.
- Tặc trụ nhập đạo: Là chỉ cho người lúc còn ở thế tục đã từng nghe trộm pháp yết ma của Tỳ kheo (hoặc Tỳ kheo ni), gọi là tặc trụ, không cho xuất gia.
- Phá nội ngoại đạo: Chỉ cho người vốn là ngoại đạo đến trong Phật pháp cầu độ xuất gia, sau trở lại làm ngoại đạo, bây giờ lại đến trong Phật giáo cầu xuất gia nữa với mục đích là tìm lấy khuyết điểm của Phật giáo, sưu tập tư liệu của Phật giáo để làm công tác phá hoại Phật giáo, vì thế không cho xuất gia.
- Huỳnh môn: Vốn là chức vụ hoạn quan trong cung cấm đời Đông Hán. Kinh Phật dùng danh từ này để chỉ cho người lúc nam lúc nữ, người chẳng phải nam chẳng phải nữ, người vừa nam vừa nữ. Nếu thu nhận họ xuất gia thì không thể xếp họ vào hàng ngũ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni được; vì thế, hạng người này không được xuất gia.
Thọ trì Phật giới đều có chướng giới, đều có điều kiện, nhưng điều kiện của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni rất nghiêm, yêu cầu rất cao, giới chướng rất nặng, giá nạn rất nhiều. Sa di, Sa di ni là cơ sở của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, vì thế trước khi thọ Sa di thập giới phải hỏi những giá nạn của sự xuất gia này.
III. PHẠM VI VÀ TRÌ PHẠM CỦA SA DI GIỚI
Đoạn trước đã nói qua, Sa di giới tuy chỉ mười điều nhưng đối với Cụ túc giới của Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) cũng được tùy tùng học tập và thủ trì. Ở chỗ này có một vấn đề là Sa di chưa thọ Cụ túc giới do đâu mà học Tỳ kheo giới? Vấn đề này dường như từ trước đến nay chưa có người hỏi tới. Tiểu chúng không được nghe thuyết giới và yết ma của đại chúng, vì thế Cổ đức phần nhiều đều nhận định người chưa thọ Cụ túc giới cũng không được duyệt học Đại giới, bằng không thì thành tặc trụ chướng thọ Đại giới, đã không được nghe cũng không được đọc, thì do đâu mà học tập? Cũng có người có thể từ trong sinh hoạt của Tăng đoàn thể nghiệm học hỏi, nhưng điều đó rốt cuộc không thành.
Thường thường Tỳ kheo mỗi nửa tháng nghe tụng giới một lần, cũng phải trải qua thời gian 5 năm mới có thể học tốt về giới luật, hà huống là Sa di. Vì thế tôi nghĩ, nguyên nhân người chưa thọ Cụ túc giới không được nghe giới, chủ yếu là phòng ngừa, nhân vì có Tỳ kheo phạm giới trong lúc thuyết giới yết ma phát lồ sám hối xuất tội, bị tiểu chúng hoặc người tục nghe rồi sinh ra tội khinh khi phỉ báng. Đến như điều văn giới tướng của Đại giới ít nhất đối với Sa di là có thể đọc, ngoại đạo và người tục không có chánh tín không nên cho họ đọc. Người thế tục ở các quốc gia Nam truyền có thể nghiên cứu Đại Luật, nguyên nhân khai lệ có lẽ cũng là căn cứ vào một quan niệm này.
Nhưng trong Tăng Kỳ Luật quy định Tỳ kheo nếu nói tên của ngũ thiên thất tụ cho người chưa thọ Cụ túc giới nghe, phạm tội Việt tỳ ni. Đây là một căn cứ có quyền lực, Tỳ kheo không nên cổ động tiểu chúng và người thế tục xem Đại Luật.
Nhưng, Cụ túc giới đối với Tỳ kheo, tỳ kheo ni phân làm ngũ thiên thất tụ, cũng là 7 loại tội hạnh của 5 thứ tội danh; đối với Sa di, Sa di ni chỉ có một thứ tội danh gọi là Đột kiết la, phạm tội Đột kiết la của Đại giới là Đột kiết la, phạm tội Ba la di của Đại giới cũng là Đột kiết la. Duy phạm Đột kiết la của 4 giới căn bản đầu của thập giới đáng bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn gọi là Diệt tẩn. Nếu phạm giới “Khởi ác kiến” (cho rằng Phật nói hành dâm không phải là pháp chướng đạo) trong tội Ba dật đề của Đại giới, Tỳ kheo khuyên can Sa di ấy ba lần mà vẫn không bỏ ác kiến, cũng bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn. Nếu phạm các giới khác đều có thể dùng Đột kiết la sám trừ.
Nhưng căn cứ vào Thiện Kiến Luật quyển 17 nói: Sa di có 10 điều ác phải bị diệt tẩn. Những gì là mười? Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, dối trá, uống rượu, hủy báng Phật Pháp Tăng, tà kiến, hoại Tỳ kheo ni. Duy phạm 9 điều ác trước, nếu chí thành sám hối, khẩn thiết sửa lỗi, vẫn được thọ Tỳ kheo giới. Người “hoại Tỳ kheo ni” trong giá nạn là phạm 4 điều ác đầu trong 10 điều ác này, ở đây dường như nói: Phạm 4 biên tội, nếu chí thành khẩn thiết sửa lỗi tuy phạm biên tội vẫn có thể thọ Tỳ kheo giới.
Tiểu chúng tuy học Đại giới, nhưng cũng không phải là tùy học toàn bộ. Trong Thọ Giới Quy Tắc ghi ở Ký Quy Truyện quyển 3 của Tam Tạng Nghĩa Tịnh nói: “Chỉ cần nơi Luật tạng không phạm 12 điều. Những gì là mười hai?
1. Không phân biệt y
2. Lìa y ngủ
3. Nhóm lửa
4. Túc thực
5. Hại sanh chủng
6. Bỏ đồ bất tịnh trên cỏ tươi
7. Tự leo lên cây
8. Cầm nắm vật báu
9. Ăn đồ ăn dư cách đêm
10. Đào đất
11. Không thọ thực
12. Nhổ cỏ chặt cây”.
Lại nói: “12 điều này hai chúng Sa di, Sa di ni không trì không lỗi, còn chánh học nữ không trì 5 điều sau thì phạm”.
Ở đây cần phải giải thích thêm:
1. Tỳ kheo có 3 y, Tỳ kheo ni có 5 y, vì thế có phận biệt trong trường hợp nào nên mặc đắp y nào. Sa di chỉ có 2 mạn điều; một là y trên, hai là y dưới, không có phân biệt.
2. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni không được lìa 3 y ngủ, chủ yếu tại đại y. Sa di không có đại y vì thế không phạm.
3. Tỳ kheo không được nhóm lửa nấu ăn, Sa di có thể nhóm lửa nấu cháo cho Tỳ kheo bệnh ăn cho đến nấu cơm cho đại chúng dùng.
4. Tỳ kheo giả sử sau khi đã ăn bữa ăn chính từ sớm rồi, vẫn chưa đến chính ngọ, thí chủ có đem đồ ngon đến cúng dường, trong bụng có thể ăn thêm cũng không được ăn nữa, đây gọi là “Túc thực”. Nếu như nhất định muốn ăn phải nhờ một Tỳ kheo khác chưa ăn no làm pháp dư thực bằng cách nhờ Tỳ kheo kia ăn trước một miếng rồi sau đó mình mới được ăn. Sa di tuổi nhỏ không chịu đói nổi vì thế không bị sự hạn chế của túc thực.
5. Sanh chủng là hạt giống và ngũ cốc, Tỳ kheo không được làm tổn hại, Sa di có thể thay đại chúng xử lý.
6. Bất tịnh là chỉ cho các vật nhơ bẩn như đại tiểu tiện và đàm dãi.
7. Leo cây cao làm mất oai nghi.
Hai điều trên được chế định là phòng ngừa người tục chê bai.
8. Tỳ kheo chẳng được cầm nắm vật báu, Sa di có thể thay đại chúng cầm giữ.
9. Đồ ăn còn thừa để cách đêm gọi là tàn thực. Tỳ kheo chẳng được ăn lại, Sa di có thể ăn lại.
10. Tỳ kheo không được đào đất và sai người đào đất. Sa di có thể vì đại chúng, vì Tam bảo đào đất.
11. Các vật thực không do người khác đưa cho, Tỳ kheo không được ăn. Sa di không bị sự hạn chế này và làm người dâng vật thực cho Tỳ kheo.
12. Mầm cây là loại cỏ cây, cỏ cây là chỗ quỷ thần nương ở, vì thế, Tỳ kheo không nhổ cỏ, không chặt cây. Sa di không bị sự hạn chế này.
Chánh học nữ là dịch ý của Thức xoa ma ni, ở trong 12 điều này, 7 điều trước không trì không phạm, đây là chỗ bất đồng với Sa di và Sa di ni.
IV. OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI
Quan hệ đến Sa di và Sa di ni, trong Đại Chánh Tạng có 5 bộ sách sau đây có thể dùng nghiên cứu tham khảo:
1. Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi (1 quyển)
2. Sa Di Oai Nghi (1 quyển)
3. Kinh Phật Thuyết Sa Di Thập Giới Nghi Tắc (1 quyển)
4. Sa Di Ni Giới Kinh (1 quyển)
5. Sa Di Ni Ly Giới Văn (1 quyển)
Nhưng vì nội dung của năm bộ sách này trước sau trùng lặp, không có cương lãnh thống nhất, người sơ học rất khó nắm được đầu mối, vì thế cuối đời nhà Minh có Đại sư Liên Trì chỉnh lý và biên tập thành một quyển Sa Di Luật Nghi Yếu Lược, về sau lại có Ngài Hoằng Tán làm chú thích thêm. Cuối đời nhà Minh còn có Đại sư Ngẫu Ích biên tập thành quyển Sa Di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu. Quyển trước kỷ càng,quyển sau giản dị sáng sủa, mỗi quyển đều có chỗ hay, đều có giá trị, đáng cho chúng ta tham khảo duyệt học. Hiện nay Đài Loan Ấn Kinh Xứ có bản đơn hành lưu động.
Trong Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi nói: “Sa di 72 oai nghi gồm có 14 việc”. Trong Sa Di Ni Ly Giới Văn nói: “Oai nghi 70 sự kiện”. Trừ những oai nghi có quan hệ riêng cho nam nữ bất đồng ra, oai nghi của Sa di, Sa di ni phần nhiều tương đồng. Nay tôi xin đem một, vài oai nghi được xem là trọng yếu phân làm hai tổ nam nữ trích lục như sau:
A. Oai nghi của Sa di
1. Pháp thầy dạy Sa di: Phải kính Đại Sa môn, khôngđược kêu tên của Đại Sa môn. Lúc Đại Sa môn thuyết giới kinh không được lén nghe. Không được tìm điều hay dở của Đại Sa môn. Đại Sa môn có lỗi lầm không được nói với người khác. Không được nói xấu Đại Sa môn khi vắng mặt. Không được khinh dễ cợt cười cợt trước Đại Sa môn và nhái theo ngôn ngữ hình tướng của Ngài. Thấy Đại Sa môn phải lập tức đứng dậy, trừ khi đọc kinh, ăn cơm, công tác. Giữa đường gặp Đại Sa môn, phải đứng nép qua một bên. Nếu lúc chơi đùa thấy Đại Sa môn liền phải ngưng ngay.
2. Pháp Sa di thờ thầy: Phải xem thầy như cha, phải dậy sớm. Muốn vào cửa phòng thầy trước phải búng ngón tay ba lần. Phải chuẩn bị đồ súc miệng rửa mặt cho thầy. Phải rải nước khi quét đất. Phải xếp y phục, dọn dẹp lau quét giường chiếu cho thầy. Thầy đi chưa về, không được bỏ phòng ra đi. Nếu có lỗi thầy răn dạy không được cãi lại, phải cúi đầu lắng nghe lời thầy và nghĩ nhớ để vâng làm. Đi ra phải đóng cửa lại cẩn thận.
3. Pháp Sa di bạch thầy: Ngoại trừ 5 việc: Súc miệng, uống nước, đại tiện, tiểu tiện và lễ kính tháp Phật trong vòng 49 tầm (mỗi tầm 8 thước tàu) của phạm vi kiết giới, có làm việc gì đều phải bạch với thầy.
4. Pháp Sa di nhập chúng: Phải học cho rõ, phải tập làm việc. Phải vì chúng phục vụ. Phải vì Đại Sa môn mà đưa vật dụng. Phải lễ Phật. Phải lễ Tỳ kheo Tăng. Phải chào hỏi bậc Thượng tọa, Hạ toạ. Phải nhường chỗ ngồi cho bậc Thượng tọa, không được tranh dành chỗ ngồi, không được ở trên tòa ngồi kêu gọi cười giỡn. Không được luôn luôn đứng dậy đi ra ngoài. Nếu trong chúng có gọi đến tên mình thì liền dạ. Tỳ kheo chấp sự có sai làm việc gì trước phải bạch thầy.
5. Pháp Sa di làm trị nhật: Phải tiếc vật của chúng Tăng. Chẳng được ở giữa đường làm việc. Làm việc chưa xong chẳng được giữa chừng bỏ đi. Đang lúc làm việc, nếu bị thầy gọi phải thưa cho Tỳ kheo chấp sự biết. Phải phục tùng sự chỉ đạo và giáo lệnh của thầy Tỳ kheo chấp sự, chẳng được trái nghịch.
6. Pháp Sa di vào phòng tắm: Phải cúi đầu vào nhà tắm. Trong nhà tắm phải tránh chỗ của bậc Thượng toạ. Không được đùa giỡn tạt nước lên nhau. Không được tạt nước cho lửa tắt. Không được cười giỡn. Không được làm hư hại vật dụng trong nhà tắm. Không được dùng nước quá phí. Không được để nước và xà bông đổ vào hồ tắm.
7. Pháp Sa di vào cầu xí: Muốn đại tiểu tiện phải đi liền. Lúc đi, không được liếc ngó hai bên. Đến cửa cầu xí trước hết phải búng tay ba lần cho người bên trong biết, chẳng được hối thúc người trong cầu ra. Bước lên cầu tiêu rồi lại búng ngón tay ba lần nữa để cho quỷ thần ăn phẩn biết mà tránh. Không được cúi đầu nhìn xuống bộ phận sinh dục. Không được rặn lớn tiếng. Không được nhổ nước miếng đàm dãi làm dơ vách. Không được vẽ lên vách hoặc dưới đất. Không được ngồi lâu trong cầu xí. Trong lúc đi cầu xí gặp người không làm lễ, phải lánh đường đi. Lúc ra khỏi cầu xí phải rửa tay, không được cầm đồ vật. Phải lấy nước rửa đường đại tiểu tiện, gọi là tẩy tịnh. Không tẩy tịnh không được lễ Phật. Phải dùng nước trong súc miệng, không súc miệng chẳng được tụng kinh.
8. Pháp Sa di lễ thầy: Thầy tọa thiền không nên làm lễ, thầy kinh hành không nên làm lễ, thầy đang ăn không nên làm lễ, gặp bên tay trái thầy không nên làm lễ, không nên làm lễ thầy nằm bệnh, đất nhơ không nên làm lễ.
9. Pháp Sa di vào nhà cư sĩ: Đến cửa nhà, phải tự xét oai nghi của mình, cũng không được thấy người mà làm oai nghi. Nhà không có người nam không được vào cửa. Nhà có thờ Phật, lúc bước vào, trước tiên phải lễ Phật. Vào nhà, nếu ngồi, trước phải xem: Chỗ có binh khí không nên ngồi, chỗ có vật báu không nên ngồi, chỗ có y phục trang sức phụ nữ không nên ngồi. Không được ngồi nói chuyện một mình với người nữ ở chỗ có ngăn che. Không được cố đùa giỡn với trẻ con. Không được nói nhiều, không được đùa cợt. Phải ngồi yên lặng, phải ngồi ngay thẳng. Không được kết thân với cư sĩ làm cha mẹ chị em.
10. Pháp Sa di vào chợ: Phải cúi đầu đi thẳng đến nơi và đi thẳng về. Không được cùng người nữ trước sau đi theo nhau. Không được đi ngó qua ngó lại. Không được cố nhìn người nữ. Không được đến xem chỗ náo nhiệt. Mua đồ không được tranh dành đắt rẻ, không được ngồi trong cửa hàng của người nữ. Nếu bị người dành phải khéo lánh đi, đừng theo trả giá. Nếu đã mua vật ở chỗ A đắt, chỗ B tuy rẻ cũng không được bỏ chỗ A mà mua chỗ B, làm cho chỗ A sinh giận.
11. Pháp Sa di vào chùa Ni: phải có đông bạn vào chùa Ni. Vào chùa trước phải lễ Phật. Nếu không có chỗ dành riêng cho khách thì không được ngồi. Không được thuyết pháp không hợp thời. Nếu từ chùa Ni trở về, không được nói sự đẹp xấu của chùa Ni. Không được thư từ qua lại với Ni. Không được nhờ may vá và giặt giũ quần áo.
B. Oai nghi của Sa di ni
1. Pháp Sa di ni đi ra ngoài: đi ra ngoài không được đi một mình, phải cùng với Đại Ni hoặc 2, 3 Ni cùng đi. Nếu không có Ni phải cùng với thân tín Ưu bà di đồng đi. Phải nhìn thẳng 6 thước (2m) phía trước nà đi. Không được đi cùng người nam hoặc theo sau đi chung đường.
2. Pháp Sa di ni ngủ: Không được nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng bên trái; phải nằm kiết tường nghiêng bên phải. Không được để lộ vai, ở trần. Không được đặt tay ở chỗ âm hộ.
3. Pháp Sa di ni vào nhà cư sĩ: Không được vào phòng của phụ nữ nói cười. Không được ngồi ăn dưới bếp. Không được cùng người giúp việc nói chuyện riêng. Không được đi một mình đến cầu xí. Không được lên chỗ cầu xí của người nam. Không được lấy tay trao đồ vật cho người nam, phải để ở trên đất (hoặc chỗ thích đáng) để người đó tự lấy. Không được đùa giỡn với trẻ con.
4. Pháp sa di ni vào nhà tắm: Không được lõa lồ tắm chung với Ưu bà di. Không được bàn luận về việc tắm rửa. Không được cùng Ưu bà di kỳ cọ lẫn nhau. Không được tắm chung với trẻ con. Không được dùng nước rửa của người khác đã rửa. Không được tự nhìn chỗ kín của thân thể.
5. Pháp Sa di ni vào chùa tăng: Phải theo Đại ni hoặc 2, 3 người cùng đi. Vào chùa trước phải bạch Trị sự tăng. Không được cùng Tỳ kheo ngồi chung một nhà. Không được cùng Tỳ kheo ngồi chung một tòa. Không được cùng Tỳ kheo cười đùa. Không được ngồi nằm trong mền nệm của Sa di. Không được cùng Tỳ kheo ăn chung bát. Không được mặc lầm y Tỳ kheo.
Trên đây là tóm lược oai nghi của Sa di , Sa di ni , thật ra cũng là toát yếu oai nghi của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Sa di ni cũng phải đồng học những phần chung của oai nghi Sa di. Ngày lục trai, cư sĩ cũng nên học trì oai nghi Sa di. Đây là điều cần phải biết.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.11/6/2012.

Saturday 9 June 2012


LUẬT NGHI SA-DISĀMAṆERAVINAYA

TỲ KHƯU GIÁC GIỚI

DL 1997- PL 2541





[02]

CHƯƠNG III

LUẬT HÀNH PHẠT(DAṆḌAKAMMA)

III.1. ÐIỀU LUẬT PHẠM TỘI HÀNH PHẠT.

Tội hành phạt là tội mà Sa-di đã sai phạm đáng phải bị quở phạt, như bị cấm chỉ giao lưu, bị xách nước, kiếm cũi v. v... để cho nhớ tội cải hối.

Nói về các điều luật phạm tội hành phạt của Sa-di có hầu hết các học giới.

Trong 10 điều học (sikkhāpada), vị Sa-di do dể duôi cố ý phạm 5 điều sau, bị phạm tội hành phạt, năm điều ấy là:

1. Ăn vật thực phi thời (vikālabhogī hoti).
2. Biểu diễn thưởng thức vũ nhạc (naccādivi-sūkadassiko hoti).
3. Trang điểm hương liệu vòng hoa (mālādi-dhāranādiko hoti).
4. Sử dụng sàng tọa cao rộng (uccāsayanā-diko hoti).
5. Thọ nhận vàng bạc (jātarūparajatapatiggan -hako hoti).

Lại nữa, có lời Ðức Phật chế định điều luật hành phạt ngoài điều học như sau:

Anujānāmi bhikkhave pañcahaṅgehi saman-nāgatassa sāmaṇerassa daṇḍakammaṃ kātuṃ bhik-khūnaṃ alābhāya parisakkati, bhikkhūnaṃ anat-thāya parisakkati, bhikkhūnaṃ anāvāsāya parisak-kati, bhikkhū akkosati paribhāsati, bhikkhū bhik-khūhi bhedeti, Anujānāmi bhikkhave imehi panõca-haṅgehi samannāgatassa sāmaṇerassa daṇḍakam-maṃ kātun 'ti.
Này chư Tỳ-khưu, Ta chuẩn hành, phạt vị Sa-di nào vi phạm năm điều như sau:

1. Cố tình làm mất lợi lộc cho chư Tỳ-khưu.
2. Cố tình gây bất lợi cho chư Tỳ-khưu.
3. Cố tình làm mất trú xứ cho chư Tỳ-khưu.
4.Chửi mắng phỉ báng các Tỳ-khưu.
5. Gây chia rẽ giữa các Tỳ-khưu.

Lại có lời giải thêm rằng:

Sekhiyavattakkhandhakavattesu aññesu ca suk-kavisatthiādilokavajjasikkhāpadesu ca sāmaṇerehi vattitabbaṃ tattha avattamāno alajjī daṇḍakammā-raho va hoti.
Có điều khác nữa mà vị Sa-di phải chấp hành là Ưng học pháp, phận sự, và những học giới tội thế thường như là làm di tinh v.v. trong những điều luật đó, Sa-di không tuân thủ, vô liêm sỉ, đáng bị hành phạt.

Như vậy vị Sa-di không hành đúng 75 Ưng học pháp thì bị hành phạt.

Sa-di không làm tròn phận sự pháp hành, bị hành phạt.

Vị Sa-di phạm những điều luật tội thế thường (lokavajja), bị hành phạt.

Luật thế thường tội (lokavajja) tức là các điều quấy mà bị đời khiển trách. Trong giới bổn Tỳ-khưu (pāṭimokkha), có 49 điều gọi là phạm tội thế thường, các vị Sa-di cũng phải chấp hành luật này theo hạnh Tỳ-khưu. Trong 49 điều ấy, có 45 điều mà Sa-di phạm sẽ phải bị hành phạt; trừ ra 4 điều là :

- Ðiều học musāvādā, nói dối.
- Ðiều học surāpana, uống rượu.
- Ðiều học sañciccapāna, sát sanh.
- Ðiều học arittha, tà kiến.

45 Ðiều thế thường tội, đáng hành phạt, như sau:

1. Sañcetanika, Sa-di cố ý làm xuất tinh.

2. Kāyasaṃsagga, Sa-di nhiễm ái đụng chạm xác thân người nữ.

3. Duṭṭhullavācā, Sa-di nhiễm ái nói lời tục tĩu hoa bướm với người nữ.

4. Attakāmaparicariya, Sa-di nhiễm ái khích lệ người nữ hầu hạ nhục dục cho mình.

5. Amūlaka, Sa-di vì sân giận vô cớ cáo gian vị khác phạm tội nặng.

6. Aññabhāgiya, Sa-di vịn cớ nhỏ rồi cáo gian vị khác.

7. Saṅghabheda, Sa-di cố chia rẽ tăng.

8. Bhedānuvattaka, Sa-di xu hướng người chia rẽ tăng, được khuyên không bỏ.

9. Dubbacajātika, Sa-di có tính khó dạy, được khuyên không bỏ.

10. Kuladūsaka, Sa-di gây rối gia đình cư sĩ, bị đuổi đi bèn nói xấu tăng.

11. Cīvaracchindana, Sa-di đã cho y phục đến vị khác rồi vì sân giận mà đòi lại.

12. Parinata, Sa-di biết rõ lợi lộc sẽ dâng đến tăng, bèn nói đoạt về cho riêng mình.

13. Omasavāda, Sa-di mắng chửi Tỳ-khưu hay Sa-di khác.

14. Pesuñña, Sa-di nói đâm thọc với vị khác.

15. Duṭṭhullārocana, Sa-di tiết lộ tội của Tỳ-khưu cho Sa-di khác nghe.

16. Aññavādaka, Sa-di có lỗi bị chất vấn, lại nói tráo trở.

17. Ujjhāpanaka, Sa-di nói xấu vị khác đang hành mệnh lệnh tăng.

18. Anupakhajja, Sa-di lấn chiếm chỗ nằm ngồi của Tỳ-khưu.

19. Āmisa, Sa-di rêu rao Tỳ-khưu vì lợi lộc mà thuyết pháp dạy đạo.

20. Nikaḍḍhana, Sa-di xô đuổi Tỳ-khưu ra khỏi phòng ở, vì sân giận.

21. Dutiyapavāraṇā, Sa-di biết vị khác đã ngưng ăn theo luật mà cố nài ép vị ấy ăn thêm cho phạm tội.

22. Uyyojana, Sa-di rũ vị khác cùng đi khất thực, nữa đường tính chuyện bất chánh bèn đuổi vị ấy về.

23. Paṭhamarahonisajja, Sa-di nằm ngồi chỗ khuất mắt với một nữ nhân.

24. Dutiyarahonisajja, Sa-di nằm ngồi nơi khuất tai với một nữ nhân.

25. Uyyutta, Sa-di đi xem diễn binh thao trận.

26. Aṅgulipatodaka, Sa-di đùa giỡn thọc léc vị khác.

27. Hassadhamma, Sa-di đùa vui giỡn nước.

28. Anādariya, Sa-di được dạy dỗ pháp luật lại tỏ ra bất cần.

29. Bhiṃsāpana, Sa-di hù nhát vị khác cho kinh sợ.

30. Apanidhana, Sa-di chơi giấu vật dụng của vị khác.

31. Sappāṇaka, Sa-di biết rõ nước có côn trùng mà vẫn dùng nước ấy uống hay tắm rửa.

32. Ukkotana, Sa-di biết rõ sự tố tụng tăng đã giải quyết đúng luật pháp, mà lại khơi lại nữa.

33. Dutthullapaṭicchādana, Sa-di đồng lõa che đậy tội lỗi dùm cho vị khác.

34. Kanthaka, Sa-di biết rõ vị khác đã bị tăng tẩn xuất vì sai phạm pháp luật, mà vẫn kết nạp tiếp giao cùng sinh hoạt.

35. Sahadhammika, Sa-di sái quấy, khi được vị khác nhắc nhỡ, bèn nói bác bỏ rằng: chờ đi hỏi các vị luật sư đa văn đã.

36. Vilekhana, Sa-di biết rõ vị khác đang học pháp luật, bèn nói chế giễu cho vị ấy biếng học.

37. Mohama, Sa-di phạm lỗi, khi được nhắc nhở lại giả tuồng như trước nay chưa từng biết điều ấy.

38. Pahāradāna, Sa-di tức giận vị khác mà đánh đập.

39. Talasattika, Sa-di tức giận dá tay muốn đánh vị khác.

40. Amūlaka, Sa-di vô cớ cáo gian Tỳ-khưu phạm tội.

41. Sañcicca, Sa-di cố tình gây cho vị khác hoang mang lo lắng, dù chỉ chốc lát.

42. Upassuti, Sa-di rình rập nghe lén các vị khác đang tranh cãi, để bắt tin.

43. Kammapaṭibāhana, Sa-di trước đã ưng thuận việc tăng giải quyết, sau lại mọi việc cũ để chỉ trích.

44. Chandamadatvāpakkamana,Tăng đang họp mặt để giải quyết vấn đề pháp luật, Sa-di có ngồi dự, đương cuộc bỏ đi ra không xin phép.

45. Pariṇāmana, Sa-di biết rõ lợi lộc sẽ dâng đến tăng, lại cố tranh giành lợi lộc ấy cho riêng vị khác.

Cả 45 điều trên đây, sa di sai phạm đều bị tội hành phạt.

III.2. VIỆC HÀNH PHẠT SA-DI SAI PHẠM.

Ðức Phật đã ban hành luật xử phạt Sa-di đã sai phạm bằng cách ngăn cấm sinh hoạt (āvaraṇa-kamma) trong một thời gian.

Chú giải: hành phạt ngăn cấm sự sinh hoạt.

Gọi là sự sinh hoạt tức là sự đi lại, sự cư ngụ, sự học tập, sự ăn uống ... của Sa-di.

Chỗ mà Sa-di thường lui tới như là chỗ của Thầy Hòa Thượng, chỗ của thầy giáo thọ, chỗ mà Sa-di ngủ nghỉ, khi hành phạt phải ngăn cấm sự đi lại, sự cư ngụ ở các nơi ấy.

Gọi là ngăn cấm, tức là thầy Tỳ-khưu nghiêm cấm vị sa di ấy bằng lời rằng: " Ngươi không được phép lai vãng đến chỗ ấy cho tới khi hành phạt xong", hoặc là: "Ngươi không được phép ở nơi ấy đến khi hành phạt xong." Khi thầy Tỳ-khưu tuyên bố như thế có nghĩa là hành phạt nghiêm cấm sa di.

Các vị A-xà-lê kết tập giáo lý (dhammasaṅ-gāhakatthera) đã định đặt phận sự phải làm trong thời gian hành phạt của sa di, là khiến sa di múc nước, lượm cũi, hốt cát hoặc quét rác.

Về sự sinh hoạt học tập của sa di, không nên hành phạt ngăn cấm sinh hoạt đó.

Sự sinh hoạt ăn uống của sa di, cũng không nên hành phạt ngăn cấm không cho ăn hoặc giấu cất y bát của vị sa di với ý rằng bỏ đói sa di này. Vị Tỳ-khưu nào hành động với sa di như thế thì tội tác ác (dukkata)

Tỳ-khưu hành phạt sa di phải có tâm từ bi, mong tiếp độ sa di được phạm hạnh tốt đẹp; không nên với tâm ác (pāpacitta) làm khổ gây khó khiến sa di đau đớn bất kham mà hoàn tục, như là bắt nằm trên đá nóng, hay dùng vật nặng đè trên mình sa di, hoặc bắt ngâm nước, lặn nước ... những hình thức hành phạt ấy là tàn ác khe khắt, Ðức Phật đã khiển trách các Tỳ-khưu phe lục sư rồi.

Riêng đối với sa di nào cứng đầu khó dạy (dubbacajātiko), sai phạm nhiều lần, được nhắc nhở, phạt cảnh cáo mà không biết hối lỗi phục thiện, thì Tỳ-khưu có quyền hành phạt ngăn vật thực sa di ấy bằng cách là lấy vật thực hay y bát giữ một nơi rồi dạy rằng: " Sự hành phạt ngươi là phải làm như vầy như vầy, nếu ngươi chấp hành làm xong lúc nào thì ngươi sẽ được nhận lại vật thực hoặc y bát lúc đó."

Về thẩm quyền hành phạt sa di sai phạm, tất nhiên chỉ là Thầy Hòa Thượng (upajjhāya) hay thầy giáo thọ (ācariya) mà vị sa di đã y chỉ.

Khi có sự hiện diện của Thầy Hòa Thượng hay thầy giáo thọ vị sa di thì những Tỳ-khưu khác trong chùa không có quyền hành phạt sa di này, nếu Tỳ-khưu nào tự ý hành phạt sa di, không thông qua Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư của vị sa di ấy, thì phạm tội tác ác.

Nếu Tỳ-Khưu nào đó thấy sa di phạm lỗi thì nên báo trình lên Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư của sa di ấy để xử. Khi đã trình ba lần rồi mà Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư của sa di vẫn làm ngơ không quan tâm đến, thì vị Tỳ-Khưu ấy có quyền quở phạt sa di sai phạm.

Mặt khác, một vị Tỳ-Khưu nào đó được sự ủy thác của Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư rằng: "vị Sa-di này là học trò của con, nếu có phạm lỗi lầm, ngài hãy thay con hành phạt Sa-di ấy." Ðược ủy thác như thế, Tỳ-khưu ấy hành phạt Sa-di là đúng pháp.

Vị Sa-di khi phạm lỗi đáng bị hành phạt, phải đắp y vai trái đi đến trước Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư hay vị Tỳ-khưu có thẩm quyền. Phát lộ lỗi lầm của mình và xin chịu hành phạt như sau :

"Labheyyā' ham bhante daṇḍakammaṃ āyatiṃ saṃvaraṃ āpajjissāmi."

Dutiyampi ... Tatiyampi ..."

(Bạch Ngài, con xin chịu hành phạt, con sẽ thu thúc về sau. Lần thứ nhì. Lần thứ ba."

Vị thầy có lời quở trách rồi tuyên bố hình thức phạt vị Sa-di ấy. Vị Sa-di lui ra và thi hành hình thức phạt.

Sau khi đã thi hành hình phạt xong, vị Sa-di trở lại trước Thầy Tỳ-Khưu và đảnh lễ sám hối:

Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante, mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ, sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ. Sādhu sādhu anumodāmi.

Sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante.

Ukāsa dvāratayena kataṃ sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante.

Vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khama-tha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumo-ditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi.

Nghĩa: con xin thành kính đảnh lễ Ngài. Cúi xin Ngài hãy tha thứ mọi lỗi lầm cho con, phước báu con đã làm xin Ngài tùy hỷ. Phước báu Ngài đã tạo hãy cho đến con, thiện thay, thiện thay, con xin tùy hủy. Bạch Ngài, xin xá mọi lỗi lầm cho con; Bạch Ngài, mọi tội lỗi do tam nghiệp của con đã làm, xin Ngài xá cho ...

Khi đó, Thầy Tỳ Khưu nên hoan hỷ cho Sa-di bằng lời: Sādhu! Sādhu! Sādhu.

Sau khi thọ hành phạt xong như thế rồi, vị Sa-di được trở lại trong sạch bình thường.

DỨT CHƯƠNG LUẬT HÀNH PHẠT.

-ooOoo-

CHƯƠNG IV

LUẬT TRỤC XUẤT(NĀSANAṄGA)

IV.1. ÐIỀU LUẬT PHẠM TỘI TRỤC XUẤT.

Tội trục xuất là điều luật mà vị Sa-di sai phạm sẽ bị truất khỏi phẩm mạo Sa-di, buộc hoàn tục thành người thế tục.

Ðức Thế-Tôn đã chế định điều luật này như sau:

Anujānāmi bhikkhave dasahaṅgehi samannā-gataṃ sāmaṇeraṃ nāsetuṃ pāṇātipātī hoti adin-nādāyī hoti abrahmacārī hoti musāvādī hoti majja-pāyī hoti buddhassa avaṇṇaṃ bhāsati dhammassa avaṇṇam bhāsati saṅghassa avannaṃ bhāsati mic-chādiṭṭhiko hoti bhikkhuṇīdūsako hoti. Anujānāmi bhikkhave imehi dasahaṅgehi samanāgataṃ sāmaṇe-raṃ nāsetun' ti. Này chư Tỳ-Khưu, ta chuẩn hành luật trục xuất vị Sa-di vi phạm theo mười điều là:
1. Sa-di sát sanh.
2. Sa-di trộm cắp.
3. Sa-di hành dâm.
4. Sa-di nói dối.
5. Sa-di uống chất say.
6. Sa-di phỉ báng Phật.
7. Sa-di phỉ báng Pháp.
8. Sa-di phỉ báng Tăng.
9. Sa-di tà kiến.
10. Sa-di hãm hiếp Tỳ-khưu ni.
Này chư Tỳ Khưu, ta chuẩn hành trục xuất vị Sa-di vi phạm theo mười điều này.

Ðiều luật tội trục xuất của Sa-di có mười điều.

Vị Sa-di phạm một trong mười điều trên đây sẽ làm mất phẩm mạo, không còn qui giới, không có Thầy Hòa Thượng nữa, mọi quyền thừa hưởng lợi lộc của tăng cũng dứt.

IV.2. VIỆC XỬ TRỤC XUẤT SA-DI SAI PHẠM.

Việc xử trục xuất Sa-di sai phạm, phân ra có bốn trường hợp, mỗi trường hợp có cách xử lý khác nhau; Bốn trường hợp như sau:

a. Sa-di phạm điều học (sikkhāpada) trọng tội, như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu.
b. Sa-di phỉ báng tam bảo (avaṇṇaṃ)c. Sa-di có tà kiến (micchādiṭṭhi)d. Sa-di hãm hiếp Tỳ-khưu ni (dūsako)

* Sa-di phạm một trong năm điều học: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống chất say.

Sa-di phạm trong năm điều giới này lập tức phá hỏng qui giới, không còn là phẩm hạnh Sa-di nữa, dù còn mặc giáo phục cũng không có giá trị nữa.

Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư phải buộc vị ấy hoàn tục. Nếu Sa-di ấy cứng đầu không tuân lời, phải bố cáo đến tăng để trục xuất bằng tăng lệnh.

Nếu vị ấy ăn năn hối lỗi, còn muốn xuất gia nữa, thì Thầy Hòa Thượng có thể cho tu lại, truyền qui giới và cho phép làm lễ bái sư như buổi đầu.

Ðối với Sa-di sai phạm giới luật nhưng tâm lý tu tập, tâm lý xuất gia chưa dứt thì không cần truất bỏ giáo phục, chỉ phải cho phát lộ tội lỗi rồi thọ qui giới lại, cũng gọi là thanh tịnh; tuy vậy cũng phải làm lễ bái sư, vì ngay từ khi phạm giới đã bị mất Thầy Hòa Thượng rồi .

Lễ thọ tam qui (tisaraṇagamana) đối với Sa-di rất quan trọng, thành tựu tam qui lúc nào thì giới cũng thành tựu lúc ấy, tương tợ như khi thành tựu tứ tác bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakammavācā) thì đã thành tựu cụ túc giới (upasampadā) vậy. Do đó phải trọng tâm, sáng suốt và đọc pāli chính xác lúc truyền và thọ tam quy trong lễ tu Sa-di.

* Sa-di phỉ báng Tam Bảo: xuyên tạc Ðức Phật, xuyên tạc Giáo pháp, xuyên tạc Tăng chúng.

Sa-di loạn ngôn phỉ báng Ðức Phật, phỉ báng Giáo pháp, phỉ báng Tăng chúng, Thầy Hòa Thượng, Thầy Giáo Thọ của Sa-di ấy phải khuyên nhắc đôi ba lần như sau: "Này Sa-di, ngươi không nên phỉ báng Phật Pháp Tăng ngươi làm như vậy là phạm tội lỗi nặng nề, sự phỉ báng Phật Pháp Tăng sẽ khiến cho ngươi bất hạnh đau khổ lâu dài; ngươi hãy chừa bỏ, đừng nói như thế nữa." Khi được nhắc nhở như thế nếu Sa-di ấy biết lỗi, bỏ hành động quấy thì tốt, nhưng cũng phải hành phạt (daṇḍakamma) Sa-di ấy, và phải làm cho sám hối tội lỗi giữa Tăng, như sau:

Accayo maṃ bhante accagamā yathābālaṃ yathamūlhaṃ yathā akusalaṃ yo' haṃ bhante evaṃ abhāsiṃ tassa me accayaṃ accayato paṭiggaṇhātha āyatiṃ saṃvareyyāmi.
Nghĩa: Bạch quí Ngài, vì con ngu si, lầm lạc, bất thiện, con đã vi phạm một tội lỗi. Con đã phát ngôn như vậy, xin quí Ngài hãy chấp nhận lỗi lầm của con như một tội lỗi để con ngăn ngừa trong tương lai.

Khi Sa-di sám hối xong, phải cho thọ tam qui và giới lại vì đã phạm điều trục xuất.

Trường hợp Sa-di phạm tội phỉ báng tam Bảo, đã được khuyên nhắc ba lần mà không biết nhận lỗi thì phải hợp Tăng để bố cáo trục xuất (nissāranā-palokanakamma), như sau:

Saṅghaṃ bhante pucchāmi ayaṃ itthannāmo sāmaṇero buddhassa dhammassa saṅghassa avaṇṇa-vādī yaṃ aññe sāmaṇerā labhanti dvirattatirattaṃ bhikkhūhi saddhiṃ sahaseyyaṃ tassā alābhāya nissāraṇā ruccati saṅghassa,
Dutiyampi bhante saṅghaṃ ... như trên .
Tatiyampi bhante saṅghaṃ ... như trên ... ruccati saṅghassa. Cara pi re vinassa.

Nghĩa: Bạch Chư Tăng, tôi xin bố cáo đến Tăng rằng Sa-di tên này là kẻ phỉ báng Ðức Phật, phỉ báng Pháp, phỉ báng Tăng. Quyền lợi mà các Sa-di khác có như được đồng cư với chư Tỳ Khưu hai ba đêm, thì đối với sa di này Tăng có bằng lòng tước mất quyền lợi ấy không?

Lần thứ nhì ... Như trên ...

Lần thứ ba ... Như trên ... này kẻ tội lỗi hãy đi khỏi! Hãy bỏ phẩm mạo!.

Vị Sa-di ấy bị Tăng trục xuất rồi, về sau nếu thấy lỗi lầm, xóa bỏ điều quấy, muốn tu trở lại, thì phải họp Tăng lại để biểu quyết ý kiến, nên cho đương sự sám hối Tăng như vầy:

Ahaṃ bhante bālatāya aññānatāya alakkhika-tāya evaṃ akāsiṃ svāhaṃ saṅghaṃ khamāpemi.
Nghĩa: Bạch quí ngài, con vì ngu si thiếu trí, bất hảo nên đã sai phạm như vậy, con cúi xin Tăng tha thứ cho.

Tiếp đến phải bố cáo Tăng để thu nhận (osa-raṇāpalokanakamma), như sau :

Saṅghaṃ bhante pucchāmi ayaṃ itthannāmo sāmaṇero buddhassa dhammassa saṅghassa avaṇṇa-vādī. Yaṃ aññe sāmaṇerā labhanti dvirattatirattaṃ bhikkhūhi saddhiṃ sahaseyyaṃ tassā alābhāya nis-sārito svāyaṃ idāni sorato virato nivātavutti lajji-dhammaṃ okkanto hiri-ottappe patiṭṭhito katadaṇḍa-kammo accayaṃ deseti imassa sāmaṇerassa yathā pure kāyasambhogasāmaggīdānaṃ ruccati saṅghassa.
Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi ... pe ...
Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi ... pe ...

Nghĩa: Bạch chư Tăng, tôi xin bố cáo đến Tăng rằng Sa-di tên này là kẻ phỉ báng Phật Pháp Tăng, y đã bị tước mất quyền lợi mà các Sa-di khác có như được đồng cư với chư Tỳ Khưu hai ba đêm; Nay người này đã hiền thiện, đã khắc phục, đã nhu thuận, đã biết hổ thẹn, đã trú trong tàm quý, đã chịu hành phạt, và phát lộ lầm lỗi, thì đối với Sa-di này Tăng có vui lòng cho hòa hợp nhập chúng như trước chăng?

Lần thứ nhì ... như trên ...

Lần thứ ba ... như trên ...

Sau khi bố cáo như vậy rồi mới cho vị ấy thọ qui giới tu lại.

* Sa-di có tà kiến.

Sa-di không phải vì nhầm lẫn mới hiểu sai, mà vì ngoan cố chấp thủ tri kiến sai lệch với chánh pháp ấy gọi là tà kiến.

Sa-di có tà kiến đáng tội trục xuất, tuy nhiên Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư của Sa-di ấy phải giãi bày khuyên nhắc cho thấy tội lỗi và dứt bỏ tà kiến. Nếu Sa-di được khuyên dạy, Sa-di ấy biết lỗi lầm và xóa bỏ tà kiến thì chỉ cho hành phạt (daṇḍakamma) rồi cho sám hối giữa Tăng như sau:

Accayo maṃ bhante accagamā yathābālaṃ ya-thāmulhaṃ yathā akusalam yo' haṃ bhante evaṃ diṭṭhiko ahosiṃ tassa me accayaṃ accayato patig-ganhātha āyatiṃ samvareyyāmi.
Nghĩa: Bạch quí Ngài, con đã vi phạm một tội lỗi, vì ngu si lầm lạc bất thiện nên con đã có tà kiến như vậy, xin quí Ngài hãy chấp nhận cho con một lỗi lầm đã sai phạm, để con ngăn ngừa trong tương lai.

Sa-di chịu hành phạt và sám hối như thế rồi chỉ cần truyền qui giới lại cho thanh tịnh là đủ, khỏi phải buộc hoàn tục ra.

Trường hợp Sa-di có tà kiến, đã được nhắc nhở nhiều lần cũng không dứt bỏ tri kiến sai lầm, thì phải họp Tăng để bố cáo trục xuất (nissāranāpalo-kanakamma); lời bố cáo trục xuất trong trường hợp này, văn tự cũng giống như vụ Sa-di phỉ báng tam bảo vậy, chỉ đổi tên tội:

Saṅghaṃ bhante pucchāmi, ayaṃ itthannāmo sāmaṇero micchādiṭṭhiko. Yaṃ aññe ... pe ...
Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi ... pe ...
Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi ... pe .

Về sau, đương sự hối cải sửa chữa lỗi lầm xin được tu lại, thì trước phải cho sám hối giữa Tăng như sau:

Ahaṃ bhante bālatāya aññāṇatāya alakkhi-katāya evaṃ akāsiṃ svāhaṃ saṅghaṃ khamāpemi. (nghĩa như trước).
Sau đó, cần được bố cáo đến Tăng để thu nhận (osāraṇāpalokanakamma), nội dung tương tợ osāraṇāpalokana trong vụ Sa-di phỉ báng tam bảo chỉ thay đổi tội danh:

Saṅgham bhante pucchāmi ayaṃ itthannāmo sāmaṇero micchādiṭṭhiko. Yaṃ aññe ... pe ...
Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi ... pe ...
Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi ... pe ... .

Khi bố cáo xong, được phép cho người ấy tu lại.

* Sa-di hãm hiếp Tỳ-Khưu Ni.

Sa-di có hành động quấy nhiễu tình dục đối với Tỳ-Khưu Ni (bhikkhunī) thì cần phải xử trục xuất tức khắc.

Tội này nặng nề hơn tội thông dâm bình thường, nghĩa là tội hành dâm bị xử trục xuất rồi sau đó còn có thể tu lại được nếu muốn.

Còn về điều trục xuất thứ mười này thì Sa-di bị trục xuất sẽ mất gốc như người bị đứt lìa đầu, sẽ không được phép cho xuất gia lại trong bất cứ trường hợp nào. Ðức Thế-Tôn đã chế định ngăn đứt điều đó.

DỨT CHƯƠNG LUẬT TRỤC XUẤT

-ooOoo-

CHƯƠNG V

LUẬT SINH HOẠT(VATTIKA)

Thiện Nam tử khi đã xuất gia trong giáo pháp này, bước đầu trú trong phẩm mạo Sa-di (sāmaṇera) cần phải học tập thông thạo các luật nghi để tập sự thực hành, hầu quen lối sống phạm hạnh mai sau dễ dàng trở thành vị Sa-Môn thực thụ, tức là phạm hạnh Tỳ-Khưu (bhikkhu).

Ngoài việc thọ trì học giới (sikkhāpada), vị Sa-di phải thông hiểu các luật sinh hoạt trong đời sống tu sĩ. Luật sinh hoạt gồm có năm phần:

1. Phép quán tưởng vật dụng (paccayasan-nissita).
2. Phép quán tưởng nhật hành (abhiṇhapac-cavekkhana).3. Phép sử dụng y bát (pattacīvaraparibhoga).
4. Phép nhập hạ (vassūpanāyika).
5. Ngày trai giới (uposatha).

V.1. PHÉP QUÁN TƯỞNG VẬT DỤNG (Pacca-yasannissita)

Vị xuất gia có bốn món vật dụng (paccaya) là:

1- Y phục (cīvarappaccaya), tức là vải đắp mặc, người cư sĩ thì có áo quần, còn vị xuất gia thì có y ca-sa; hàng Tỳ-khưu thì có tam y: y kép (saṅghāṭi), y vai trái (uttarasaṅga) và y nội (antaravāsaka); hàng Sa-di chỉ có hai y là y vai trái và y nội.
2- Vật thực (pindapātappaccaya), là các thức ăn để nuôi sống như cơm, bánh ... dùng trong buổi sáng.
3- Trú xứ (senāsanappaccaya), là chỗ ở, dùng để ẩn tránh mưa, nắng ... như liêu cốc, tịnh thất, túc xá, thậm chí là bóng cây, hang động ...; còn có nghĩa là sàng tọa tức chỗ nằm chỗ ngồi.
4- Dược phẩm (gilānappaccaya), là thuốc dùng trị bệnh dành cho người bệnh, gồm cả những thứ để dưỡng sức như đường, sữa, mật ong, dầu mè...

Vị xuất gia phải thông thuộc cách quán tưởng (paccavekkhana) khi dùng đến bốn món vật dụng, thuộc lòng cả pāli lẩn ý nghĩa.

Phép quán tưởng vật dụng có 4 cách, quán tưởng 3 thời. Ba thời là trước khi, đang khi và sau khi thọ dụng; bốn cách là quán tưởng nguyên chất (dhātuppaccavekkhana), quán tưởng uế tánh (paṭikū-lappaccavekkhana), quán tưởng hiện thời (taṃkha-nikappaccavekkhana), quán tưởng quá thời (atītappaccavekkhana).

Vị xuất gia trước khi dùng đến bốn món vật dụng phải quán tưởng 2 cách:

a. Quán tưởng nguyên chất (dhātuppaccavek-khana), là quán tưởng cho thấy rằng các món vật dụng chỉ là chất tứ đại hợp thành thôi, chỉ là nguyên tố sắc pháp vô thức thôi. Quán tưởng như sau:

Quán tưởng y phục :
"Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumatta-mevetaṃ yadidaṃ cīvaraṃ tadupabhuñjako ca pug-galo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño" - "Y phục này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi." Quán tưởng vật thực :
"Yathāpaccayaṃ pavattamānam dhātumatta-mevetaṃ yadidam piṇḍapāto tadupabhuñjako ca pug-galo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño"- "Vật thực này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi". Quán tưởng trú xứ :
"Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumatta-mevetam yadidaṃ senāsanaṃ tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño" - "Trú xứ này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi". Quán tưởng dược phẩm :
"Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumatta-mevetaṃ yadidaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhāro tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño" - "Dược phẩm thuốc trị bệnh này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi".

b. Quán tưởng uế tánh (Paṭikūlappaccavek-khana), những vật dụng dùng phải quán tưởng cho thấy sự ô trược của chúng và tính bất tịnh của thân này; quán tưởng như sau:

Quán tưởng y phục :
"Sabbāni pan'imāni cīvarāni ajigucchanīyāni imaṃ pūṭikāyaṃ patvā ativiya jigucchanīyāni jāyan-ti."- "Tất cả y phục này không phải là vật đáng gớm, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm lắm." Quán tưởng vật thực :
"Sabbo pan'āyam piṇḍapāto ajigucchanīyo imaṃ pūtikāyaṃ patvā ativiya jigucchanīyo jāyati." - "Tất cả vật thực này không phải là vật đáng gớm ghê, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm lắm." Quán tưởng trú xứ :
"Sabbāni pan'imāni senāsanāni ajigucchanī-yāni imaṃ pūtikāyaṃ patvā ativiya jigucchanīyāni jāyanti." - "Tất cả trú xứ này không phải là vật đáng gớm ghê, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm lắm." Quán tưởng dược phẩm :
"Sabbo pan' āyam gilānappaccayabhesajjapa-rikkhāro ajigucchanīyo imaṃ pūtikāyaṃ patvā ati-viya jigucchanīyo jāyati." - "Tất cả dược phẩm thuốc trị bệnh này không phải là vật đáng gớm ghê, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm."

c. Quán tưởng hiện thời (tamkhanikapacca-vekkhana) là ngay lúc ăn, lúc mặc y, lúc vào ngụ trong liêu phòng, lúc dùng thuốc trị bệnh, quán tưởng cho thấy nhu cầu thiết yếu của vật dụng ấy:

Quán tưởng y phục :
"Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmi yāva-deva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsa-makasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ paṭighātā-ya yāvadeva hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ" - "Khéo quán tưởng rằng: ta thọ dụng y phục chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát, cũng chỉ để che đậy sự lõa lồ." Quán tưởng vật thực :
"Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevāmi ne-va davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanā-ya yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsuparatiyā brahmacariyā'nuggahāya iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca vedanaṃ na uppā-dessāmi yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsu-vihāro cā'ti." - "Khéo quán tưởng rằng: ta dùng thực phẩm không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để lợi dưỡng, không phải để giồi nhan sắc, mà chỉ để duy trì thân này cho sống còn tránh khỏi tổn hại, cũng để hỗ trợ phạm hạnh vì rằng ta diệt trừ được cảm thọ cũ và không sanh cảm thọ mới, sinh hoạt của ta sẽ không lỗi lầm và lạc trú." Quán tưởng trú xứ :
"Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevāmi yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ paṭi-ghātāya yāvadeva utuparissayavinodanaṃ paṭisallā-nārāmatthaṃ." - "Khéo quán tưởng rằng: ta sử dụng trú xứ chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi gió nắng và loài bò sát, cũng chỉ để giải trừ bực bội do thời tiết, mục đích vui thiền tịnh." Quán tưởng Dược phẩm :
"Paṭisaṅkhā yoniso gilānappaccayabhesajja-parikkhāraṃ paṭisevāmi yāvadeva uppannānaṃ vey-yābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyāpajjha-paramatāyā'ti" - "Khéo quán tưởng rằng: ta thọ dụng dược liệu trị bệnh này, chỉ để ngăn chận các cảm thọ thống khổ đã phát sanh cho đặng sự thoải mái hoàn toàn."

d. Cách quán tưởng quá thời (atītappaccavek-khana) Vị xuất gia trong ngày và đêm, sau khi đã thọ dụng y phục, vật thực, trú xứ, thuốc trị bệnh, nếu chưa được quán tưởng thì phải quán tưởng lại bốn món vật dụng ấy, trước khi mặt trời mọc ngày hôm sau.

Quán tưởng y phục :
"Ajja mayā appaccavekkhitvā yaṃ cīvaraṃ paribhuttaṃ taṃ yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsamakasavātātapasiriṃsa-pasamphassānaṃ paṭighātāya yāvadeva hirikopinap-paṭicchādanatthaṃ." - "Y phục nào ta đã sử dụng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, y phục ấy chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi gió nắng và loài bò sát, cũng chỉ với mục đích che đậy sự lõa lồ thôi." Quán tưởng vật thực :
"Ajja mayā appaccavekkhitvā yo piṇḍapāto paribhutto so neva davāya na madāya na maṇḍanāya navibhūsanāya yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsuparatiyā brahmacariyā' nuggahāya iti purānañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca veda-naṃ na uppādessāmi yātrā ca me bhavissati anavaj-jatā ca phāsuvihāro cā'ti" - "Vật thực nào mà ta đã dùng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, vật thực ấy dùng không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để lợi dưỡng, không phải để giồi nhan sắc, mà chỉ để duy trì thân này cho sống còn tránh khỏi tổn hại, cũng để hỗ trợ phạm hạnh vì rằng ta diệt trừ cảm thọ cũ và không cho sanh cảm thọ khổ mới, sinh hoạt của ta sẽ không lỗi lầm và lạc trú." Quán tưởng trú xứ :
"Ajja mayā appaccavekkhitvā yaṃ senāsanaṃ paribhuttaṃ taṃ yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsamakasavātātapasiriṃsa-pasamphassānaṃ paṭighātāya yāvadeva utuparissa-yavinodanaṃ paṭisallānārāmatthaṃ." - "Trú xứ nào ta đã sử dụng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, trú xứ ấy dùng chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió nắng và loài bò sát, cũng chỉ để giải trừ bực bội của thời tiết, mục đích vui thiền định." Quán tưởng dược phẩm :
"Ajja mayā appaccavekkhitvā yo gilānappacca-yabhesajjaparikkhāro paribhutto so yāvadeva uppan-nānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyāpajjhaparamatāyā'ti." - "Dược phẩm thuốc trị bệnh nào ta đã dùng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, thuốc ấy dùng chỉ để ngăn chận các cảm thọ thống khổ đã phát sanh, cho đặng sự thoải mái hoàn toàn."

DỨT PHÉP QUÁN TƯỞNG VẬT DỤNG.

V.2. PHÉP QUÁN TƯỞNG NHẬT HÀNH (abhiṇhapaccavekkhana).

Bậc xuất gia có hai phận sự (dhura) tu tập: là pháp học (ganthadhura) và pháp hành (vipassanā-dhura).

Về pháp học, phải học hỏi thông thuộc giáo lý trong tam Tạng (tipiṭaka) để có thể hiểu chánh pháp và truyền bá chánh pháp.

Về pháp hành, phải thọ trì giới luật thanh tịnh, thực hành thiền định, phát triển trí tuệ. Cho dù trong thời gian đang thọ trì pháp học cũng phải thực hành rèn luyện tâm và tuệ cho kiên cố niềm tin, tinh tấn, và hướng mục đích phạm hạnh. Bằng cách quán sát, tâm niệm thường hàng ngày (abhiṇhapaccavek-khana), nhờ đó vị xuất gia mới sống đời phạm hạnh có ý nghĩa và gắn bó với lý tưởng tu tập được.

Về phép quán tưởng nhật hành sơ khởi của bậc xuất gia gồm hai phần:

a. Quán tưởng qui luật tự nhiên.
b. Quán tưởng tâm lý phạm hạnh.

A- QUÁN TƯỞNG QUI LUẬT TỰ NHIÊN.

Ðể tâm ta nhớ biết thực chất của đời sống mà chuẩn bị tư tưởng đối phó nghịch cảnh dễ dàng. Tức là quán tưởng 5 điều như sau:

1. "Jarādhammo'mhi jaraṃ anatīto" - "ta phải già, không thoát khỏi già."
2. "Byādhidhammo'mhi byādhiṃ anatīto" -"ta phải bệnh, không thoát khỏi bệnh."
3. "Maraṇadhammo'mhi maraṇaṃ anatīto" - "ta phải chết, không thoát khỏi chết."
4. "Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo" - "đối với ta phải ly tán phải mất mát mọi vật thương yêu thân ái."
5. "Kammassako'mhi kammadāyādo kammayo-ni kammabandhu kammappaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi" - "ta là sở hữu chủ nghiệp, thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, bất cứ nghiệp thiện hay ác nào ta làm, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy."

B. QUÁN TƯỞNG TÂM LÝ PHẠM HẠNH.

Ðể ôn nhắc mục đích tu tập, tự sách tấn tu tập, và cảnh giác trong sinh hoạt hàng ngày. Ðức Phật phải dạy bậc xuất gia phải hằng tâm niệm mười điều như sau:

1. Vevaṇṇayamhi ajjhūpagato, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "ta có tướng mạo khác hơn kẻ thế."
2. Parappaṭibaddhā me jīvikā, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "sự nuôi mạng của ta bị lệ thuộc nơi kẻ khác."
3. Añño me ākappo karaṇīyo, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "Hành vi của ta cần phải khác biệt."
4. Kacci nu kho me attā sīlato na upavadati, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "Chính ta không khiển trách về giới hạnh của mình chứ?"
5. Kacci nu kho maṃ anuvicca viññū sabrahmacārī sīlato na upavadati, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "Các vị đồng phạm hạnh trí thức khi xét đến ta không có khiển trách về giới hạnh chứ?"
6. Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "đối với ta phải ly tán phải mất mát mọi vật thương yêu thân ái."
7. Kammassako'mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "ta là sở hữu chủ nghiệp, thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, bất cứ nghiệp thiện hay ác nào ta làm, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy."
8. Kathambhūtassa me rattindivā vītivattanti, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "Ngày đêm trôi qua ta đã thế nào rồi?"
9. Kacci nu kho'haṃ suññāgāre abhiramāmi, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "Ta có vui thích chỗ thanh vắng chăng?"
10. Atthi nu kho me uttarimanussadhammā-lamariyaññāṇadassanaviseso adhigato so'haṃ pacchi-me kāle sabrahmacārīhi puṭṭho na maṅku bhavis-sāmi, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: "Ta có được pháp thượng nhân không? Tri kiến thù thắng tương ứng bậc thánh ta đạt được chưa? để đến phút cuối, các vị đồng phạm hạnh hỏi đến, ta sẽ không hổ thẹn."

Trên đây là hai phép quán tưởng nhật hành mà bậc xuất gia nên thường tư duy hàng ngày, điều đó sẽ giúp tâm lý tu tập dũng mãnh và liên trì. Ðức Thế Tôn đã dạy như thế.

DỨT PHÉP QUÁN TƯỞNG NHẬT HÀNH

V.3. PHÉP SỬ DỤNG Y VÀ BÁT (Pattacīva-raparibhoga).

Luật dạy rằng: bậc xuất gia, nhất là Tỳ-Khưu, khi được phát sanh y và bát mới phải làm dấu hoại sắc (dubbaṇṇakaraṇa) và chú nguyện thành tên vật dụng, mới được phép dùng xài.

Dù là bậc Sa-di cũng nên tập thực hành luật ấy để tâm không dể duôi cẩu thả, cho quen cách sinh hoạt luật nghi hầu sau tu lên bậc trên không ngỡ ngàng.

Phép sử dụng y bát có ba phần:

a. Làm dấu (bindukappa)
b. Chú nguyện tên (adhiṭṭhāna)
c. Xả tên (paccuddhara)

A- Làm dấu, chỉ đối với các thứ y phục thôi, còn như bình bát thì khỏi cần làm dấu. Làm dấu là dùng viết mực xanh, đen hoặc xám rồi điểm vòng tròn nhỏ trên bốn góc chiếc y, vòng nhỏ cỡ bằng mút đũa hoặc mắt gà, không nên vẽ nhỏ quá hay lớn quá hay không thành dấu tròn ...

Khi làm dấu, phải tác ý và nói ra lời như sau:

"Imaṃ bindukappaṃ karomi" (Ta làm dấu y này).
B- Chú nguyện tên. Y (cīvara) là nói chung các thứ dùng xài bằng vải sợi, mỗi thứ đều có tên gọi riêng, như: y kép (saṅghāti), y vai trái (uttara-saṅga), y nội (antaravāsaka), y tắm mưa (vassika-sāṭika), ngọa cụ (paccattharaṇā), tọa cụ (nisīdana), vải băng ghẻ (kaṇḍuppaṭicchādi), khăn lau mặt (mu-khapuñchanacoḷa), y phụ tùng (parikkhāracoḷa) tức là giây lưng (kāyabandhana), túi dèm (thavika), áo lót (aṃsaka) ... đó là các thứ y khi sử dụng phải nguyện đặt tên.

Cách nguyện tên y là chú ý đến chiếc y đang giữ trong tầm tay hoặc để ngoài tầm tay rồi chú nguyện thành tên của chiếc y đó như vầy:

" Imaṃ uttarasaṅgaṃ adhiṭṭhāmi" (Ta nguyện y này là y vai trái). Nếu chiếc y để ngoài tầm tay thì chú nguyện rằng:
"Etaṃ uttarasaṅgaṃ adhiṭṭhāmi" (Ta nguyện y đó là y vai trái).

Trong lời chú nguyện hãy đổi tên cho đúng tùy theo thứ y đang muốn sử dụng. Khi đã nguyện y thành tên rồi, sử dụng không phạm tội.

C- Xả tên y, tức là khi muốn bỏ y cũ để sử dụng y mới, trước khi chú nguyện y mới ấy phải xả y cũ.

Xả y cũ cũng chú ý đến y trong tầm tay hoặc ngoài tầm tay, rồi nghĩ tưởng như sau:

"Imaṃ uttarasaṅgaṃ paccuddharāmi" (Ta xả bỏ y vai trái này), hoặc: "Etaṃ uttarasaṅgaṃ pac-cuddharāmi" (Ta xả bỏ y vai trái đó).
Về cách sử dụng y thì trước tiên phải xả bỏ y cũ (paccuddhara), kế đến là làm dấu y mới (bindu-kappa), sau cùng là nguyện thành tên cho y mới (adhiṭ-ṭhāna).

Về cách sử dụng bình bát (patta), luật dạy rằng bình bát không cần làm dấu, chỉ chú nguyện là được; lại nữa bình bát đã cũ muốn đổi xài bát mới, phải xả bỏ, mới được phép chú nguyện bát mới.

Cách chú nguyện bình bát như sau:

"Imaṃ pattaṃ adhiṭṭhāmi" (Ta chú nguyện đây là bình bát), hoặc "Etaṃ pattaṃ adhiṭṭhāmi" (Ta chú nguyện đó là bình bát).
Cách xả bình bát như sau:

"Imaṃ pattaṃ paccuddharāmi" (Ta xả bỏ bình bát này), hay "Etaṃ pattaṃ paccuddharāmi" (Ta xả bỏ bình bát đó).
Trên đây là cách sử dụng y và bát, Sa-di cũng có y bát (chỉ ngoại trừ y tăng-già-lê saṅghāṭi) nên vì thế cũng phải thông thuộc cách thức nguyện và xả y bát, để tập sống theo luật nghi cho tốt đẹp.

V.4. PHÉP NHẬP HẠ (Vassūpanāyika).

Luật dạy, chư Tỳ-Khưu đến mùa mưa, kể từ ngày 16/ 6 âl đến ngày 15/ 9 âl, phải dừng chân du hóa để an cư kiết hạ 3 tháng bắt đầu từ 16/ 9 âl cho đến 15/ 9 âl, hoặc từ 16/ 7 âl đến 15/ 10 âl.

Các Sa-di thường du hành theo chân các vị Tỳ-khưu, nên khi vào thời chư tăng nhập hạ cũng phải tùng nhập hạ.

Ngày chuẩn bị nhập hạ, Sa-di phải đến đảnh lễ Thầy Hòa Thượng hay thầy giáo thọ để xin chỉ định trú xứ nhập hạ; phải nghe lời chỉ bảo của chư Tỳ-khưu quét dọn sạch sẽ trú xứ, dự trữ nước xài cho đầy đủ ...

Sau đó, phát nguyện nhập hạ theo chư Tỳ-khưu như sau:

"Imasmiṃ ārāme imaṃ temāsaṃ vassaṃ upemi" (Con xin an cư mùa mưa ba tháng này trong chùa đây).
Trong thời gian nhập hạ, nếu hữu sự cần phải đi khỏi chùa vài ngày, Sa-di phải đến bày tỏ xin phép thầy hoặc chư Tỳ-khưu mình nương nhờ, để nguyện hạ ra đi. Các Thầy Tỳ-khưu suy xét thấy việc chính đáng mới cho phép Sa-di đi khỏi chùa. Nhưng vị Sa-di ấy cũng phải nguyện hạ mới nên đi.

Nguyện hạ là tự giới hạn thời gian vắng mặt ở chùa, luật Ðức Phật chỉ cho phép thời gian vắng mặt trong lúc nhập hạ là tối đa khoảng bảy ngày tức sáu đêm, vào ngày thứ bảy kể từ khi ra đi, phải có mặt ở chùa trước lúc mặt trời mọc, trễ hạn ấy gọi là đứt hạ.

Cách nguyện hạ như sau: trước khi ra khỏi ranh chùa phải phát nguyện, hoặc tuyên bố với một vị khác, hoặc đối diện kim thân, bảo tháp thờ, cũng được. Nguyện rằng:

"Sace me antarāyo natthi sattāhabbhantare ahaṃ puna nivattissāmi" (Nếu không có sự tai hại đến ta, ta sẽ trở về trong khoảng bảy ngày).
Vị Sa-di nếu đã nhập hạ tròn đủ, không bị đứt hạ, thì vẫn được hưởng lợi lộc phát sanh trong mùa dâng y Kaṭhina như chư Tỳ-khưu, tuy nhiên chư tăng phải được thông qua bằng cách bố cáo chia lợi lộc đến Sa-di, gọi là Lābhavibhajanāpalokanakamma. Nếu như có thí chủ làm phước cúng dường y và vật dụng đến tăng mà thỉnh nguyện rằng chúng con xin dâng đến các vị trong chùa cả Tỳ-khưu lẩn Sa-di; như thế tăng hãy chia đến Sa-di mà không cần họp tăng để bố cáo.

Riêng về vị Sa-di mới tu trong hạ, hoặc nhập hạ kỳ sau (từ 16/ 7 đến 15/ 10 âl), hoặc bị đứt hạ, đều không được hưởng lợi lộc chi cả; nếu cá nhân thầy Tỳ-khưu cho lợi lộc đến Sa-di vì lòng thương xót cũng được.

V.5. NGÀY TRAI GIỚI (uposatha).

Ngày trai giới thường gọi là ngày bố tát, do âm từ phạn ngữ uposatha, nghĩa là ngày thanh tịnh tăng. Luật qui định một tháng có hai ngày bố-tát là ngày rằm và ngày cuối tháng (30 âl hoặc 29 âl, tùy tháng đủ thiếu).

Ðức Phật chuẩn hành luật cho chư Tỳ-khưu phải tụng giới (pāṭimokkhuddesa) trong ngày uposa-tha; nếu nơi chỉ có hội họp hai, ba vị Tỳ-khưu thì vào ngày bố tát không tụng giới cũng phải phát-lồ thanh tịnh; nếu ở một mình cũng phải phát lồ nguyện bố tát ...

Về phần Sa-di thì luật không qui định nghi thức, nhưng sau này các bậc A-xà-lê để chế định việc hành cho các Sa-di trong ngày bố tát để Sa-di chúng sinh hoạt khuôn khổ; điều này cũng tạo sự thanh tịnh cho Sa-di, nên mặc nhiên được tăng chúng chấp nhận.

Các Sa-di vào ngày trai giới bố-tát phải thọ pháp hành phạt (daṇḍakamma) nơi Tỳ-khưu tăng để răn sửa lỗi lầm, tác tịnh tâm lý dù rằng không phạm lỗi, như thế cũng tốt; cách thọ pháp hành phạt xin xem lại Chương III, Luật hành phạt, Mục 2.

Sau việc thọ hành phạt hãy xin thọ qui giới lại nơi tăng, trước khi chư Tỳ-khưu hành tăng sự bố-tát tụng giới bổn. Tăng cử vị Tỳ-khưu nào đó truyền dạy qui giới cho Sa-di rồi mới hành lễ bố-tát, cũng như thuở xưa lúc Tỳ-khưu ni chúng còn, chư Tỳ-khưu tăng phải cử vị đi giáo giới Tỳ-khưu ni (bhikkhunovāda) trong ngày bố-tát trước khi làm lễ phát lồ tụng giới vậy.

DỨT CHƯƠNG LUẬT SINH HOẠT

-ooOoo-

CHƯƠNG VI

NGHI THỨC XUẤT GIA SA-DI(PABBAJITAVIDHĪ)

Thiện nam tử muốn xuất gia tu tập trong Phật giáo, trước phải tu giới phẩm Sa-di (sāmaṇera) rồi mới tu lên bậc trên thành Tỳ-khưu (bhikkhu) sau đó hoặc thời gian khác.

Nghi thức xuất gia Sa-di đã được Ðức Phật chuẩn hành từ xưa, có ghi lại trong Luật tạng, bộ Đại phẩm (mahāvagga).

Hàng Sa-di chỉ mới bước đầu tập sự theo hạnh sa-môn (samaṇa) nên Ðức Thế Tôn cho phép thọ trì tam qui và thập giới chừng ấy thôi.

Về nghi thức, trước nhất vị thiện nam tử phải tìm đủ y và bát (hàng Sa-di không cần đủ tam y, chỉ cần y vai trái và y nội). Phải tìm nương vị trưởng lão đức hạnh để bái làm thầy tế độ (upajjhāya).

Sau khi được sự chấp nhận cho xuất gia, phải cạo bỏ râu tóc (việc này cần bố cáo cho tăng biết) thiện nam tử, bấy giờ là giới tử, hãy mang y bát đến trước mặt vị thầy tế độ, đảnh lễ vị ấy ba lạy rồi đứng lên chắp tay nghiêm trang và tác bạch rằng:

"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā pabbajjaṃ detha me bhante."
(Nghĩa: Bạch Ngài, con thành kính đảnh lễ Ngài. Bạch Ngài, xin hãy xá mọi tội lỗi cho con; phước báo con đã làm xin Ngài tùy hỷ, phước báo Ngài đã tạo hãy cho đến con, lành thay! con xin tùy hỷ. Bạch Ngài, kính xin Ngài hãy vì lòng bi mẫn mà cho con xuất gia).

Rồi ngồi xuống theo thế ngồi chồm hổm, chấp tay lên nói tiếp:

"Ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; dutiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; tatiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi".
(Nghĩa: Bạch Ngài, con cầu xin được xuất gia; lần thứ nhì, con cầu xin được xuất gia; lần thứ ba, con cầu xin được xuất gia).

Kế đến giới tử cầm lấy bộ y ca-sa dâng đến tay thầy tế độ và tác bạch như sau:

"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhan-te anukampaṃ upādāya." (nói ba lần).
(Nghĩa: vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch Ngài, xin Ngài vì lòng bi mẫn mà thu nhận y cà sa này và cho con xuất gia)

Giới tử lại đọc lời này để xin y ca-sa:

"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya etaṃ kāsāvaṃ datvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya." (nói ba lần).
(Nghĩa: vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch Ngài, xin Ngài vì lòng bi mẫn mà cho lại con y ca sa đó và cho con xuất gia).

Khi giới tử dứt lời, Thầy Hòa Thượng hãy trao lại y cà sa cho giới tử và dạy sơ lược về cách quán tưởng khi mặc y phục, đồng thời dạy về đề mục niệm thân thể trược như sau; giới tử phải nói theo từng đề mục:

"Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā".
(Nghĩa: tóc, lông, móng, răng; da, da, răng, móng, lông, tóc).

Xong rồi giới tử lui ra đến chỗ khuất mà thay đổi tướng mạo mặc y cà sa vào nghiêm trang đúng luật, mới trở lại trước mặc Thầy Hòa Thượng đảnh lễ Ngài ba lạy, và đứng lên chắp tay tác bạch xin thọ qui giới, như sau:

"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā tisaraṇena saha sīlāni detha me bhante." (nghĩa như trước, đoạn cuối nghĩa là: Bạch Ngài, xin hãy bi mẫn truyền qui giới cho con).
Ðoạn ngồi chồm hổm chắp tay đọc tiếp:

"Ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi".
(Nghĩa: Bạch Ngài, con cầu xin thọ qui giới, lần thứ nhì . . . lần thứ ba. . .)

Thầy Hòa Thượng phán:

"Yam ahaṃ vadāmi taṃ vadehi"
(Ta nói lời nào ngươi hãy nói theo lời ấy).

Giới tử lãnh giáo:

"Āma bhante" (xin vâng, bạch Ngài).
Thầy Hòa Thượng niệm Phật và giới tử cũng làm theo:

Namo tassa bhagavato arahato sammāsam-buddhassa (kính lễ Ðức Thế Tôn, Ưng Cúng, Chánh Biến Tri); ba lần.
Tiếp đến, Thầy Hòa Thượng truyền dạy giới tử thọ Tam qui, đọc hai giọng Nam và Bắc phạn:

- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật).
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp).
- Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng).
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ nhì).
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ nhì).
- Dutiyampi Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng, lần thứ nhì).
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ ba).
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ ba).
- Tatiyampi Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng, lần thứ ba).

Phải đọc lại tam qui một lần nữa bằng giọng Bắc. Phân biệt giữa giọng Nam và giọng Bắc. Giọng Nam phát âm mũi (nāsikaja) như "Buddhaṃ (ṃ) saraṇaṃ (ṃ) gacchāmi" ... ; còn giọng Bắc là phát âm môi (oṭṭhaja) hợp với âm mũi (nāsikaja) như "buddham (m) saraṇam (m) gacchāmi" ... vì rằng phẩm mạo Sa-di được thành tựu hay không do sau lời tuyên thệ Tam qui (tisaraṇagamana), nên phải phát âm cho đúng chuẩn tiếng Phạn.

Sau phần giới tử đã thọ tam qui,Thầy Hòa Thượng nhắc nhở:

"Tisaraṇaggahanaṃ paripuṇṇaṃ" (phép thọ trì tam qui đã tròn đủ)
Sa-di lãnh giáo: "Āma bhante".

Thầy Hòa Thượng tiếp tục truyền thọ thập giới cho Sa-di:

1. Pāṇāṭipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng sát sanh).
2. Adiṇṇādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng trộm cắp).
3. Abramhmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng hành dâm).
4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng nói dối).
5. Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng uống rượu dể duôi).
6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng ăn phi thời).
7. Naccagītavāditavisūkadassanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng sự ca nhạc khiêu vũ).
8. Mālāgandhavilepanadhāranamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng sự trang điểm đeo tràng hoa xức hương liệu).
9. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng chỗ nằm ngồi cao rộng).
10. Jātarūparajatappaṭiggahanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng thọ nhận vàng bạc châu báu).

Kết luận, đọc ba lần như sau:

"Imāni dasa sikkhāpadāni samādi-yāmi"
(Con xin thọ trì cả mười điều học này).

Sa-di đã được truyền thọ mười giới như vậy rồi, đảnh lễ Thầy Hòa Thượng. Tiếp theo đó là làm nghi thức bái sư và xin y chỉ (nissaya).

Sa-di đứng lên trước mặt Thầy Hòa Thượng, chấp tay tác bạch như sau:

"Vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khama-tha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumo-ditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā nissayaṃ detha me bhante." (Nghĩa: bạch Ngài, con xin đảnh lễ Ngài v.v. bạch Ngài, xin Ngài từ bi cho con y chỉ).
Phục xuống ngồi chồm hổm chấp tay, đọc tiếp:

" Ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi".
" Upajjhāyo me bhante hohi".
(Nghĩa: bạch ngài, con cầu xin pháp y chỉ, lần thứ nhì ... lần thứ ba ... Bạch Ngài, xin hãy là Thầy Tế Ðộ của con".

Vị Hòa Thượng chấp nhận bằng lời:

"Sādhu!" (tốt lắm!)
Hoặc lāhu, paṭirūpaṃ, opāyikaṃ, pāsādikena, sampādehi ... một tiếng nào cũng được.

Sa-di cúi đầu bái nhận bằng lời:

"Ukāsa sampaṭicchāmi. Sampaṭicchāmi. Sam-paṭicchāmi."
(Nghĩa là: thưa, con xin lĩnh hội. con xin lĩnh hội. con xin lĩnh hội.)

vẫn tiếp tục nói:

"Ajjatagge'dāni thero mayhaṃ bhāro, ahampi therassa bhāro". (ba lần).
(Nghĩa: kể từ hôm nay trưởng lão là trọng trách của con, phần con cũng là trọng trách của trưởng lão).

Xong, Sa-di đảnh lễ thầy ba lạy và ngồi xuống nơi phải lẽ để nghe thầy dạy dỗ ... từ đây vị Sa-di này phải làm tròn các bổn phận của vị đệ tử đối với Thầy Tế Ðộ, phải luôn luôn tinh tấn học tập và trau dồi phẩm hạnh Sa-di nếu trong thời gian chưa được tu lên bậc trên.

DỨT LUẬT NGHI XUẤT GIA SA-DI

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.9/6/2012.