Sunday 22 April 2012

Liên hoa sắc tỳ kheo ni
Khi đức Phật hành hóa trong thành Xá Vệ,ở ấp Ưu Thiện Na có một thanh niên cư sĩ ra ngoài du ngoạn gặp một cô gái,mặt như mận đào,tướng nữ đầy đủ.Do sắc đẹp và khuôn mặt đẹp như hoa Sen nên cha mẹ đặt tên nàng là Liên hoa sắc.
Thanh niên này vừa gặp liền đem lòng thương yêu,đồng thời sinh tâm kính trọng và xin được cưới nàng làm vợ. Không lâu sau,nàng Liên hoa sắc thụ thai.Do Ấn Độ có tập tục phải về nhà mẹ ruột sinh con nên chồng của Liên hoa sắc liền đưa nàng về nhà mẹ ruột chờ sinh con.Trong thời gian nàng sinh con,người chồng khó tránh khỏi trống vắng,liền tư thông với mẹ của nàng.
Liên hoa sắc phát hiện,đau đớn vô cùng,nhưng vì đứa con nên đành nhẫn nhục sống qua ngày,đến khi đứa con được 8 tuổi nàng mới lặng lẽ bỏ đi. Liên hoa sắc ra đi với trái tim tan nát,lặn lội đường xa đến thành Ba La Nại,vừa đói vừa khát,cực nhọc trăm bề,mệt mỏi quá và nghỉ ngơi ở ven sông.Vừa lúc có một vị trưởng giả xuất hành du ngoạn,thấy nàng Liên hoa sinh đẹp liền đem nàng về lập làm chính thất,vợ chồng rất kính trọng nhau,trải qua tám năm. Bấy giờ,vị trưởng giả có nhiều lợi tức ở Ưu Thiện Na ấp thường cần phải đi thu tiền về.Liên hoa sắc biết các cô gái ấp Ưu Thiện Na sống tương đối phóng túng,lòng lo lắng khi chồng phải đi đến đó,nhưng vị trưởng giả thề thốt luôn miệng,nàng Liên hoa đành để chồng đi.
Do nơi phải thu lợi tức nhiều nên vị trưởng giả ở lại ấp Ưu Thiện Na cả năm,không nhịn được nỗi trống vắng,lén lút cưới một cô vợ nhỏ,sắp xếp giấu một nơi khác. Khi chồng trở về,Liên hoa sắc phát hiện hành tung của ông chồng bỗng trở nên không bình thường,sáng sớm đã ra khỏi nhà,thật khuya mới về.
Nàng bí mật dò hỏi tên tùy tùng mới biết chồng mình có vợ nhỏ ở ngoài,nàng không biết làm sao được đành bảo chồng đem vợ nhỏ về cùng chung sống. Một lần,đang gội đầu,Liên hoa sắc quan sát dáng mạo của cô vợ nhỏ,phát hiện cô ta rất gống với con gái mình,bèn cặn kẽ hỏi gia thế cô ta,mới hay đúng là con gái cũ của mình. Phát hiện này như sét đánh ngang tai,Lien hoa sắc đau đớn than rằng:"Ngày trước có chồng chung với mẹ ruột,nay lại cùng con ruột hầu hạ một chồng!" Nàng Liên hoa sắc trong cơn tuyệt vọng đã bỏ vị trưởng giả mà ra đi,bắt đầu cuộc sống phóng túng,buông thả,chỉ cần ai bỏ ra 500 đồng vàng đều có thể qua đêm với nàng.
Không lâu sau,nàng Liên hoa sắc được ngài Mục Kiền Liên hóa độ,hốt nhiên tỉnh ngộ.Lúc ấy nàng nghe nói đức Phật đang thuyết pháp giải thoát ở trên núi Linh Thứu,tâm khởi lên lòng cầu pháp.Liền tới núi Linh Thứu tìm Phật. Đi đến giữa đường,cảm thấy khát nước nàng xuống một con suối uống nước và rửa tay.Bấy giờ,nàng soi thấy hình bóng diễm lệ của mình trong dòng nước liền sinh tâm ái niệm:"Ta vì sao lại phải xả bỏ khuôn mặt đẹp đẽ này mà xuất gia làm Sa môn?"Nàng do dự muốn quay về. Đức Phật dùng thiên nhãn,quán biết Liên hoa sắc cần được hóa độ,bèn hóa thành một vị phu nhân đẹp tuyệt trần,đẹp hơn cả Liên hoa sắc,bước đến bên cạnh nàng.Liên hoa sắc chợt thấy người phụ nữ đó ,tưởng là người trời,hai người làm bạn chuyện trò vui vẻ.
Đi một đoạn đường,cả hai đều hơi mệt bèn ngồi xuống nghỉ bên suối.Người phụ nữ ngủ thiếp trên đùi của Liên hoa sắc.Bỗng nhiên người phụ nữ dường như tắt thở,trong chốc lát thi thể sình lên hôi thối,giòi bọ bò lổm ngổm,răng rời ra từng cái,tóc tơi tả bay rụng,da thịt thối rữa,hình dạng hết sức ghê tởm đáng sợ. Liên hoa sắc vô cùng kinh ngạc,nghĩ thầm:"Làm sao một người đang khỏe mạnh bỗng nhiên lại lăn ra chết như vậy?Mà sao một người đẹp tuyêt trần sau khi chết đều lại ghê tởm đến vậy?Huống chi là mình!" Dứt niệm,nàng vội vã quay lại hướng lên núi Linh Thứu,quyết chí cầu pháp nơi đức Phật. Liên hoa sắc tới tịnh xá của Phật,do đường dài lặn lội nên người vừa đói vừa khát,nhưng ở nơi đất khách quê người đường xá mịt mù,nàng không rõ đây chính là nơi đức Phật thuyết pháp,chỉ nhìn thấy có rất nhiều người,nàng ngỡ rằng có hội hè tụ tập,nhất định sẽ có thức ăn,nàng vội đi thẳng vào tịnh xá.Vừa gặp lúc đức Phật thuyết pháp khai thị,Liên hoa sắc nghe đức Phật tuyên thuyết về Khổ,Tập Diệt,Đạo trong tứ Thánh đế,lập tức chứng Pháp nhãn thanh tịnh,chứng nhập hàng bậc Thánh,bèn xin đức Phật cho nàng xuất gia.Đức Phật giao nàng cho Đại Ái Tỳ kheo Ni,giúp nàng tinh cần tu đạo.
Lúc bấy giờ Liên hoa sắc còn chưa xuất gia,do dung mạo đoan chính,nghi mạo siêu tuyệt được mọi người yêu mến.Một người con trai của vị Bà La Môn yêu thích Liên hoa sắc muốn cùng nàng giao hoan.Liên hoa sắc yêu cầu anh ta đưa 500 đồng tiền vàng,anh chàng nọ bảo:"Trên người tôi không có nhiều tiền như vậy".Liên hoa sắc yêu cầu anh ta về lấy đủ số tiền hãy quay lại. Không lâu,liên hoa sắc được ngài Mục Kiền liên hóa độ,thoát hết khỏi ái dục,chứng quả giải thoát A La Hán,thường xuyên đến nơi rừng vắng để trú trong thiền định lặng lẽ,hưởng sự an lạc của giải thoát. Còn người con trai của Bà La Môn kia khi gom đủ 500 đồng tiền vàng quay lại tìm Liên hoa sắc tỳ kheo ni,nghe tin nàng đã xuất gia,vẫn không chịu từ bỏ mục đích.Cầm tiền tới nơi rừng cây nàng hay tu hành,thấy Liên hoa sắc đang ngồi lặng lẽ dưới gốc cây bèn đến nói rõ ý muốn.Liên hoa sắc nói:"Con trai Bà La Môn!Loại ác pháp ấy ta đã xả bỏ,đối với sắc thân ta có vui vẻ gì mà ông sinh khởi dục nhiễm vậy?"
Con trai Bà La Môn đáp:"Tôi yêu nhất đôi mắt xinh đẹp của nàng!" Liên hoa sắc tỳ kheo ni vận dụng sức thần thông,móc cặp mắt của mình ra,máu chảy lênh láng,đặt trên bàn tay nói với chàng ta:"Giờ đây đối với đống thịt này ông còn yêu thích không?" Vị Bà La Môn nhìn thấy giận dữ mắng chửi:"Tên Sa môn nữ trọc đầu kia,sao lại hóa huyễn thuật như vậy để lừa ta!"Y dùng sức đánh vào đầu nàng một chặp rồi giận dữ bỏ đi. Liên hoa sắc ni đem chuyện này bẩm cáo với Ni sư,Ni sư lại bẩm cáo với Tỳ kheo,Tỳ kheo lại bẩm cáo đức Phật.Đức Phật nói với Tất Sô ni:"Ví như đống thịt này bỏ nơi ngã tư đường,hết thảy chim thú đều tụ tập tới,nữ nhân cũng vậy.Vì thế,các Tất Sô ni không nên ở nơi A Lan Nhã trong rừng". Rồi đó,các Tỳ kheo ni liền vào thành Thất La Phiệt,ngồi nơi đường lớn nhưng vẫn thường xuyên bị các ác nam tử và kẻ trộm gây phiền nhiễu,họ bẩm cáo lại với đức Phật,Phật dạy:"Phải lập tự viện cho Tỳ kheo ni".Đó chính là duyên khởi việc Tỳ kheo ni được trú trong tự viện chùa chiền.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3LAN ).TAM THANH.( MHDT ).23/4/2012.

Friday 20 April 2012

I. TRÌ PHẠM VÀ ĐẮC THẤT CỦA BỒ TÁT GIỚI
Đã thọ Bồ tát giới rồi, phải hiểu rõ vấn đề để trì phạm và đắc thất. Chỗ bất đồng lớn nhất của Bồ tát giới là Thanh văn (Tiểu thừa) giới có hai điểm: Một là đối tượng trì giới, hai là thời gian thọ trì.
Chương trước đã nói sơ lược, Bồ tát tuy trì một giới, công đức còn lớn hơn Tiểu thừa trì cụ túc giới, vì mỗi giới của Bồ tát là “Vô tận giới”. Trì một giới tức là ở trên phần của tất cả chúng sinh được công đức trì giới cũng vô tận; vì thế, sự lớn lao của công đức thọ trì Bồ tát giới không có pháp nào tỷ dụ được. Thế nên, Kinh Anh Lạc quyển hạ nói: “Pháp sư hay ở trong tất cả quốc độ giáo hóa một người xuất gia thọ Bồ tát giới, phước của Pháp sư này hơn tạo 8 vạn 4 ngàn tháp”.
Lại nói: “Người thọ giới này được vào trong số Bồ tát ở cõi chư Phật, vượt qua cái khổ ba kiếp sinh tử” Lại nói: “Có mà phạm, còn hơn không có không phạm. Có mà phạm gọi là Bồ tát, không có không phạm gọi là ngọai đạo”.
Đủ biết công đức giáo hóa người khác xuất gia thọ Bồ tát giới so với công đức tự mình thọ Bồ tát giới lại càng lớn hơn. Có người cho rằng thọ giới cố nhiên công đức rất lớn, tội lỗi của phạm giới cũng rất lớn, chỉ sợ thọ giới rồi mà không thể kiên trì giữ gìn cho không phạm, vì thế không dám thọ giới, nhưng ở đây đã nói rõ: “Có mà phạm còn hơn không có không phạm “Tại sao vậy? Đây là công đức tác dụng của Bồ tát giới, bởi vì trì giới là giữ gìn đối với tất cả chúng sinh. Tỷ như phạm giới sát sanh, giả sử mỗi ngày giết, lúc nào cũng giết, cũng không thể giết hết chúng sinh; giết một chúng sinh chỉ ở trên thân một chúng sinh đắc tội. Vì thế lại nói: “Có phạm gọi là Bồ tát, không phạm gọi là ngọai đạo. Lại gọi Bồ tát giới là “42 pháp Hiền thánh”, nghĩa là Bồ tát của 42 ngôi vị (30 Hiền vị thêm 12 Thánh vị ) là do thọ trì Bồ tát giới mà được. Vì thế Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc Vô thượng Bồ đề”. Kinh Phạm Võng nói: “Chúng Bồ tát nhiều như vi trần do giới này thành Chánh giác”.
Vấn đề thứ hai là thời gian thọ trì, Tiểu thừa giới có năm thứ nhân duyên xả, mất giới thể: 1. Mạng chung (chết), 2. Hai hình (bộ sinh dục nam nữ biến tánh), 3. Đọan thiện căn , 4. Tác pháp (đối với Tỳ kheo đồng pháp hiểu lời nói cho đến một người tục tuyên bố xả giới), 5. Phạm giới trọng (phạm 4 giới căn bản). Nhưng Bồ tát thì bất đồng. Bồ tát giới không phải là “suốt đời thọ trì “mà là tận vị lai tế thọ trì, vì thế mạng chung không xả giới. Bồ tát không cự tuyệt người tánh tội và biến tánh, vì thế, người hai hình không mất giới. Bồ tát giới chỉ có hai trường hợp mất giới: Một là phạm giới trọng, hai là cố ý xả Bồ đề tâm. Phạm giới trọng có hai lọai: Một là phá trọng giới, là do thượng phẩm phiền não triền phạm (như cố ý giết người), hai là ô trọng giới, là do trung phẩm phiền não triền phạm (như lầm giết người, không cố ý mà ngộ sát). Phá trọng giới thì mất Bồ tát giới, ô trọng giới còn có thể y pháp sám hối. Nói về thượng phẩm phiền não triền phạm, trong Luận Du già nói: “Nếu Bồ tát hủy phạm bốn pháp tha thắng xứ, luôn luôn hiện hành, không biết hổ thẹn, lại còn rất ưa thích, cho đó là công đức, phải biết đây gọi là thượng phẩm triền phạm”. Cố xả bỏ đại Bồ đề tâm tức là tuyên bố với người khác rằng: Tôi không làm Bồ tát nữa hoặc không tin có Bồ tát hạnh, hoặc cho rằng Đại thừa không hay bằng Tiểu thừa và không học pháp Đại thừa cho đến không tin Phật pháp mà tin ngọai đạo. Đây đều thành nhân duyên xả Bồ tát giới.
Ưu bà tắc Giới Kinh quyển 7 nói : “Xả giới có 6 lọai: 1. Lúc đọan thiện căn, 2. Lúc được 2 căn nam nữ, 3. Lúc xả thọ mạng (chết ), 4. Lúc thọ ác giới (như phát thệ làm chức nghiệp hung thủ), 5. Lúc xả giới, 6. Lúc xả thân Dục giới”. Nhưng chúng ta đã nói qua, Ưu bà tắc giới không thể xem là Bồ tát giới, vì thế nó có một cách nói riêng biệt.
Trên thực tế, Kinh Anh Lạc nói : “Bồ tát giới là có phạm không mất”. Sau khi đã thọ Bồ tát giới, đời đời cho đến thành Phật đều vĩnh viễn theo nhau, bởi vì giới thể là một thứ vô lậu sắc pháp (thể vật chất), không hình trạng, không biểu tượng. Sau khi nó được huân trên bản tánh lý thể của chúng ta, chỉ có thể bị ngăn che chứ không thể bị thất lạc. Nói phạm giới trọng thì mất giới là nói vì bị ngăn che của pháp ác mà mất đi công năng của giới thể, chứ không phải là giới thể trên bản tánh lý thể của chúng ta bị thất lạc, đây là điều cần phải hiểu rõ. Vì thế, Kinh Phạm Võng cho người phạm mười giới trọng ở trước tượng Phật sám hối tội lỗi, thấy hảo tướng được thọ giới lại. Kinh Anh Lạc nói thẳng: Mười giới trọng có phạm, không có sám hối, nhưng được cho thọ lại”. Du già cũng nói: “Từ thượng phẩm triền phạm pháp tha thắng xứ như trên, mất giới luật nghi, phải thọ lại”. Ở đây sở dĩ bảo “thọ lại” là nhờ sức Phật, Bồ tát bên ngoài dẫn phát giới thể đã được huân từ trước khiến cho khôi phục lại công năng của giới lực mà thôi.
Chính vì Bồ tát giới là tận vị lai tế thọ trì, nên sau khi chuyển sinh, đa số chúng sinh tuy không nhớ được mình đã tận thọ giới, dù công năng của giới đã ẩn mất, nhưng giới thể ấy vẫn tồn tại trong tánh thể, vì thế vẫn có thể gặp duyên mà “tăng ích thọ giới” (thọ giới nữa). Nếu như chuyển sinh mà không có duyên thọ lại cho đến cũng không nhớ mình đã từng thọ, công năng của giới thể này vẫn sẽ có cơ hội hiển hiện, chỗ gọi là thiện căn, thì đây cũng chính là một thứ thiện căn.
Nhưng Kinh Anh Lạc nói: “Giới thể của Bồ tát phàm thánh, đều lấy tâm thể, thế nên tâm tận thì giới cũng tận, tâm vô tận thì giới cũng vô tận”. Có người thấy thế bèn cho rằng: Giới thể là tâm pháp (tinh thần) mà không phải sắc pháp (vật chất). Sự thật không phải vậy, nói tâm tận và vô tận là chỉ bồ đề tâm, xả Bồ đề tâm là tâm tận, công năng giới thể cũng tận; phát đại Bồ đề tâm là tâm vô tận, công năng giới thể cũng vô tận . Cho nên tôi cho rằng: Phá trọng giới là giới thể của ta bị ngăn che, xả bỏ Bồ đề nguyện mới là đem vô lậu sắc pháp của giới thể xóa mất
II. PHÁP HỐI QUÁ CỦA BỒ TÁT
Phạm trọng giới, Kinh Anh Lạc nói: “Có phạm, không có hối” là không thể hối quá. Điều giới khinh thứ 41 của Kinh Phạm Võng nói: “Nếu phạm 10 giới trọng phải dạy sám hối: ở trước hình tượng Phật Bồ tát ngày đêm 6 thời tụng 10 giới trọng, 48 giới khinh, siêng năng khó nhọc, lễ lạy tam thế ngàn Phật cầu được thấy hảo tướng. Nếu 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày cho đến 1 năm phải thấy hảo tướng. Hảo tướng là thấy Phật đến xoa đầu, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các tướng lạ bèn đươc diệt tội”. Về Phạm giới khinh thì Kinh Phạm Võng nói: “Nếu phạm 48 giới khinh, đối thú sám hối tội diệt”.
Phương pháp sám hối giới trọng chỉ thấy một thứ như thế. Sám hối giới khinh, Phạm Võng chỉ nói: “Đối thú sám”. Anh Lạc cũng chỉ nói: “Được cho đối thú sám hối diệt tội” Còn làm thế nào để đối thú sám hối? Điều văn của Du già Giới Bổn có nói như sau:
“Nếu có vi phạm, phải đúng như pháp mau mau hối trừ để được thanh tịnh trở lại.
Như vậy, tất cả điều Bồ tát vi phạm phải biết đều thuộc về ác tác, phải hướng về Bổ đặc già la (hữu tình chúng sinh) có năng lực, dùng lời nói biểu đạt được nghĩa, hay giác, hay thọ Đại thừa, Tiểu thừa mà phát lồ sám hối diệt tội.
Nếu trung phẩm triền phạm pháp tha thắng xứ như trên, phải đối trước ba Bổ đặc già la, hoặc nhiều hơn số đó, phải làm như pháp phát lồ trừ ác, trước phải thuật lại việc đã phạm, và bạch như vầy :”Trưởng lão! Chuyên chí”; hoặc nói: “Đại đức! Con tên là…vi việt pháp Bồ tát Tỳ nại đa, như pháp thuật lại sự việc phạm tội ác tác. “Ngòai ra, như pháp Bí sô phát lồ sám hối diệt tội ác tác, cũng phải nói như vậy.
Nếu hạ phẩm triền phạm pháp tha thắng xứ như trên và những sự vi phạm khác phải phát lồ trước một Bồ đặc già la, pháp sám hối cũng giống như trước
Nếu không tùy thuận Bổ đặc già la để phát lồ hối trừ tội đã phạm, bây giờ Bồ tát đem tâm ý ưa thích thanh tịnh , khởi tâm tự thệ: Tôi sẽ quyết định phòng giữ đương lai không phạm lại nữa. Như vậy đối với tội phạm, được thanh tịnh trở lại”.
Căn cứ vào sự thuyết minh này và bộ Bồ tát Giới Thọ Tùy Cương Yếu Biểu của Đại sư Hoằng Nhất, pháp hối quá của Bồ tát có thể liệt vào biểu đồ như sau:
Bất luận giới trọng hay giới khinh, phạm giới đều có hai tội căn bản và phương tiện bất đồng. Căn bản là tội đã tọai, còn phương tiện là chuẩn bị hoặc tiến hành phạm giới mà chưa hòan thành sự thật phạm giới. Đối tượng của hối tội, tốt nhất là chúng Bồ tát thanh tịnh đồng pháp; nếu không có Bồ tát đối với Tiểu thừa Tỳ kheo sám hối cũng đươc. Sám pháp phân làm ba lọai :Một là đối với 4 người (Du già giới Bổn nói 3 người )hoặc 4 người trở lên sám. Hai là đối với một người sám. Ba là tự trách tâm sám .Những lời tác bạch đối với 4 người sám và 1 người sám đồng. Vì thế, lời tác bạch sám hối phân làm hai lọai: một là đối với người bạch sám, hai là tự một mình bạch sám.
1. Sám pháp đối người
Lúc sám phải đủ oai nghi, quỳ gối chấp tay bạch với người thọ sám:
Chư Đại đức nhất tâm niệm, con là…cố (nói tên giới đã phạm) phạm Ba la di tội.Nay hướng Đại đức phát lồ sám hối không dám làm nữa, xin Đại đức ức niệm cho con (nói 3 lần).
Sám hối chủ hoặc người thọ sám quở ttrách rằng: “Tự trách tâm ông, sinh nhàm lìa”.
Người sám đáp: Xin vâng.
2. Sám pháp trách tâm
Người sám phải đủ oai nghi, sinh tâm hổ thẹn, đối với chính mình tự bạch: “Con là…..cố (nói tên giới đã phạm) phạm Ba la di, khinh phương tiện (hoặc khinh cấu tội), con nay trách tâm hối quá”. (nói 1 lần).
Nếu có phạm giới phải tùy phạm tùy hối. Nếu như việc gấp hoặc số người không đủ, ở mỗi nửa tháng thuyết giới Bố tát cần phải sám hối cho thanh tịnh. Bằng không, có phạm bất tịnh mà nghe thuyết giới bèn thành tội phú tàng. (che giấu).
Thiện Giới Kinh nói: “Nếu Tỳ kheo phạm Ba dật đề không thẹn, không hối, nghe Bồ tát giới đắc tội Thâu lan giá. Nếu phạm Thâu lan giá không thẹn, không hối, nghe Bồ tát giới thì đắc tội Tăng tàn.
Nếu phạm Tăng tàn, không thẹn không hối, nghe Bồ tát giới thì đắc tội Ba la di. Đây là duyên cớ Bồ tát phú tàng, tội nặng hơn bổn tội. Đây là một lệ của Bồ tát giới nặng hơn Thanh văn giới, và đây cũng là một sự kiện mà người thọ Bồ tát giới không thể không biết.
III. THUYẾT GIỚI BỐ TÁT CỦA BỒ TÁT
Cuối đời Minh, Luật sư Hoằng Tán trong Phạm Võng Lược Sớ nói:
“Bồ tát không có pháp yết ma, lúc Bồ tát thọ giới cũng không có yết ma” Lại nói: “Bồ tát thuyết giới không gọi là thuyết giới yết ma, chỉ gọi là thuyết giới Bố tát”. Lại nói: “Người có tội chưa sám và người chưa thọ Bồ tát giới đều không cho cùng làm Bố tát”.
Pháp yết ma là một thứ pháp nghị sự riêng có của Thanh văn tăng, cũng là một thứ quỹ tắc Tăng đòan trụ trì, Phât pháp trụ thế. Bồ tát có trách nhiệm hóa độ thế gian, có trách nhiệm hộ trì Phật pháp mà ít có trách nhiệm chủ trì Phật giáo. Nếu như Bồ tát Tỳ kheo thì vẫn lấy thân phận Tỳ kheo trụ trì Phật giáo, chứ không phải thân phận Bồ tát trụ trì Phật giáo
Bố tát là dịch âm của Phạn ngữ: Posadha, có nghĩa là thanh tịnh tam nghiệp và trưởng dưỡng công đức còn có nghĩa là Tịnh trụ. Thuyết giới nửa tháng một lần Đại thừa, Tiểu thừa giống nhau, nhưng Tiểu thừa gọi là Yết ma, Đại thừa gọi là Bố tát.
Kinh Phạm Võng nói: “Phật bảo các Bồ tát rằng: Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới pháp chư Phật, các ông và tất cả Bồ tát phát tâm cũng tụng”. Lại nói: “Nếu người thọ Bồ tát giới không tụng giới này thì không phải là Bồ tát, không phải chủng tử Phật”.Điều giới khinh thứ 37 của Phạm Võng cũng nói: “Nếu ngày Bố tát, tân học Bồ tát mỗi nửa tháng Bố tát, lúc tụng 10 giới trọng 48 giới khinh phải ở trước hình tượng Phật, Bồ tát, một người Bố tát, một người tụng; nếu hai người, ba người cho đến trăm ngàn người cũng một người tụng. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp”. Điều giới khinh thứ 38 lại nói: “Phải ngồi thứ tự đúng như pháp, người thọ giới trước ngồi trước, người thọ giới sau ngồi sau”. Đây là nói tân học Bồ tát phải nửa tháng Bố tát, vì sám tội để thanh tịnh tam nghiệp, nhờ tụng giới mà trưởng dưỡng công đức. Nhưng đối với sự tụng giới không hạn cuộc nửa tháng một lần, có thể mỗi ngày tụng cho đến luôn luôn tụng, tối thiểu là nửa tháng tụng một lần, nếu không tụng thì “Không phải là Bồ tát, chẳng phải là chủng tử Phật”.
Veà pháp Bố tát của Bồ tát giới, đại khái đồng với thuyết giới yết ma của Thanh văn. Nếu đông người, vị Đương trị đánh bảng họp chúng, Duy na kiểm điểm số người, rồi bảo người chưa phát tâm Bồ tát, chưa thọ Bồ tát giới ra. Kế đó thỉnh Thượng tọa dâng hương, lên tòa .Kế tiếp hỏi có phạm, không phạm .có hối, không hối, rồi thỉnh người tụng rành rẽ, âm thanh rõ ràng lên tòa cao tụng giới. Nghi tiết đầy đủ có thể tham khảo pháp Bố tát ghi trong Thiên Thai Bố tát Giới Sớ quyển hạ của ngài Minh Khoáng. Nếu như một người tụng, Bồ tát xuất gia phải đắp 3 y cà-sa cửu điều, thất điều, ngũ điều. Sau khi ở trước Phật dâng hương lễ bái xong, quỳ gối trước Phật để tụng, hoặc ngồi tụng , đây là việc rất dễ làm.
Đối với vấn đề tụng giới của Bồ tát Tỳ kheo và Bồ tát tại gia, trong Giới Sớ của Ngài Nghĩa Tịch có nói: “Bồ tát Tăng Ni nửa tháng phải hai bên Bố tát tụng hai bổn Đại, Tiểu; không tụng phạm tội khinh cấu, Bồ tát tại gia nếu trong nhà có tịnh thất nửa tháng phải tự tụng. Nếu không có tịnh thất, mà trong 1 do tuần (10 km đến 15 km) có tự viện, tịnh xá làm Bồ tát Bố tát phải qua nghe, nếu không đi nghe, phạm khinh cấu .Nếu trong nhà huyên náo và trong 1 do tuần không có Bồ tát Bố tát tập hội thì không phạm”.
Thiên này viết đến đây là kết thúc, do tài hèn sức kém, tuy viết hơn 4 vạn chữ mà vẫn chưa trình bày được hết nội dung của Bồ tát giới. Chúng tôi chỉ mong độc giả đọc xong thiên này có một khái niệm tổng quát về Bồ tát giới.
Ở Trung Quốc chú sớ nhiều đời nghiên cứu về Bồ tát giới phần đông lấy Phạm Võng Kinh Giới Bổn làm chủ yếu, hiện còn Phạm Võng Chú Sớ trong Đại Chánh Tạng và Tục Tạng chữ Vạn có ước chừng 20 loại, độc giả nếu thích có thể căn cứ vào kết cấu bố cục của thiên sách này chỉ dẫn để tự nghiên cứu thêm.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).21/4/2012.
I. CHỦNG LOẠI CỦA SỰ THỌ BỒ TÁT GIỚI
Căn cứ vào Kinh Anh Lạc quyển hạ nói: “Thọ giới có ba thứ: một là ở trước Phật. Bồ Tát hiện tại đắc chân thật thượng phẩm giới. Hai là sau khi Phật, Bồ Tát diệt độ, trong vòng ngàn dặm có người đã thọ giới Bồ Tát, thỉnh người ấy làm Giới sư truyền giới cho mình, trước hết phải đảnh lễ và thưa như sau: “Thỉnh Đại Tôn giả làm thầy truyền giới cho con”. Người đệ tử ấy được chánh pháp giới là trung phẩm giới. Ba là sau Phật diệt độ, lúc trong vòng ngàn dặm không có Pháp sư, phải ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát quỳ gối chắp tay tự thệ thọ giới là hạ phẩm giới”.
Căn cứ vào điều giới khinh thứ 23 của Phạm Võng nói: “Sau Phật diệt độ, người hảo tâm muốn thọ Bồ Tát giới ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát tự thệ thọ giới, phải ở trước Phật sám hối 7 ngày, thấy hảo tướng thì đắc giới.Nếu không được thấy hảo tướng thì phải sám hối 21 ngày đến một năm, cho đến khi thấy hảo tướng rồi mới ở trước tượng Phật, Bồ Tát thọ giới. Nếu không thấy được hảo tướng thì tuy trước tượng Phật thọ giới cũng không đắc giới. Nếu hiện tiền ở trước vị Pháp sư đã thọ Bồ Tát giới, không cần phải thấy hảo tướng. Vì cớ sao? Vì Pháp sư này, sư truyền thọ,vì sinh tâm kính trọng nên đắc giới. Nếu trong ngàn dặm không có thọ giới sư thì trước hình tượng Phật, Bồ Tát thọ giới, nhưng cần phải thấy hảo tướng”.
Tổng hợp các điều của Anh lạc, Phạm Võng điểm đại đồng mà có tiểu dị. Anh Lạc nêu ra ba thứ pháp thọ giới: Từ Phật hiện tiền thọ, là thượng phẩm; sau Phật diệt độ từ thầy thọ, là trung phẩm; không thầy tự thọ, là hạ phẩm. Phạm Võng tuy chưa đề cập từ Phật hiện tiền thọ, nhưng chỉ biểu thị rõ ràng “Sau Phật diệt độ” có hai cách: ở trước thầy thọ và tự thệ thọ. Thật ra cũng ám chỉ một phương pháp ở thời Phật hiện tiền thọ. Nhưng trong Anh Lạc, tự thệ thọ chưa nói tới cần phải thấy hảo tướng mới đắc giới, bằng không, thì không đắc giới.
Đây cũng là một vấn đề làm cho các vị Cổ đức cảm thấy cần phải tìm cách giải thích. Nhưng tự thệ thọ giớicần hay không cần phải thấy được hảo tướng, cuối đời Minh, Đại sư Ngẫu Ích trong bộ Tỳ Ni Hậu Tập Vấn Biện có một giải thích chiết trung, Ngài nói: “người cầu giới nên tự xét, nếu có thể niệm cùng bi trí tương ứng, trên gánh vác Chánh pháp, dưới thương xót chúng sinh, thì có thể tuân theo Anh Lạc, Địa Trì, giả sử không gặp thầy, phải cầu hảo tướng. Nếu hiện có minh sư, tâm lại kiêu mạn không theo minh sư cầu thọ giới, lại hướng về hình tượng Phật, Bồ Tát cầu đây là điều mà hai Kinh Anh Lạc, Phạm Võng không cho, ngũ hối (là pháp sám hối do Đại sư Trí Giả lập ra gồm 5 mục: 1. Sám hối, 2. Khuyến thỉnh, 3. Tùy hỷ, 4. Hồi hướng, 5. Phát nguyện) trọn không thành công.
Căn cứ vào Giới Sớ của Đại sư Trí Giả, đem phương pháp thọ giới phân làm ba loại:
1. Đối chư Phật thọ giới, có 2 thứ:
a- Chân Phật: Như Diệu Hải Vương và ngàn người con từ Xá Na Phật thọ Bồ Tát giới.
b- Tượng Phật: Như tượng Phật bằng vàng đồng, gỗ, đá, đất, hoa v.v… trong ngàn dặm không có thầy,được hướng về tượng Phật cầu dược thấy hảo tướng để tự thệ thọ giới.
2. Đối thánh nhân thọ giới, cũng có hai thứ:
a- Chân Thánh: Thập địa Bồ Tát và Đẳng giác Đại sĩ lúc hiện tiền có thể đối với các Ngài là duyên phát giới.
b- Tượng Thánh: Tức hình tượng Bồ Tát; nếu chỉ dùng hình tượng Bồ Tát e thành ra cái lỗi khinh thường. Kinh Địa Trì chỉ nói tượng Phật, chưa nói tượng Bồ Tát; trong Kinh Phạm Võng, Anh Lạc nói: Phật, Bồ Tát là ý nói bên Phật có Bồ Tát.
3. Đối phàm phu Pháp sư thọ giới
Sau khi Phật diệt độ, nếu người muốn cầu thọ Bồ Tát giới, tuy có hai pháp thức: Từ thầy thọ và tự thệ thọ, nhưng thật ra lấy từ thầy thọ giới làm chính, làm gốc. Tự thệ thọ giới là một pháp phương tiện bất đắc dĩ.Nếu như không coi ai ra gì, cho rằng không có người nào đủ tư cách làm Giới sư cho mình mà tự thệ ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát thọ, thì rất khó đắc giới.
Nay đem chủng loại của sự thọ Bồ Tát giới liệt vào biểu đồ sau:
Bồ Tát giới cũng giống như ngũ giới có thể thọ toàn bộ hay tùy phần. Điều này xuất xứ từ trong Kinh Anh Lạc quyển ha. Có người thọ 1 giới gọi là nhất phần Bồ Tát,cho đến 2 phần, 3 phần, 4 phần, 10 phần gọi là Cụ túc thọ giới. Điều này trong Thái Hiền Phạm Võng Cổ Tích Ký quyển hạ nói rõ hơn: “Một phần thọ, tùy theo ý thích của người thọ lãnh nhận được hoặc thọ một giới hoặc nhiều đều được thành giới, gọi là Bồ Tát. Còn giới Thanh văn, bắt buộc thọ trì tất cả, nếu thọ một phần không dược gọi là Tỳ Kheo, nghĩa là nếu muốn hiện thời đắc A la hán viên mãn quỹ tắc, kiến lập học xứ, thì phải thọ đủ thập giới và Cụ túc giới. Bồ Tát không như vậy, nghĩa là không phải hiện đời thành Phật, vì phải trải qua vô số đại kiếp tu hành. Tuy chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư, chỉ thọ một giới còn hơn tất cả công đức của Nhị thừa. Công đức của La hán chỉ vì tự thân, đối với hữu tình không có ân phần. Một giới Bồ Tát vì độ tất cả chúng sinh, không một chúng sinh nào không mang ân”. Đây là đạo lý đối với tùy phần thọ trì Bồ Tát giới đã rõ ràng rồi. Công đức của Bồ Tát là từ phần của tất cả chúng sinh mà được, như trì một giới sát thì ở trong phần tất cả chúng sinh đều được công đức của bất sát, thế nên công đức lớn. Tiểu thừa giới chỉ vì tự thân chẳng thọ sinh tử, chỉ nghĩ đến sinh tử của chính mình, chứ không phải nghĩ vì chúng sinh, cho nên công đức nhỏ. Thành Phật là một sự nghiệp vĩ đại của nhiều kiếp, Bồ Tát đạo là nhân thành Phật, thế nên Bồ Tát không cần hiện đời thành Phật, tùy phần thọ giới không có quan hệ. La hán có thể hiện đời tu chứng, do đó không thể tùy phần thọ giới. Đương nhiên Bồ Tát giới hoan nghinh chúng sinh mãn phần thọ giới, mãn phần thọ là thọ hết tất cả giới pháp của Tam tụ tịnh giới.
II. PHÁP TỰ THỆ THỌ GIỚI
Trong Bồ Tát Giới Thọ Tuỳ Cương Yếu Biểu của Đại sư Hoằng Nhất nói: “Văn tự thệ thọ giới thấy trong Luận Du Già sư địa, Phạm Võng cần phải thấy hảo tướng. Nếu y theo Kinh Chiêm Sát Bổn Nghiệp và Luận Du Già là có thể thọ ngay”. Về vấn đề cần thấy hảo tướng hay không, đã thảo luận ở tiết trên.
Tự thệ thọ giới, phương pháp thọ như thế nào? Nay đem “Bồ Tát Anh Lạc Tự Thệ Bồ Tát Ngũ Trọng Giới Pháp” do Đại sư Hoằng Nhất y kinh soạn ra, tôi xin chép ra đây để cùng tham khảo.
1. Lễ kính Tam Bảo
(Nhất tâm kính lễ, quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Phật.
(Nhất tâm kính lễ, vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Phật.
(Nhất tâm kính lễ, hiện tại tế tận hiện tại thế nhất thiết Phật.
(Nhất tâm kính lễ, quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Pháp.
(Nhất tâm kính lễ, vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Pháp.
(Nhất tâm kính lễ, hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết Pháp.
(Nhất tâm kính lễ, quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Tăng.
(Nhất tâm kính lễ, vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Tăng.
(Nhất tâm kính lễ, hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết Tăng.
2. Thọ tứ y
Từ nay đến tận vị lai tế thân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y Pháp giới (nói 3 lần).
3. Hối tội
(Nếu hiện tại, thân, miệng, ý tội thập ác nguyện tuyệt đối không phạm, tận vị lai tế.
(Nếu vị lai, thân, miệng, ý tội thập ác nguyện tuyệt đối không phạm, tận vị lai tế.
(Nếu quá khứ, thân, miệng, ý tội thập ác nguyện tuyệt đối không phạm, tận vị lai tế.
Sám hối như vậy rồi, ba nghiệp thanh tịnh như lưu ly trong ngoài chiếu sáng (nói 3 lần).
(Phát tứ hoằng thệ nguyện)
4. Tự thệ thọ giới
“Con là …bạch thập phương Phật và đại địa Bồ Tát,con học Bồ Tát ngũ trọng giới (nói 3 lần).
5. Nói giới tướng
(Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng này, không được cố sát sinh. Nếu có phạm, không phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh; không được phạm, trì được không?
Được. (Tự đáp)
(Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian này không được cố vọng ngữ. Nếu có phạm, không phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh, không được phạm, trì được không?
Được. (tự đáp)
(Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng này không được cố dâm. Nếu có phạm, không phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh, không được phạm, trì được không?
(tự đáp): Được.
(Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng này không được cố bán rượu. Nếu có phạm, chẳng phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh, không được phạm, trì được không ?
(tự đáp) : Được.
1. Tán thán giới đức.
Thọ giới rồi vượt qua tứ ma, thoát cái khổ tam giới, đời đời không mất giới này, thường theo người hành trì cho đến thành Phật.
(Hồi hướng)
Một pháp tự thệ thọ giới này của Đại sư Hoằng Nhất có thể là do sự tham khảo pháp thọ giới Bồ Tát của Đại sư Ngẫu Ích chiếu theo các Kinh Phạm Võng, Anh Lạc, Địa Trì trùng định mà ra, nhân vì phương thức biên đính của hai pháp thọ giới này đại thể tương đồng, chỉ khác ở tường tận hay sơ lược, và Đại sư Hoằng Nhất lấy tài liệu của Kinh Anh Lạc làm chủ yếu.
III. PHÁP NƯƠNG THEO THẦY THỌ GIỚI
Nghi quỹ nương theo Bồ Tát Pháp sư thọ giới, từ ngài Tam Tạng La Thập và ngài Đàm Vô Sấm đến nay, các nhà tham khảo tổng hợp biên đính hơn 10 loại. Trong Giới Sớ của Đại sư Trí Giả đã nêu ra 6 loại : Phạm Võng, Địa Trì, Cao Xương, Anh Lạc, Tân Soạn, Chế Chỉ, ngoài ra còn có bổn của Pháp sư Huyền Sướng chưa liệt vào trong 6 loại này. Về sau lại có Pháp sư Nghĩa Tịch, Luật sư Linh Chi Kiến Nguyệt, Đại sư Ngẫu Ích đều có biên đính. Đến ngày nay, gần đây có Pháp sư Tục Minh biên đính một pháp thọ giới. Pháp sư Tục Minh rất suy tôn pháp thọ giới của Đại sư Ngẫu Ích, Ngài nói :”Nghi quỹ truyền Bồ Tát giới nhiều đời biên đính, thấy lưu hành đến đời nay được hơn 10 loại, đại để đều lấy các Kinh Anh Lạc, Phạm Võng, Du Già Giới Phẩm và Bổn cổ Cao Xương tổng hợp thành. Bồ Tát Giới Sớ của Thiên Thai đưa ra 12 môn, Đại sư Trạm Nhiên có “Thọ Bồ Tát Giới Nghi” thứ lớp hoàn toàn đồng, văn cú hơi khác. Đại sư Ngẫu Ích có “Trùng Định Thọ Bồ Tát Giới Pháp” ghi trong bộ Luật Yếu Hậu Tập, đáng được xem là giản dị, vừa chừng, được lưu hành nhưng không phổ biến, thật ít thấy nghe” (xem Giới Học Thuật Yếu).
Nhưng trong Bồ Tát Giới Thọ Tùy Cương Yếu Biểu nói : “Các Sư nêu ra nghi quỹ bất đồng, Nghi quỹ của Luật sư Linh Chi soạn là hay và hoàn bị hơn hết, được ghi chép trong Chi Uyển Di Biên”.
Bút giả tự xét không cao minh bằng Cổ đức và chư hiền đồng thời, nên không dám biên đính một pháp thọ Bồ Tát giới mới. Tuy nhiên, luận theo chỗ cần thiết, pháp thọ giới viết bằng văn ngôn không hợp với sự vận dụng của người thời nay. Bởi vì nội dung của văn ngôn trong khi thọ giới không dễ gì nghe qua một lần mà hiểu, nên thọ giới cũng không được đắc giới. Nhưng tôi vẫn dám hạ bút biên đính nghi quỹ thọ giới theo văn ngữ thể. Do đó chỉ giới thiệu cho độc giả xem pháp thọ giới được người tôn sùng để cùng tham khảo và vận dụng.
1. Truyền Thọ Bồ Tát Giới Chánh Phạm
Bộ này do Luật sư Kiến Nguyệt cuối đời Minh biên đính. Ngài nói trong văn Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp và Di Lặc Bồ Tát Sở Thuyết Bồ Tát Giới Yết Ma đều nói, cho nên nay hội hợp thêm vào nghi quỹ để tuân hành có căn cứ. Chỉ vì bộ này hành văn quá dài, quá nhiều, cho nên đây là một thứ nghi quỹ dùng thích hợp cho giới tràng lớn thọ giới tập thể, cũng là một loại pháp thọ giới lưu thông rất rộng trong thời gian gần đây. Vì văn nghĩa quá dài, ở đây chỉ ghi lại môn loại của nó như sau:
1. Phu tòa kết đàn giới.
2. Pháp thỉnh sư nhập đàn.
3. Pháp lễ kính Tam Bảo.
4. Pháp chánh thỉnh sư.
5. Pháp khai đạo giới.
6. Pháp thỉnh Thánh.
7. Thọ tứ bất hoại tín.
8. Pháp sám hối quá.
9. Pháp phát nguyện.
10. Pháp phát giới thể.
11. Pháp duyên giới tướng.
12. Kết tán hồi tướng.
2. Thọ Đại Thừa Bồ Tát Giới Nghi
Đây là loại nghi quỹ được Đại sư Hoằng Nhất khen là “hay đẹp và hoàn bị hơn hết”. Bộ này do luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu soạn, được thu thập vào Chi Uyển Di Biên quyển 2. Trước nghi quỹ thọ giới có chừng hai ngàn chữ thuyết minh phân biệt khai thị về nguyên do và chủng loại của Bồ Tát giới và nói về ý nghĩa của giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng. Về nội dung của nghi quỹ thọ giới, chưa đem giới tướng của 48 giới kinh vào, so với Truyền Giới Chánh Phạm là thiếu, nhưng trừ điều văn của 10 giới trọng đã liệt ra, giới khinh chỉ nói sơ lược ba điều : một là giới uống rượu, hai là giới ăn thịt, ba là giới ăn ngũ tân. Đây cũng có thể thấy duyên cớ Luật sư Linh Chi đặc biệt coi trọng ba điều giới khinh có quan hệ đến sự ăn uống này.
Theo tôi thấy, nọi dung bộ nghi quỹ của Luật sư Linh Chi biên đính đích xác là rất “hay đẹp và hoàn bị”. Văn tự giản dị, nôi dung đầy đủ, gần như đem các thứ yếu nghĩa và nghi tiết của Bồ Tát giới bao quát hết vào trong. Chỗ bất đồng lớn của nghi quỹ này với Truyền Giới Chánh Phạm là sự phô bày giới tràng đã có thể dùng cho nhiều người đồng thọ, cũng có thể dùng cho một người thọ. Đối với nhân số Giới sư cũng chủ trương chỉ thỉnh một vị A xà lê giáo giới thôi. Truyền Giới Chánh Phạm đồng như Tỳ kheo giới, phải thỉnh Tam sư đăng đàn, ở giữa là Bồ Tát Pháp sư, hai bên là 2 vị A xà lê, đây là căn cứ theo Phổ Hiền Quán Kinh. Vì thế, nghi quỹ của Luật sư Linh Chi không có thiết trí hình thức lớn lao. Còn có một điểm bất đồng nữa là Truyền Giới Chánh Phạm liệt kê 12 môn, Luật sư Linh Chi chỉ nêu ra 10 môn. Vì nội dung quá nhiều ở đây chỉ giới thiệu cương mục của 10 môn:
1. Cầu sư truyền pháp.
2. Thỉnh Thánh chứng minh.
3. Cầu Phật gia hộ.
4. Sách đạo khuyến tín.
5. Phát lồ sám hối.
6. Thỉnh sư cầu xin giới.
7. Lập thệ hỏi giá nạn.
8. Gia pháp nạp thể.
9. Thuyết tướng thị giới.
10.Thán đức phát nguyện.
3. Trùng Định Thọ Bồ Tát Giới Pháp.
Đây là pháp thọ giới Bồ Tát do Đại sư Ngẫu Ích biên đính, nội dung giản đơn mà thiết yếu, đáng tiếc là ít được lưu thông, lại ít có người ứng dụng, cho nên tôi đem toàn văn sao lục như sau để truyền bá rộng và ước mong có người ứng dụng. Nghi quỹ này đối với xã hội ngày nay thì tiếc kiệm được thời gian mà lại thọ giới đúng như pháp, thật là điều rất quý! Dưới đây là nguyên văn, phần trong dấu ngoặc là lời bạch của nghi quỹ, nguyên bản không có dấu ngoặc, dùng chữ nhỏ để chú, hiện tại vì phương tiện ấn loát nên đổi lại cùng dấu ngoặc, mong độc giả thông hiểu.
(Nếu các Bồ Tát muốn học Bồ Tát Tam tụ tịnh giới, hoặc tại gia, hoặc xuất gia trước hết đối với Vô thượng Bồ đề phát hoằng nguyện rồi, xét kỹ cầu Bồ Tát Pháp Sư công đức đầy đủ, có trí, có lực, trước lễ thầy, trịch áo bày vai hữu, quỳ gối chấp tay cung kính,thỉnh như sau):
(Đại đức ức niệm, con là …ở chỗ Đại đức xin thọ tất cả tịnh giới Bồ Tát, duy trong chốc lát không từ lao nhọc xót thương cho con được thọ (nói 3 lần).
(Đã thỉnh sư rồi, đi đến trước tượng đốt hương thành kính, hoặc thanh chúng cử bài Hương tán, hương tán xong nhất tâm cung kính, hướng thập phương Tam bảo chí thành lễ bái):
(Nhất tâm đảnh lễ quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết chư Phật.
(Nhất tâm đảnh lễ vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết chư Phật.
(Nhất tâm đảnh lễ hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết chư Phật.
(Nhất tâm đảnh lễ quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết tôn Pháp.
(Nhất tâm đảnh lễ vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết tôn Pháp.
(Nhất tâm đảnh lễ hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết tôn Pháp.
(Nhất tâm đảnh lễ quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Hiền thánh.
(Nhất tâm đảnh lễ vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Hiền thánh.
(Nhất tâm đảnh lễ hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết Hiền thánh.
(Mỗi câu lạy một lạy, kế đến lại khiêm hạ cung kính, quỳ gối đối trước tượng Phật, chắp tay thỉnh sư):
(Duy nguyện Đại Đức xót thương truyền cho con tịnh giới Bồ Tát.
(Thỉnh rồi chuyên niệm một cảnh, trưởng dưỡng tịnh tâm, suy nghĩ như vầy: Tôi nghĩ chẳng bao lâu sẽ đắc vô tận vô lượng đại công đức tạng. Bấy giờ, Giới sư phải hỏi rằng):
(Thiện nam tử lắng nghe: Ông phải là Bồ Tát không?
Đáp: Phải.
(Phát bồ đề nguyện không?
Đáp: Đã phát.
(Thiện nam tử lắng nghe! Các ông nay muốn ở chỗ ta thọ chư Bồ Tát tất cả học xứ, thọ chư Bồ Tát tất cả tịnh giới, nghĩa là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới. Học xứ như thế, quá khứ tất cả Bồ Tát đã đủ, vị lai tất cả Bồ Tát sẽ đủ, khắp mười phương hiện tại tất cả Bồ Tát hiện đang đủ.
Đối với học xứ này, đối với tịnh giới này, quá khứ tất cả Bồ Tát sẽ học, khắp 10 phương hiện tại tất cả Bồ Tát đang học, ông thọ được không ?
Đáp: Thọ được
(Ba lần hỏi đáp như vậy xong, kế đó phải nói)
(Phật tử phải thọ tứ bất hoại tín.
(Từ đây trở xuống, ba tiết: Quy y, hối quá, phát nguyện đều phải tự nói. Nếu không tự nói được, Sư phải dạy nói):
(Từ nay cho đến tận vị lai tế, thân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy chánh pháp giới (nói 3 lần).
Phật tử! kế đây phải sám hối tam thế tội :
(Nếu quá khứ, thân, miệng, ý, tội thập ác, nguyện cứu cánh không khởi, tận vị lai tế.
(Nếu hiện tại thân, miệng, ý, tội thập ác, nguyện cứu cánh không khởi, tận vị lai tế.
(Nếu vị lai, thân, miệng, ý, tội thập ác, nguyện cứu cánh không khởi, tận vị lai tế.
(nói 3 lần)
Phật tử! Hối quá như thế rồi, ba nghiệp thanh tịnh như tịnh lưu ly trong ngoài chiếu sáng. Kế đó phát tứ hoằng thệ nguyện:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô thượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
(nói 3 lần)
Phaät tử đã phát tứ hoằng thệ nguyện xong, tôi sẽ vì ông bạch ba phen chứng minh thọ giới. Ông nên nhất tâm lắng nghe và tác ý tư duy. Phải biết: Bạch lần đầu xong, mười phương thế giới diệu thiện giới pháp do tâm nghiệp lực thảy đều chấn động. Bạch lần thứ hai xong, mười phương thế giới diệu thiện giới pháp như mây như lọng phủ che trên đảnh ông. Bạch lần thứ ba xong, mười phương thế giới diệu thiện giới pháp từ đảnh môn của ông chảy vào thân tâm sung mãn chánh báo, tận vị lai tế hằng làm Phật chủng. Đây là vô tác giới thể, vô lậu sắc pháp, do thiện tâm tăng thượng của ông cảm được, thế nên ông phải chí thành đảnh thọ.
(Bấy giờ người thọ giới quỳ gối như cũ. Giới sư đứng dậy đối trước tượng Phật,cung kính cúng dường khắp 10 phương hiện tại Tam Bảo, đảnh lễ chắp tay bạch như vầy):
( Ngưỡng khải thập phương vô biên vô tế. Phật Bồ Tát trong các thế giới. Nay trong đây hiện có Bồ tát… ở chỗ Bồ tát tôi nói 3 lần thọ Bồ tát giới, tôi vì làm chứng. Duy nguyện thập phương vô biên vô tế chư Phật Bồ tát trong các thế giới là bậc chân thánh đệ nhất, hiện hoặc không hiện thân bậc Giác ngộ ở chỗ tôi đây tác chứng cho việc thọ giới Bồ tát ( nói 3 lần )
(Kế đó Giới sư ngồi lại tòa nói giới tướng của thập trọng và khuyên trì):
Thiện nam tử lắng nghe! Bồ tát có 10 vô tận giới, nếu có phạm, chẳng phải hạnh Bồ tát, mất 42 pháp Hiền thánh, ông nên thọ trì:
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố sát sinh, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố trộm cướp, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố dâm, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố vọng ngữ, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cốbán rượu, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố nói lỗi của Bồ tát tại gia, xuất gia, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố tự khen mình chê người, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố xan tham, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố giận hờn, trì được không?
Đáp: được
§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố phi báng Tam bảo, trì được không?
Đáp: được
§ Phật tử! Thọ 10 vô tận giới rồi, người thọ giới vượt qua tứ ma, thoát khổ tam giới, đời đời không mất giới này, giới này thường theo người hành trì cho đến thành Phật. Phải biết tịnh giới này của Bồ tát đã thọ là tối thắng vô thượng, vô lượng vô biên đại công đức tạng đi theo, đệ nhất tối thượng thiện tâm ý lạc phát khởi, hay trừ diệt hết thảy các ác hạnh của tất cả hữu tình; tất cả biệt giải thoát luật nghi đối với Bồ tát luật nghi giới này trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một số phần, kế phần, tóan phần, dụ phần, cho đến ô ba ni sát đàm phần (dịch là cận thiểu, nghĩa là vi trần, là phần cận thiểu của sắc) cũng chẳng bằng một, vì nhiếp thọ tất cả đại công đức.
(Người truyền và thọ Bồ tát giới đều đứng dậy và đảnh lễ thập phương Tam bảo, thanh chúng đồng tụng):
Thọ giới công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Nguyện khắp các chúng sinh chìm đắm
Chóng qua cõi Phật Vô Lượng Quang
Thập phương tam thế hết thảy Phật
Tất cả Bồ tát Ma ha tát
Ma ha Bát nhã Ba la mật
( Lễ Tam bảo xong , người thọ giới Bồ tát phải lễ tạ Giới sư và chư đại chúng rồi cung kính lui ra )


LỜI BẠT

Xét thấy Tỳ kheo thọ giới, Luật có định pháp thức năm bộ tuy khác, nhưng phần lớn đồng, chỉ có chút phần nhỏ khác, cho nên phải chuyên tuân theo bộ Tứ Phần, bỏ bớt phần rườm rà. Pháp thọ Bồ tát giới, kinh luận đều riêng khác Phạm Võng, Anh Lạc, Địa Trì, Thiện Giới, và Tâm Địa Quán tùy theo trường hợp riêng biệt, tân tường hay sơ lược khác nhau. Thế nên chế chỉ, giáo hành v.v.. mỗi lọai giữ ý riêng của mình, lập theo khoa điều, tuy văn từ đẹp đẽ, ý nghĩa tinh tường, nhưng hoặc nghĩa vì văn mà ẩn, nên không thẳng tắt bằng kinh luận. Ngày nay, pháp thọ giới của Phạm Võng đã thất truyền, chỉ cón bóng dáng sơ sài. Duy có Địa Trì, Anh Lạc là y nguyên. Tôi châm chước ba bộ hội thành một pháp thức khiến cho rõ ràng, giản dị, để người truyền, người thọ đều được dễ dàng, khỏi vướng phải cái lỗi rườm rà.
Trên đây là toàn văn của pháp thọ Bồ tát giới do Đại sư Ngẫu Ích trùng định. Vì tôi nhận thấy đây là một loại nghi quỹ rất thiết yếu trong số những nghi quỹ thọ giới Bồ tát do Cổ đức biên định nên tôi không ngại nhọc mà sao lục tòan bộ ra đây đồng thời vì muốn độc giả hiểu rõ điểm xuất phát và mục đích của sự biên đính kia, nên tôi cũng sao lục cả lời bạt sau văn thọ giới.
Sau cùng tôi muốn giới thiệu một lọai pháp thọ Bồ tát giới của người gần đây do Pháp sư Tục Minh biên đính cũng giản đơn, thiết yếu. Pháp thọ giới của Đại sư Ngẫu Ích còn có khuyết điểm là chưa có liệt vào một môn“Vấn giá nạn”, nên chỉ có cái thiện của cảm giới mà không hỏi cái ác của chướng giới, trừ phi việc ấy trước đã phạm tội thất nghịch; bằng không thì không thể được. Trong pháp thọ giới của Pháp sư Tục Minh biên đính tất cả phân làm 12 môn, “Vấn giá nạn” là một môn trong số ấy. Đây là điều đáng nhận lấy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).21/4/2012.
I. KHỞI NGUYÊN CỦA GIỚI PHÁP BỒ TÁT
Kinh Phạm Võng là nhân Phật vì Diệu Hải Vương và một ngàn người Vương tử thọ giới pháp Bồ Tát mà ra. Đây là pháp thọ giới Bồ Tát trước nhất. Chúng ta ở nhân gian có giới bổn này là do Bồ Tát Xá Na, sau khi tu hành giới này rồi thành Phật ở trong thế giới Liên Hoa Đài Tạng; vì muốn lợi lạc tất cả chúng sanh nên chính mình đem giới bổn tụng ra truyền thọ cho Hóa thân Phật. Đức Thế Tôn Thích Ca xuất hiện ở địa cầu này là một trong thiên bá ức Hóa thân Phật của Xá Na, do Hóa thân Phật tùy theo cơ nghi chúng sinh ở thế giới này phương tiện tụng ra.
Tại Ấn Độ, Bồ tát bắt đầu thọ giới từ lúc nào và cách thọ như thế nào, không làm sao tra cứu được! Theo truyền thuyết, Đức Thích Ca truyền cho Ngài Di Lặc, Ngài Di Lặc truyền xuống cho hơn 20 vị Bồ tát lần lượt truyền nhau, rồi do pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc. Pháp truyền thọ Bồ tát giới ở Trung Quốc gồm có hai dòng chính:
- Dòng thứ nhất là Phạm Võng Bồ Tát Giới của Ngài Cưu Ma La Thập, song chỉ tụng ra hai quyền (?),đương thời hơn 800 người như Sa môn Huệ Dung, ĐạoTường v.v… thỉnh pháp sư La Thập truyền thọ Bồ tát giới. Kinh này là Kinh sau rốt trong số các Kinh luật do Ngài La Thập dịch.Ngài tụng kinh này ra, Đạo Dung v.v…bút thọ, không giống như sự phiên dịch các kinh luận khác của Ngài là:”Ngài tay cầm quyển chữ Phạn, miệng dịch kinh văn”.Chính vì không có bổn chữ Phạn mà chỉ do Ngài La Thập tụng, để tự bút thọ ,nên khiến cho người đời nghi là kinh ngụy tạo. Kinh này sau khi tụng ra chưa kịp tu đính .nhuận sắc và hoằng dương,thì Ngài La Thập qua đời.Toàn bộ nghi thức truyền thọ Bồ Tát giới đương thời đã sớm thất lạc, cho nên cũng rất khó khảo cứu tân tường.
- Về Đại Bổn của Kinh Phạm Võng chưa được truyền đến Trung Quốc,trải qua nhiều đời có tương truyền một sự tích.Theo truyền thuyết,lúc Ngài Tam Tạng Chân Đế từ Ấn Độ sang Trung Quốc có mang theo bổn Phạn văn của một bộ Đại Bổn Phạm Võng,nhưng thuyền đi trên biển Nam Hải chở nặng quá muốn chìm, Ngài ném bớt đồ trên thuyền xuống mà thuyền vẫn còn muốn chìm,sau cùng Ngài phải ném bộ Phạm Võng Bồ Tát Luật Bổn thuyền mới nổi lên và tiếp tục hành trình. Nhân đây Ngài than: “Đất Hán không có duyên với Bồ Tát giới luật, thật đáng buồn!”. Đây cũng là một vấn đề của Phạm Võng Giới Bổn, thực hư như thế nào không dược biết!
- N hưng pháp truyền thọ của Phạm Võng Bồ Tát giới dường như một vị truyền cho một vị, vì thế chỉ nói Đức Thích Ca truyền A Dật Đa (Di Lặc), rồi truyền xuống hơn 20 vị Bồ tát lần lượt truyền nhau, rồi do Pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc.Điều này so với việc 800 người như Huệ Dung, Đạo Tường v.v…đồng thời hướng về Pháp sư La Thập cầu thọ Bồ Tát Giới dường như là bất đồng. Nhưng cũng không thể đoán định. Nói là A Dật Đa truyền lại hơn 20 vị Bồ Tát rồi do Pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc, cũng có thể là do tương truyền hơn 20 đời.
Dòng thứ hai là Bồ Tát Giới Bổn kinh của Tam Tạng Đàm Vô Sấm truyền dịch, đây cũng rút ra từ bộ Du già. Nhân vì nội dung của Bồ Tát Giới Bổn kinh này, như Đại sư Pháp Tạng nói: “Nay riêng lưu hành Địa Trì Giới Bổn, ở phần đầu có đặt bài kệ quy mạng”.
Ở đây cũng có một sự tích, trong Bồ Tát Giới Sớ của Đại sư Pháp Tạng có thuật như vầy: “Lúc Tam Tạng Đàm Vô Sấm ở Tây Lương Châu, có sa môn Pháp Tấn v.v… đến cầu Đàm Vô Sấm truyền thọ Bồ Tát giới và thỉnh phiên dịch Giới Bổn…, Ngài nói: “Người nước này (Trung Quốc) tánh nhiều giảo hoạt, lại không tiết tháo, đâu có đủ sức làm pháp khí của đạo Bồ Tát”, bèn không truyền giới. Pháp Tấn v.v… cầu xin mãi không được nên ở trước tượng Phật lập thệ, khổ nhọc cầu giới, bảy ngày vừa mãn, mong thấy Đức Di Lặc đích thân truyền giới và giới bổn, Pháp Tấn đều tụng được ,sau khi thức dậy liền đến gặp Đàm Vô Sấm. Thấy tướng của Pháp Tấn lạ, Đàm Vô Sấm khen: “Đất Hán cũng có người”, rồi dịch Giới Bổn một quyển cùng với Giới Bổn của Pháp Tấn tụng trong mộng,văn nghĩa đồng nhau”.
Nhưng trong truyện Đàm Vô Sấm của Lương Cao Tăng truyện quyển 2 lại thuật hơi khác, nay sao lục lại như sau để cùng tham khảo: “Ban đầu Sấm ở Cô Tàng, có Sa môn Trương Dịch, Đạo Tấn muốn thọ Bồ tát giới. Sấm nói: “Hãy sám hối!”. Tấn chí thành sám hối 7 ngày 7 đêm,ngày thứ 8 đến Sấm cầu thọ giới, Sấm bèn thình lình nổi giận,Tấn bèn suy nghĩ: “ Đó là nghiệp chướng của mình chưa tiêu”. Tấn gắng sức 3 năm tu chuyên tu thiền định, mộng thấy Đức Phật Thích Ca và các Đại sĩ truyền Bồ Tát giới cho mình,đêm ấy cùng với hơn 10 người cảm mộng như Tấn thấy. Tấn đến chỗ Sấm để nói, còn cách nhau mười bước, Sấm trông thấy, kinh ngạc, đứng dậy nói: “Lành thay, Lành thay! Đã cảm giới rồi, ta sẽ làm chứng cho ông”. Rồi Ngài ở trước tượng Phật nói giới tướng cho Tấn nghe:
Lương Cao Tăng Truyện cùng với Đại sư Pháp Tạng thuật có sai khác, nhưng có một sự thật rõ ràng là Đàm Vô Sấm làm chứng sư cho Sa môn đất Hán thọ giới Bồ tát.
Dòng pháp của Đàm Vô Sấm về sau lưu hành ở Trung Quốc rất rộng.Vì thế, Lương Cao Tăng Truyện quyển 2 nói tiếp: “Lúc ấy, Sa môn Đạo Lãng nổi tiếng ở Quan Tây, ngay đêm Tấn cảm giới, Lãng cũng chung mộng, nhưng tự ty giới lập nên cầu làm pháp đệ.Thuở đó hơn 1000 người từ Pháp Tấn thọ giới.Truyền thọ pháp này cho đến ngày nay đều bắt đầu từ Đàm Vô Sám:.
Nhân nay, trong Bồ tát Giới Sớ của đại sư Trí Giả nêu ra pháp thọ giới là Phạm Võng, Địa Trì, Cao Xương, Anh Lạc, Tân Soạn, Chế Chỉ. Trong 6 bổn pháp thọ giới này có 2 bổn quan hệ với Tam Tạng Đàm Vô Sấm, một là Địa Trì Bổn Thọ Giới Pháp, hai là Cao Xương Bổn Thọ Giới Pháp. Địa Trì Bổn là do Đàm Vô Sấm dịch, Cao Xương Bổn là do Ngài Tăng Tuân người Cao Xương của phái Đạo Tấn làm ra. Nam triều, cuối niên hiệu Nguyên Gia đời Tống Văn Đế có Pháp sư Huyền Sướng tuyên pháp truyền thọ Bồ tát giới đại khái tương tự với Cao Xương Bổn, gọi là Sướng Pháp Sư Bổn.Do đó đủ thấy, dòng Bồ Tát Giới do Ngài Tam Tạng Đàm Vô Sấm truyền ở Trung Quốc có lực lượng rất lớn mạnh.
Nói đến Kinh Địa Trì của Ngài Đàm Vô Sấm dịch khiến chúng ta tìm đến vấn đề lai lịch của Kinh Địa Trì và giới pháp của kinh này. Theo Giới Sớ của Đại sư Trí Giả thuật như sau: “Tương truyền Kinh Địa Trì là do Ngài Di Lặc thuyết,nguyên bổn là Phật Đăng Minh thuyết, Bồ Tát Liên Hoa Tạng thọ trì lần lượt thuyết hóa hơn 30 vị Bồ Tát, sau có Bồ Tát Y Ba Lặc ứng tích truyền hóa sang cõi này,nhưng Kinh Địa Trì do Ngài Đàm Vô Sấm dịch, nên nghi Ngài tức là Y Ba Lặc, trong phẩm thứ tư của Kinh Địa trì này có nói về thọ giới”.
Điều này cùng với đoạn trước nói Du Già Giới Bổn là do Bồ Tát Di Lặc biên tập những điều giới Phật nói tản mác trong kinh mà thành, dường như có thêm bớt. Nhưng Du Già và Địa Trì đồng xuất phát từ một nguồn, nên vấn đề Đàm Vô Sấm là vị Cao tăng đầu tiên tại Trung Quốc truyền thọ một hệ Bồ tát giới pháp của Địa Trì, và Bồ tát giới của hệ Đàm Vô Sấm tại Trung Quốc hình thành lực lượng rất lớn mạnh cũng là một sự thật, không cần phải bàn cãi.
Tóm lại Phạm Võng Bồ tát giới của Ngài La Thập truyền và Địa Trì Bồ tát giới do Ngài Đàm Vô Sấm truyền, chẳng những là hai dòng lớn của Trung Quốc mà ở tại Ấn Độ cũng là hai dòng lớn. Phạm Võng là từ Ngài Di Lặc truyền xuống hai mươi vị Bồ tát và đến Trung Quốc, Địa Trì là từ Bồ tát Liên Hoa Tạng và đến Trung Quốc. Đây không phải chứng minh ngay từ đầu là hai dòng lớn ư? Nhưng đến đời sau ở Trung Quốc pháp thọ giới của Bồ tát giới lại do ba hệ: Anh Lạc, Phạm Võng, Du Già hội quy tổng hợp thành một pháp thọ giới toàn bích, như cuối đời nhà Minh có “Bồ tát Giới Truyền Giới Chánh Phạm” do luật sư Độc Thể Kiến Nguyệt biên tập, là một bộ sách góp nhặt từ các bộ sách khác mà thành.
II. ĐIỀU KIỆN CẦU THỌ BỒ TÁT GIỚI
Vì Bồ tát giới có sự bất đồng của đốn lập và tiệm thứ, lại có sự bất đồng của tại gia và xuất gia, nên đối với điều kiện cầu thọ Bồ tát giới cũng đều riêng có sự bất đồng của khoan dung và nghiêm khắc. Nhưng cần phải có đủ điều kiện chủ yếu đó là:
1. Phải có cái thiện của sự cảm giới.
2. Phải không có cái ác của chướng giới.
Điều kiện chủ yếu nhất: “Phải có cái thiện của sự cảm giới”.
Cái thiện của sự cảm giới phân làm hai thứ là Bồ tát chủng tánh và Phát Bồ đề nguyện.
1. Bồ tát chủng tánh: Chỉ cho căn tánh đại thừa, như Kinh Địa Trì nói: “Trụ vô chủng tánh Bổ đặc già la (sát thủ thú-hữu tình chúng sanh), vì không chủng tánh tuy có phát tâm và gia hạnh nhưng nhất định không thể viên mãn Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đó là nói: người không có căn tánh Đại thừa tuy có phát tâm cầu thọ Bồ tát giới nhưng không thể thực hành đúng như thật đạo Bồ tát. Bỏ mình vì người, quên mình mà lợi người, là tinh thần Bồ tát của căn tánh Bồ tát, nếu như không có tinh thần này thì không làm sao đến mục đích thành Phật.
2. Phát Bồ đề nguyện, hoặc gọi là phát Bồ đề tâm.
Như ngày nay ở trong cửa Phật, bất luận bảo người làm việc gì, đều phải nói: “Xin ông phát tâm”. Đây tuy không phải kể là sai, nhưng lại đem hai chữ phát tâm lạm dụng quá độ, lại dùng hai chữ “ phát tâm” không phân biệt thiện ác, nguyện làm thiện cố nhiên là phát tâm, muốn tạo ác cũng kể là phát tâm. Kỳ thật, bản ý của phát Bồ đề nguyện là chỉ cho ý chí nỗ lực tinh tấn làm thiện, bỏ ác. Nếu có căn tánh Đại thừa này mà không có chí nguyện kiên cường để thành tựu nó cho được viên mãn, thì dù có căn tánh Đại thừa thì cũng là vô dụng. Giống như có một khúc gỗ tốt, có thể làm thành đồ dùng quý giá, nhưng nếu như không gia công chế tác thì khúc gỗ tốt cũng chỉ là khúc gỗ mà thôi. Vì thế trong Kinh Địa Trì nói: “Nếu không phát tâm, không tu gia hạnh, tuy có kham nhậm nhưng không chóng chứng Vô thượng Bồ đề”.
Căn cứ vào Bồ tát Giới Bổn Sớ của pháp sư Nghĩa Tịch nói, nội dung cái thiện của sự cảm giới còn có một quy định là phải đầy đủ ba duyên mới thành, tức là: “Thắng chủng tánh, Thắng hạnh nguyện và Thắng hạnh tâm. Thắng chủng tánh đồng với Bồ tát chủng tánh. Thắng hạnh nguyện đồng với phát Bồ đề nguyện. Thắng hạnh tâm gồm có 10 thứ yêu cầu:
1. Sinh thâm tâm đối với Vô thượng Bồ đề.
2. Suốt đời lìa ác tri thức, gần thiện tri thức.
3. Suốt đời hối quá, tùy hỷ khuyến thỉnh (Phật pháp), hồi hướng (chúng sinh) tăng trưởng Phật đạo.
4. Suốt đời đem hết năng lực cúng dường Tam bảo.
5. Suốt đời đọc tụng biên chép kinh điển Phương Đẳng vì người giải nói.
6. Tùy sức cứu hộ cho đến một niệm sinh lòng xót thương đối với người cô độc, nghèo khổ, hoặc phạm giới luật.
7. Suốt đời bỏ sự biếng nhác, phát khởi tinh tấn siêng cầu Phật đạo.
8. Lúc ở trong trần lao ngũ dục sinh ra phiền não hay tìm cách chế phục.
9. Nếu lúc đối với Vô thường Bồ đề sinh tâm lui sụt, sinh tâm tham đắm pháp Tiểu thừa, phải tìm cách diệt trừ.
10. Xả bỏ tất cả sỡ hữu, không tiếc thân mạng.
Ba duyên: Thắng tánh, Thắng nguyện, Thắng tâm, phối hợp với kham nhậm, gia hạnh, đại Bồ đề, tức gọi là Bồ tát tam trì. Nay đem nội dung cái thiện của cảm giới liệt vào biểu đồ như sau:
Thông thường lúc cầu giới, vị pháp sư chỉ hỏi hai câu: “Ông là Bồ tát chăng? Ông đã phát Bồ đề tâm chưa?”. Đây cũng là thủ tục phải trải qua để hỏi về Bồ tát chủng tánh và phát Bồ đề nguyện, còn 10 thứ yêu cầu của Thắng hạnh tâm thì rất ít hỏi đến. Nhưng lý ra người cầu thọ Bồ tát giới phải tự thệ đầy đủ 10 thứ yêu cầu của Thắng hạnh tâm này.
Chính vì trước khi thọ giới phải có cái thiện của cảm giới, mà thật ra chúng sanh từng học Phật thì không thể biết cái gì gọi là cái thiện của cảm giới. Nhưng theo Phạm Võng và Anh Lạc nói: “Chúng sinh nào hiểu được lời của Pháp sư đều thọ đắc giới”. Vì thế điều giới khinh thứ 45 phải nói: “Nếu Phật tử thường khởi tâm đại từ bi, hoặc vào tất cả thành ấp, nhà cửa, thấy tất cả chúng sanh, phải tâm nghĩ, miệng nói: “Các ngươi là súc sanh phát Bồ đề tâm”. Bồ tát vào tát cả chỗ núi rừng, sông ngòi, vườn rừng đều khiến cho tất cả chúng sinh phát Bồ đề tâm”. Đây là công đức giáo hóa khiến cho tất cả chúng sinh biết cái thiện của cảm giới. Kinh Anh Lạc quyển hạ cũng nói: “ Nếu có người muốn đến thọ giới Bồ tát, Pháp sư trước tiên vì họ mà giảng giải, đọc tụng, khiến cho người ấy tâm khai ý giải, sinh lòng ưa thích, sau đó mới truyền thọ”.
Căn cứ vào đó, trước khi truyền giới Bồ tát, Pháp sư giảng giải Bồ tát giới. Bằng không cái thiện của cảm giới chưa biết rõ, chưa biết đầy đủ, làm sao mà đắc giới? Pháp sư truyền giới ngày nay chỉ mê tín tấn hương (đốt sẹo trên thân thể) cho đó là cái thiện của cảm giới, thật bất hạnh thay!
“Cái thiện của cảm giới” như nhuộm vải, trước hết phải có tính chất có thể nhuộm (căn tánh) và cái yêu cầu cần phải nhuộm (phát tâm) mới có thể đem màu sắc nhuộm lên vải được.
Điều kiện chủ yếu thứ hai: “Phải không có cái ác của chướng giới”.
Những gì là cái ác của chướng giớ? Các chướng đó là: phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng. Đây là ba chướng ngại lớn ngăn cản chúng sinh liễu sinh thoát tử, hành Bồ tát đạo
Trong pháp thọ giới của Bồ tát giới, chỉ hỏi thất nghịch (so với ngũ nghịch chướng Tỳ kheo giới thêm hai tội thất nghịch: giết Hòa thượng và A xà lê). Thất nghịch thuộc về nghiệp chướng, hễ phạm một tội nào trong tội thất nghịch đều không thọ Bồ tát giới, đây là cái ác chủ yếu của chướng giới.
Kỳ thật trong ba chướng, chướng nào cũng đều thành giới chướng của Bồ tát. Nay đem tình hình của ba chướng giới căn cứ theo Giới Sớ của Ngài Nghĩa Tịch soạn thuật, phân biệt giới thiệu như sau:
1. Phiền não chướng có 4 thứ:
a/ Phóng dật: phóng dật thành tánh, tạm thời khó sửa đổi, vì thế không được thọ giới.
b/ Tự không thiện xảo và theo bạn ác, vốn không tưởng đến thọ giới.
c/ Bị người khác ràng buộc: người bị bậc tôn trưởng, chồng, chủ nhân, vua, giặc, oan gia cầu thúc, thân tâm chẳng được tự do, vì thế chẳng được thọ giới.
d/ Sinh hoạt cùng khốn: luôn luôn bị sự sinh hoạt chi phối lo lắng, vì thế không rảnh rang nghĩ đến thọ giới.
2. Nghiệp chướng có 2 thứ:
a/ Thất nghịch: là thất giá. Trong Kinh Phạm Võng nói: làm thân Phật ra máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá Yết ma tăng và Chuyển pháp luân tăng, giết Thánh nhân (Tiểu thừa La hán, Đại thừa Địa thượng Bồ tát).
b/ Thập trọng: là 10 điều thứ giới trọng của Anh Lạc và Phạm Võng
3. Báo chướng có 4 thứ:
a/ Địa ngục.
b/ Ngạ quỷ.
c/ Trong loài súc sinh không hiểu được lời của Pháp sư.
d/ Bắc câu lô châu và người bẩm tánh hạ liệt không tin nhân quả, ý chí bạc nhược.
Về ý nghĩa của ba chướng này cần phải nói thêm: phiền não chướng tuy có bốn thứ chướng giá nạn, Pháp sư Nghĩa Tịch đối với điều này giải thích như vầy: “vì không quyết định, nên chẳng phải nhu thất giá quyết định không đắc giới”, cũng là nói phiền não chướng có thể chướng giới nhưng chẳng phải tuyệt đối chướng giới.
Tội thất nghịch trong nghiệp chướng là không sám hối, người phạm tội thất nghịch bất luận sám hối hay không, hiện đời đều không được đắc giới. Như đều giới khinh thứ 41 của Phạm Võng nói: nếu hiện thân có thất giá (nghịch), Sư chẳng nên cho thọ giới. Điều giới khinh thứ 40 cũng nói: Bồ tát Pháp sư không được cho người phạm tội thất nghịch hiện đời này thọ giới”. Lại nói: “ Nếu đủ thất nghịch thì hiện đời không đắc giới”.
Trên thực tế, tội thất nghịch không phải ai ai đều có thể phạm đến được. Sinh sau Phật diệt độ không làm thân Phật chảy máu được. Trừ người xuất gia đã thọ giới Sa di trở lên thì không có Hòa thượng để giết (nhưng ngoại đạo Ấn Độ cũng có Hòa thượng, Hòa thượng ni). Người tục chưa quy y Phật giáo, không có A xà lê để giết. Người tại gia không đủ tư cách phá tăng. Trừ Tỳ kheo ra không có người có thể phá Chuyển pháp luân tăng, Tỳ kheo ni chỉ có thể phá Yết ma tăng chứ không thể phá Chuyển pháp luân tăng. Tăng có cơ hội giết Thánh nhân không phải là dễ. Thời nay, trọng yếu hơn hết là hai tội nghịch: giết cha, giết mẹ: người xuất gia thì có thêm giết Hòa thượng và giết A xà lê thành bốn tội nghịch là thuộc chủ yếu. Nhưng vì tuân theo quy chế, lúc hỏi vẫn hỏi cả thất nghịch.
Đến như phạm 10 giới trọng, được hay không được thọ giới lại, căn cứ vào Giới Sớ của pháp sư Nghĩa Tịch có bốn thuyết bất đồng:
1. Bốn điều giới trước trong 10 giới trọng là căn bản tánh tội, hễ phá thì đồng như tội thất nghịch dù sám hối hay không sám hối, hiện đời cũng không đắc giới. Còn 6 điều giới sau, nếu có phạm mà sám thì không chướng giới.
2. Nhưng trong điều giới khinh thứ 40 của Pham Võng nói: Nếu người phạm thập trọng phải dạy người ấy sám hối cho đến một năm, cần phải thấy hảo tướng. Hảo tướng như Phật đến xoa đầu, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các thứ tướng lạ, thì được diệt tội. Sau khi diệt tội được thọ giới lại.
3. Phạm 4 giới trọng trước, sám hối cần phải thấy hảo tướng, thấy hảo tướng thì được thọ giới lại, không thấy hảo tướng không được thọ giới lại. Phạm 6 giới trọng sau, dù không sám hối vẫn có thể thọ lại và đắc giới lại.
4. Phạm 10 giới trọng không sám hối đều là giới chướng, sám hối đều được thọ giới lại.
Nhưng, trong Kinh Anh Lạc lại nói: “10 giới trọng, có phạm không có hối, nhưng được thọ giới lại”. Đây là nói: phạm 10 giới trọng là không có pháp hối quá, nhưng phạm giới mất giới vẫn có thể sau khi mất giới xin thọ giới lại.
Báo chướng trong pháp thọ giới cũng chưa liệt vào “Giá nạn”. Đồng thời, Kinh Anh Lạc nói: “Lục đạo chúng sinh thọ đắc giới, chỉ hiểu lời nói của Pháp sư liền đắc giới, không mất”. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Hễ nghe được ý tứ của ngữ ngôn của Pháp sư thuyết pháp, tất cả chúng sinh đều được thọ đắc giới. Trên thực tế, vấn đề “Hiểu lời của Pháp sư” cũng khó đối với nhiều chúng sinh. Chúng sinh do nghiệp báo bị đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, chịu khổ không ngừng, khó có cơ hội và năng lực nghe pháp. Đến như súc sinh lợi căn hiểu được tiếng nói của Pháp sư không phải không có, nhưng rất ít có. Người Bắc câu lô châu vốn không tin Phật pháp. Nhân loại trong thế giới này của chúng ta cũng có nhiều người không dám tin Phật hoặc không muốn tin Phật. Đây thuộc về quả báo chướng ngại đến cùng một lượt với đời sống. Nhưng trong súc sinh có chúng sinh hiểu lời nói, trong địa ngục có chúng sinh tội nhẹ, trong ngạ quỷ cũng có chúng sinh có phước. Những chúng sinh này đều có thể thọ Bồ tát giới, vì thế báo chướng đối với việc thọ Bồ tát giới mà nói, cũng không phải quyết định không được đắc giới. Nhưng chúng ta phải biết, đây là một môn của giới chướng.
Cái ác của chướng giới như bệnh khuẩn có sức kháng dược tánh cực mạnh, nếu loại khuẩn bệnh này còn ở trong thân thể con người thì uống thuốc bổ đều không công hiệu và không làm sao bổ ích được. Tính chất của tội thất nghịch khó trị liệu, đại khái có thể so sánh với vi khuẩn ung thư trong giới y học ngày nay.
Nay đem các điều kiện chủ yếu của sự cầu thọ Bồ tát giới liệt vào đồ biểu như sau:
III. VẤN ĐỀ THẦY TRÒ CỦA BỒ TÁT GIỚI
Nhân vì Bồ tát giới vốn có nhiều thứ, nên vấn đề thầy trò cũng đều riêng có bất đồng. Trong đó, yêu cầu của Kinh Anh Lạc là rộng rãi hơn hết: “Về vấn đề này, thì vợ chồng, lục thân đều làm thầy truyền giới cho nhau”. Đó nói là: phàm là người đã thọ Bồ tát giới rồi, bất luận tăng tục, giả sử vợ chồng và lục thân tại gia cũng có thể truyền thọ giới pháp Bồ tát cho nhau. Nhưng theo sự giải thích của Pháp sư Nghĩa Tịch: “Giới tại gia có thể như Kinh, năm chúng xuất gia cần phải đủ đức (mới được truyền thọ)”.
Yêu cầu của Ưu bà tắc Giới Kinh rất nghiêm khắc: mãn 6 tháng gần gũi bậc trí giả xuất gia, bậc trí giả lại phải hết lòng xem xét bốn oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm) của người này, nếu biết người này làm được như lời dạy…, qua 6 tháng xong, hòa hợp tăng chúng, đủ 20 người tác bạch yết ma”, mới có thể truyền Đại thừa ngũ giới và Bồ tát giới 6 trọng 28 khinh.
Theo pháp truyền giới của Phạm Võng do Ngài La Thập truyền, nói: Thầy phải là Bồ tát xuất gia đầy đủ năm đức:
1. Kiên trì tịnh giới
2. Mười năm giới lạp
3. Khéo hiểu luật tạng
4. Có công phu tu thiền
5. Trí tuệ sâu, biện tài vô ngại
Lại nói còn có 4 đức:
1. Đồng pháp Bồ tát: biểu thị không phải là người học Tiểu thừa.
2. Đã phát đại nguyện: biểu thị không phải là người chưa phát Bồ đề tâm.
3. Có trí lực: biểu thị đối với văn nghĩa của Kinh luật hiểu được, trì được.
4. Nơi ngữ biểu đạt nghĩa, có khả năng truyền dạy: biểu thị có khả năng dùng ngôn ngữ biện luận rõ ràng, thuyết pháp dạy người khiến cho mở thông tâm trí.
Trong Kinh Địa Trì nói: “Cần phải giới đức nghiêm minh, khéo hiểu tam tạng, có thể làm cho người phát khởi tâm kính tin mới có thể làm thầy cho người cầu thọ Bồ tát giới”.
Trong Thiện Giới Kinh lại đòi hỏi kỹ lưỡng hơn: nếu người bất tín, chẳng nên theo thọ giới, người bỏn xẻn tham lam, người không biết đủ, phá giới, ô giới, không kính trọng giới, người thích tham sân, người không nhẫn nhục, người không có khả năng ngăn tội lỗi của người khác, người biếng nhác, giải đãi, ham hưởng thụ thú vui thế gian, thích nói chuyện đời, cho đến không có một niệm nghĩ đến Tam bảo, nghi ngờ, ngu si tăm tối không đọc tụng được Bồ tát pháp tạng (Kinh tạng), Bồ tát ma di (Luận tạng) và sinh phỉ báng, người như thế không nên theo thọ giới”.
Do đây đủ thấy muốn làm một Giới sư Bồ tát giới thật không phải dễ.
Đến như thái độ của một vị Bồ tát Pháp sư, trong Kinh Phạm Võng còn có yêu cầu:
1. Điều giới khinh thứ 22: “ Nếu pháp sư tự ỷ mình hiểu Kinh luật, Đại thừa học giới, kết bạn cùng với quốc vương, thái tử, bá quan, mà tân học Bồ tát đến cầu hỏi hoặc nghe Kinh, nghĩa luật, lại vì tâm khinh ghét, tâm ngã mạn mà không giải đáp, đây là phạm khinh cấu tội”.
2. Điều giới khinh thứ 40: “Lúc cho người thọ giới không được lựa chọn, tất cả quốc vương, vương tử, đại thần, bá quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, dâm nam, dâm nữ , mười tám Phạm thiên, thiên tử sáu cõi Dục, người không căn (không có sinh thực khí), huỳnh môn, nô tỳ, tất cả quỷ thần đều được thọ giới”
3. Điều giới khinh thứ 41: “Bậc thầy giáo giới phải ở trong pháp Bồ tát giới này mỗi mỗi đều hiểu rõ. Nếu không hiểu Kinh luật Đại thừa hoặc khinh hoặc trọng, tưởng phải chẳng phải, không hiểu đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưởng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh. Trong đó, bao nhiêu quán hạnh xuất nhập, 10 chi thiền, tất cả hành pháp mỗi mỗi không hiểu ý nghĩa trong các pháp này. Vì lợi dưỡng, vì danh tiếng, ác cầu, đa cầu, vì tham lợi, tham nhiều đệ tử mà dối hiện thông hiểu tất cả Kinh luật, và mong muốn cúng dường đó là tự dối mình cũng là gạt người khác, cố truyền giới cho người, phạm khinh cấu tội”.
4. Điều giới khinh thứ 46: “Pháp sư Tỳ kheo không được đứng thuyết pháp cho tứ chúng nghe. Lúc thuyết pháp, Pháp sư phải ngồi tòa cao, hương hoa cúng dường, tứ chúng nghe pháp phải ngồi dưới thấp.
Trong Kinh Địa Trì và Kinh Anh Lạc đều nói chỉ có một vị Giới sư. Trong điều giới khinh thứ 41 của Phạm Võng lại nói: “Thấy người muốn thọ giới phải thỉnh hai sư; Hòa thượng, A xà lê. Hai sư phải hỏi…” đủ thấy phải có hai vị pháp sư, nhưng trong pháp thọ giới của Phạm Võng cũng chỉ có một sư. Trong Tỳ Ni Hậu Tập Vấn Biện của Đại sư Ngẫu Ích có nói như vầy: “Nếu theo kinh văn dường như cần phải hai sư. Nhưng Anh lạc, Địa Trì đều chỉ một sư. Lại, pháp thọ giới của Phạm võng truyền từ Ngài La Thập ghi trong Nghĩa Sớ cũng chỉ có một sư. Chỗ nói thỉnh hai sư, là thỉnh Phật, Bồ tát. Chỗ nói: phải cúng dường hai sư đúng như pháp và giết hai sư hành tội nghịch cũng có thể là chỉ hai sư của giới Tỳ kheo”. Ý kiến này của Đại sự Ngẫu Ích là căn cứ vào Giới Sớ của Đại sư Trí Giả. Nhưng Đại sư Trí Giả đối với hai vấn đề này còn có nghi vấn, Ngài nói: “Văn lại nói: hai sư phải nói: Ông có phạm thất giá không? Dường như không phải chỉ Phật”. Điều này Đại sư Ngẫu Ích chưa có giải nói và cho đến ngày nay cũng chưa được giải rõ!
Xét theo nội dung của pháp thọ giới Bồ tát, vị Hòa thượng của Bồ tát giới là Phật Bổn Sư trên địa cầu này, sau Phật Thích Ca, trước Phật Di Lặc thì Thích Ca là Phật Bổn sư của chúng Tỳ kheo, vì thế Thích Ca là đắc giới Hòa thượng của Bồ tát giới. Bồ tát Văn Thù là Yết ma sư, Bồ tát Di Lặc là giáo thọ sư, tất cả Như lai làm tôn chứng, tất cả Bồ tát Ma ha tát là đồng học. Vị Bồ tát pháp sư chỉ phụ trách giáo giới, khải phát và ở bên cạnh làm chứng, vì thế trong điều khinh thứ 41 của Phạm Võng gọi Bồ tát pháp sư là “ Trí giả”. Ngài Đàm Vô Sấm truyền Bồ tát giới cho Đạo Tấn, cũng chỉ là “làm chứng” mà thội.
Còn “hai sư” của “hai sư phải hỏi” làm sao giải thích? Tôi nghĩ chỉ có một cách giải thích là do sự lầm lẫn trong quá trình sao chép truyền bá tạo thành, hoặc có thể vì chép Kinh đem hai chữ “Pháp sư” viết lầm ra hai sư. Trừ cách giải thích này ra, không có cách giải thích hợp lý về ý nghĩa của hai chữ “Hai sư” này muốn chỉ.
Nhưng đối với hai chữ hai sư này, các nhà chú giải cũng có nhiều ý kiến khác nhau:
1. Đại sư Pháp Tạng nói: “Ở đây có 2 nghĩa: Một là thỉnh hai sư thọ Bồ tát giới như thọ Sa di thập giới. Hai là thỉnh Bổn Sư Thích Ca Phật làm Hòa thượng, Sư đích thân truyền giới làm A xà lê”. Ngài Pháp Tạng tiếp theo nêu luận chứng: “Thiện Giới Kinh nói: Sư có 2 loại: một là không thể thấy được, tức là Phật, Bồ tát tăng; hai là có thể thấy được, đó là Giới sư; từ hai sư này đắc Bồ tát giới”. Phổ Hiền Quán Kinh thỉnh ba sư là ở trong Sư không thể thấy mà thỉnh, trong Du già thỉnh một sư là chỉ cho sư có thể thấy.
2. Pháp sư Nghĩa Tịch nói: Làm Thọ giới sư cho người phải chánh chế Hòa thượng, vì trước sau thân giáo là Hòa thượng… Lại phải có một người làm Yết ma sư, còn dạy thỉnh thêm một người là A xà lê … nghĩa là đồng giới pháp thọ Sa di của Thanh Văn.
3. Trong Thái Hiền Cổ Tích Ký nói: Phải dạy thỉnh hai sư, Hòa thượng là gốc của đắc giới, A xà lê là nhân duyên của đắc giới. Phổ Hiền Quán Kinh nói: thỉnh ba sư là vì cần kính trọng. Du già chỉ thỉnh có một sư, vì một người có khả năng làm được nhiều việc.
Trên thực tế, ý kiến của các vị Cổ Đức đều có chỗ đáng quý. Nhưng đối với câu: “Hai sư phải hỏi” đều được giải thích được ổn thỏa. Bất luận là giới sư có thể thấy hay không thể thấy, thọ giới quyết không thể chỉ cho Phật, Bồ tát không thế thấy, cũng không thể liên tưởng đến Thân giáo Hòa thượng và Yết ma A xà lê. Riêng nói với Bồ tát, trừ Giáo giới sư là người hiện tiền lúc thọ giới, Hòa thượng Phật và Bồ tát A xà lê không thể thấy, nhưng cũng không cần Tỳ kheo Pháp sư thay thế Phật và Bồ tát làm Hòa thượng và A xà lê, và cũng không thay thế được.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).21/4/2012.
I. SAO GỌI LÀ GIỚI TRỌNG VÀ GIỚI KHINH?
Sự phân biệt của giới trọng và giới khinh là ở sự bất đồng của “căn bản” và “chủng loại”, hoặc sự bất đồng của “tánh tội” và “giá tội”. Căn bản của tất cả giới gọi là căn bản giới như: Sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, là căn bản của tất cả giới. Từ trên mỗi một thứ căn bản sinh ra các tiểu giới đồng loại, gọi là Chủng loại giới, tỷ như đánh chúng sinh là chủng loại của giới sát, làm tổn tài vật của người là chủng loại của giới trộm cướp, xúc chạm người khác phái là chủng loại của giới dâm, nói lời vô vị là chủng loại của giới vọng ngữ. Tuy phạm loại tương tự sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ mà chưa đạt đến trình độ tội đã thành của sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, bất luận thọ giới hay không thọ giới, hễ tạo thành sự thật đều là một thứ tội ác; vị lai nhất định bị quả báo, vì bản tánh của nó là tội hạnh, là chánh nhân của nghiệp báo, vì thế gọi là Tánh tội. Lại, nếu không cố gắng hết sức cứu độ chúng sinh, người không thọ Bồ tát giới không kể là phạm giới, không có tội. Người thọ Bồ tát giới rồi, do sự quy định trong giới, không đem sức cứu hộ chúng sinh thì có tội, vì thế gọi là Giá tội.
Lại như người không thọ Bồ tát giới không học kinh luật Đại thừa thì không có tội, còn người thọ Bồ tát giới rồi không thể không học kinh luật Đại thừa, đây là ngăn cấm không được như thế, vì thế gọi là Giá giới.
Công đức của thọ giới, trì giới rất lớn. Thọ giới mà không trì giới, tội lỗi cũng rất lớn. Có thưởng có phạt là lý tất nhiên. Thọ trì một giới có công đức một giới, phạm phá một giới cũng có tội lỗi của phạm phá một giới. Công đức thọ trì giới trọng lớn, tội lỗi của phạm phá giới trọng là rất lớn. Vì thế, trước và sau khi thọ giới, chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng về nội dung của giới trọng giới khinh.
Đến như xưng danh của giới trọng, giới khinh, các loại bổn đều riêng có xưng hô bất đồng. Nói về giới trọng, Kinh Anh Lạc gọi 10 điều giới trọng là “Thập bất khả hối”, Kinh Phạm Võng gọi là “Ba la di”, Du Già Giới Bổn gọi là “Tha thắng xứ”, Ưu bà tắc Giới Kinh gọi 6 điều giới trọng là “ Lục trọng pháp”.
Nói về giới khinh, Kinh Phạm Võng gọi là “khinh cấu”, Kinh Địa Trì gọi là: “Đột kiết la”, Du già dịch là Ác tác”, cũng gọi là “Vi việt”, Ưu bà tắc Giới Kinh gọi là “Thất ý tội”.
Đây là những danh xưng căn cứ vào cộng dụng của giới tội và phần lượng của tánh tội mà lập ra, danh xưng tuy khác nhau nhưng tội được chỉ định là một. Kinh Anh Lạc nói: “Thập trọng có phạm không có hối”; phạm giới khinh: “Được cho hối quá đối thú hối diệt tội”. Phạm 10 giới trọng không có phương pháp sám hối trừ tội, vì thế gọi là bất khả hối. Phạm giới trọng như người bị chặt đầu không thể dùng thứ thuốc nào của Phật pháp cứu trị được, vì thế gọi là tội Đoạn đầu. Ba la di dịch từ âm chữ Phạn: Pàràjika, nghĩa là Đoạn đầu. Phạm giới trọng tức là bị pháp đối địch của người bên ngoài chiến thắng, vì thế gọi là Tha thắng xứ.
Phạm giới khinh gọi là tội nghiệp cấu, so với giới trọng nhẹ hơn, vì thế xưng là khinh cấu. Đột kiết la dịch âm từ chữ Phạn: Duskurta nghĩa lá ác tác hoặc ác thuyết. Phạm giới khinh là chống trái và vượt ra phạm vi tâm hạnh của người tu trì, vì thế gọi là “vi việt”. Phạm giới khinh là do vọng niệm gây ra, trái với ý nguyện của người thọ giới tu trì, vì thế gọi là “Thất ý”.
II. NỘI DUNG CỦA GIỚI TRỌNG
Từ trên bản chất và nguyên tắc, căn bản giới của Đại thừa, Tiểu thừa tương đồng. Từ trên cấp độ và tác dụng, căn bản của Đại thừa và Tiểu thừa có sai biệt. Bốn giới căn bản lớn của Tiểu thừa Thanh văn là sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ. Mười giới trọng lớn của Đại thừa Bồ tát bao hàm sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ. Đây là chỗ đồng và khác của Đại thừa, Tiểu thừa. Điểm xuất tương đồng, trên hiệu dụng bất tương đồng.
Trong 6 loại giới bổn của Đại thừa Bồ tát giới, đối với sự trình bày và sắp xếp điều mục giới trọng cũng đều riêng có sai biệt. Kinh Anh Lạc và Kinh Phạm Võng có 10 điều giới trọng đồng nhau, Du Già Giới Bổn có 4 điều, Kinh Địa Trì có 4 điều, Thiện Giới Kinh có 8 điều, Ưu bà tắc Giới Kinh có 6 điều. Nhưng bất luận 4 điều, 6 điều, 8 điều đều ở trong phạm vi 10 điều. Nay đem giới mục giới trọng của 6 loại giới bổn liệt kê đối chiếu như sau: (trang bên)
Nội dung của giới trọng Bồ tát giới là Nhiếp luật nghi giới của tam tụ tịnh giới, tuy chỉ có 10 điều mà thật đã bao quát tất cả luật nghi giới.
Từ đây trở xuống chúng tôi lấy Phạm Võng Bồ tát Giới Bổn làm đối tượng giới thiệu chủ yếu nghiên cứu đến các loại Bồ tát Giới bổn khác.
Mười điều giới trọng của Bồ tát giới được phân ra là thuộc về ba loại thân, miệng, ý. Trong Tiểu thừa giới, thân miệng phạm giới có tội, tâm ý phạm giới vô tội, tâm ý phạm giới cũng không thành phạm giới. Thế nên đã chẳng phải lấy ý nghiệp làm giới khinh, cũng không lấy ý nghiệp làm giới trọng. Nhưng trong Đại thừa giới chẳng những tâm ý vi phạm là có tội, thậm chí còn liệt vào tội nặng.
Thật ra, hai nghiệp thân miệng thành tội hạnh, chủ yếu là do dự mưu kế hoạch và sự thao túng của ý nghiệp; do sự phát động của ý nghiệp mà thành hai nghiệp thân miệng có ác có thiện và cũng có không ác không thiện. Trong giới hiện tại ngăn cấm là ý thuộc về nghiệp ác, đó là ba độc tham, sân, si, rất nổi tiếng và rất đáng sợ. Mười giới trọng của Bồ tát có thể khái quát làm ba nghiệp, ba nghiệp có thể quy nạp vào một ý nghiệp bị tam độc thống trị.
Đây là từ trọng tâm của 10 giới trọng phân biệt, nếu phân tích kỹ càng thì trong mỗi giới đều có thành phần của ba nghiệp. Hiện tại muốn dễ hiểu nên phân tích đại khái như sau:
Nhìn trên biểu đồ này, sự sinh ra 10 giới trọng của Bồ tát giới chỉ vì mỗi nguyên nhân, đó là đối phó với ý nghiệp làm ác mà điều phục tam độc làm hại. Chúng sinh chúng ta sở dĩ bị trầm luân trong biển sinh tử của lục đạo, mê mộng trong đêm dài triền miên cũng là ý nghiệp bất thiện mà bị tam độc làm hại.
Phương pháp phạm giới của 10 điều giới trọng phân làm ba loại: có loại tự ,mình đối với người khác mà phạm, có loại chính mình đối với mình mà phạm, có loại người khác đối với mình mà phạm.
Đối tượng phạm giới của 10 điều giới trọng phân làm hai loại: một là hữu tánh, hai là loại phi tánh.
Căn cứ vào phương pháp và đối tượng của sự phạm phá 10 điều giới trọng có thể liệt vào biểu đồ như sau:
Biểu đồ này cần phải nói thêm cho rõ:
Phạm giới đắc tội đều là do làm cho chúng sinh khác bị tổn hại hoặc phiền não mà ra, vì thế phương pháp phạm giới chủ yếu của 10 điều giới trọng là tự mình đối người phạm. Nhưng cũng có 5 điều là có thể mình đối với chính mình phạm, tỷ như chính mình giết mình là phạm giới sát; có người thân thể mềm mại có thể dùng miệng nút sinh thực khí của chính họ để được khoái lạc thì phạm giới dâm; ba điều là xan tham, giận hờn và phỉ báng Tam bảo, so theo đây có thể biết. Người khác đối mình phạm chỉ có một điều giới dâm, lúc nhập, đã xuất, xuất ra, chỉ cần sinh khởi tâm cảm thọ một niệm khoái lạc dâm dục thì kể là phạm giới.
Đối tượng của sự phạm giới vốn lấy chúng sinh hữu tình làm đối tượng chủ yếu của sự đắc tội. Nhưng có ba điều có thể từ trên sự thật phi tình đắc tội, tỷ như gian dâm với thây chết chưa hoại; đã là thây chết thuộc về vật thể phi tình không có tri giác, nhưng vẫn có thể ở trên thây chết chưa hoại để đạt đến mục đích thọ lạc của việc hành dâm. Vì thế trên vật phi tình đắc tội trọng của phạm giới dâm. Hai điều giới: cố giận hờn và phỉ báng Tam bảo, có thể theo đây suy ra mà biết.
Nhưng đối với sự giải thích điều văn giới trọng, vì không có Kinh Phạm Võng của Đại Bổn làm căn cứ nên nhà chú sớ từ xưa đến nay phần nhiều không có được quan niệm thống nhất. Từ trên đại thể nói, các bản chú sớ Kinh Phạm Võng của các nhà chia làm hai phái Tân và Cựu, Cựu sớ lấy Bồ tát Giới Sớ của Đại sư Trí Giả tông Thiên Thai là chủ yếu, các chú sớ của Ngài Minh Khoáng đời Đường, Liên Trì, Ngẫu Ích, Hoằng Tán cuối đời Minh đều thuộc một hệ Cựu sớ.
Tân sớ thì lấy Bồ tát Giới Bổn Sớ của Đại sư Hiền Thủ Pháp Tạng làm đầu; Nghĩa Tịch Sớ, Thái Hiền Cổ Tích Ký đời Đường đều là hệ Tân sớ. Điểm bất đồng lớn nhất của Tân sớ và Cựu sớ là sự phân biệt đối với điều văn của 10 điều giới trọng. Cựu sớ đại thể lập luận theo Thanh văn giới, cho rằng chỗ chỉ trong điều văn của điều giới trọng có trọng cũng có khinh, nói khinh để so với trọng, tỷ như giết người phạm tội trọng, giết chúng sinh dị loại phạm tội khinh; trộm 5 tiền trở lên phạm tội trọng, trộm 5 tiền trở xuống phạm tội khinh, đại vọng ngữ phạm tội trọng, tiểu vọng ngữ phạm tội khinh. Nhưng theo Tân sớ mà nói, cho rằng giới trọng của Bồ tát giới trọng hơn Thanh văn, vì thế “cho đến loài vật có sinh mạng cũng không được cố giết”, “cho đến vật của quỷ thần, vật có chủ, vật của kẻ trộm cướp, tất cả tài vật: một cây kim, ngọn cỏ không được cố trộm”, “Cho đến thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, thân tâm vọng ngữ”, nếu phạm đều đắc tội Ba la di.
Duy nói theo thông thường, phần nhiều lấy Cựu sớ làm chuẩn, nhân vì Du già Giới Bổn khai có 7 chi nhánh tội, Kinh Văn Thù Vấn thì cho rằng hễ khởi tâm niệm sát sinh, trộm cướp, dâm dục vọng ngữ đều phạm giới Bồ tát Ba la di tội. Hai đàng nói khác nhau, đó là theo hàng Bồ tát Thánh vị mà nói, chứ hàng Bồ tát mới phát tâm quyết khó làm đến trình độ này. Nếu không như vậy thì cơ hội Bồ tát phạm tội trọng thật rất nhiều. Nhưng cũng nên lấy quan điểm của Tân dịch là sợ hãi để cảnh giác, vì từ trước đến nay chúng ta không có một người hiểu rõ một cách đúng đắn về điều văn của giới Phạm Võng chỉ dạy với ý nghĩa gì.
Đến số điều giới trọng của các loại Bồ tát Giới Bổn tại sao có nhiều có ít? Điều này ở trong Bồ tát Giới Bổn Sớ của Đại sư Pháp Tạng có nói như vầy: trong Kinh Phạm Võng này vì lý do là thất chúng đệ tử cùng chung thọ trì, vì thế nên nói cụ thể 10 điều giới trọng. Kinh Thiện Sanh đặc biệt nói cho hai chúng đệ tử tại gia, vì thế đem 6 điều trước của 10 điều giới trọng làm giới trọng. Lại vì người tại gia đối với tội lỗi, tội hạnh của bán rượu cho người và nói lỗi tứ chúng đặc biệt dễ phạm đến, vì thế ngoài 4 giới trọng căn bản ra, còn thêm hai điều giới này, thành 6 điều giới trọng. Bốn điều giới sau trong 10 giới trọng, sự phạm tội của người tại gia nhẹ hơn, vì thế không chế làm giới trọng của người tại gia. Nhưng 4 điều sau đối với người xuất gia tội lỗi thiên trọng. Hai điều thứ 5 và thứ 6 đối với người xuất gia không quá nghiêm trọng, vì thế Địa Trì và Du già Giới Bổn chỉ liệt bốn điều sau làm giới trọng.
Lại vì trong 10 điều giới trọng, 4 điều trước đối Đại thừa, Tiểu thừa đều là giới trọng. Hai điều thứ 5 và thứ 6 đối với người tại xuất gia đều là giới trọng. Bốn điều sau chót chỉ có Đại thừa Bồ tát mới thành giới trọng.
Đó là sự giải thích của Đại sư Pháp Tạng nhưng tôi còn thấy có một ý kiến bổ sung. Bởi vì Anh Lạc và Phạm Võng thuộc Đốn lập giới, vì thế trừ giới mục đặc biệt của Bồ tát ra, còn phải liệt vào giới mục căn bản hoặc cơ sở chung cho cả thất chúng, do đó thành 10 giới. Du Già, Địa Trì là tiệm thứ giới, là đã thọ qua cộng thông giới của cơ sở thất chúng, vì thế chỉ nêu bốn giới sau của Bồ tát đặc biệt thiên trọng là đủ. Đến Ưu bà tắc Giới Kinh tuy cũng thuộc về tiệm thứ giới nhưng trong đó có nói rõ: “Ưu bà tắc là căn bản của Sa di thập giới. Đại Tỳ kheo giới, Bồ tát giới cho đến A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”. Nhân vì đây là căn bản của tất cả giới, vì thế phải liệt kê bốn giới căn bản trước, lại vì là Đại thừa giới nên phải thêm hai điều thứ 5 và thứ 6 làm giới trọng. Sáu giới trọng của Ưu bà tắc Giới Kinh thêm vào 4 giới trọng của Du già Giới Bổn vừa vặn thành 10 điều giới bổn của Anh Lạc và Phạm Võng. Đến như giới trọng của Thiện Giới Kinh là 4 điều trước thêm 4 điều sau thành 8 điều cũng công nhận rằng đúng như lời Đại sư Pháp Tạng nói: “Hai điều thứ 5 và thứ 6 đối với người xuất gia không nghiêm trọng lắm”. Vì thế trong ba loại giới bổn: Du Già, Địa Trì và Thiện Giới Kinh tại sao lại đem 4 điều trước liệt vào thành 8 điều thì không được biết, cũng có lẽ đây là do ý của người dịch chăng?
III. NỘI DUNG CỦA GIỚI KHINH
Nội dung của giới khinh của Bồ tát cũng là Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình của Tam tụ tịnh giới. Đây cũng là từ trên phần đại thể, nếu luận kỹ, bất luận giới trọng giới khinh, mỗi giới đều nhiếp vào thành phần của Tam tụ tịnh giới.
Căn cứ vào Bồ tát Giới Bổn Sớ của Ngài Nghĩa Tịnh nói: Kinh Anh Lạc nói Nhiếp luật nghi giới là 10 Ba la di, Nhiếp thiện pháp là 9 vạn 4 ngàn pháp môn, Nhiếp chúng sinh giới là từ, bi, hỷ, xả. Lại nói: “Trong 48 giới khinh của Phạm Võng, 30 giới trước phần nhiều là nhiếp thiện, 18 giới sau phần nhiều là lợi sinh”. Đây cũng là từ trên phần đại thể mà nói. Vì về Bồ tát giới, điều văn của Phạm Võng Bồ tát Giới là đặc biệt hơn hết, trong giới trọng có thành phần của giới khinh, trong giới khinh có thành phần của giới trọng, cho đến trong điều văn của một điều của giới cũng bao quát nhiều loại và ý tứ không nối tiếp quán thông. Vì thế, phân loại nhất định như thế nào thật là điều rất khó.
Căn cứ vào sự nghiên cứu của Đại sư Pháp Tạng thì Phạm Võng Giới Kinh trong khinh có mang trọng và trong một gồm có nhiều, nay nêu ra như sau:
A. Trong khinh mang trọng, có 6 điều:
1. Điều thứ 11, trong giới đi thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận có hai điều khinh trọng: Vì người làm sứ đưa tin, phạm tội khinh; nhân đây hai bên đánh giết nhau, phạm tội trọng sát sinh.
2. Điều thứ 14, trong giới phóng hỏa thiêu đốt làm tổn hại tài vật, gồm có hai điều khinh trọng: Thiêu đốt là phạm giới khinh, tổn hại tài vật của người thì phạm giới trọng trộm cướp.
3. Điều thứ 17, trong giới cậy thế lực quyên tởi gồm có hai điều khinh trọng: Cậy thế lực quan quyền, phạm giới khinh; cưỡng lấy tài vật của người, phạm giới trọng trộm cướp.
4. Điều thứ 25, trong giới tri chúng vụng về gồm có điều khinh trọng: Làm tri chúng vụng về, phạm giới khinh; tổn thất tài vật của Tam bảo, phạm giới trọng trộm cướp.
5. Điều thứ 30, trong giới trái với cấm giới, làm điều quấy, gồm có hai điều khinh trọng: Giả tuồng kính mến, phạm giới khinh; tự mình huỷ báng Tam bảo, phạm giới trọng.
6. Điều thứ 32, trong giới chứa điều phi pháp gồm có hai điều khinh trọng: Chứa cân non, giạ thiếu, phạm giới khinh; lấy tài vật của người, phạm giới trọng trộm cướp.
B. Trong một có nhiều, gồm 10 điều:
1. Điều thứ 12, trong giới buôn bán có 3 điều: 1. Bán người lành, 2. Bán tôi tớ, lục súc, 3. Bán quan tài, ván cây để đựng thây người chết.
2. Điều thứ 20, trong giới không cứu hộ sinh mạng có 2 điều: 1. Cứu sinh mạng khỏi bị giết, 2. Ngày người thân chết, giảng pháp để cứu khổ cho người chết.
3. Điều thứ 23, trong giới khinh người mới cầu học có 2 điều: 1. Oai nghi thọ giới, 2. Pháp sư ỷ thị, mình hiểu kinh luật Đại thừa và kết bạn với quốc vương v.v… không đáp lời hỏi của tân học Bồ tát.
4. Điều thứ 29, trong giới làm nghề ác tổn hại chúng sinh có 6 điều: 1. Buôn bán nam sắc, nữ sắc, 2. Tự tay làm đồ ăn, tự xay tự giã, 3. Xem tướng bàn mộng, 4. Bùa chú phép thuật, 5. Phương pháp nuôi ó, 6. Hòa hợp thuốc độc.
5. Điều thứ 30, trong giới trái với cấm giới làm quấy có 4 điều: 1. Phỉ báng Tam bảo, 2. Làm mai mối cưới gả, 3. Sáu ngày trai mỗi tháng, ba tháng trường trai mỗi năm sát sinh, 4. Tâm tưởng đến trộm cướp.
6. Điều thứ 32, trong giới chứa đồ phi pháp, có 6 điều: 1. Chứa dao, tên v.v…, 2. Chứa cân non, giạ thiếu, 3. Ỷ vào thế lực lấy tài vật của người, 4. Ác tâm trói buộc người, 5. Phá hoại thành công của người, 6. Nuôi mèo, chồn, heo, chó.
7. Điều thứ 33, trong giới xem nghe làm ác có năm điều: 1. Không được xem đấu chiến nhau, 2. Không được cố nghe âm nhạc, 3. Không được đi xem hát, 4. Không được bói xủ, 5. Không được làm tay sai cho kẻ trộm cướp.
8. Điều thứ 37, trong giới cố vào chỗ có nạn, có 3 điều: 1. Đầu đà, 2. Bồ tát, 3. An cư mùa Hạ, mùa Đông phải đúng như pháp, không vào chỗ có nạn.
9. Điều thứ 39, trong giới nên giảng hay không giảng có hai điều: 1. Giáo hóa người kiến lập chùa tháp, tăng phòng, 2. Dạy khi gặp nạn nên giảng thuyết kinh luật Đại thừa.
10. Điều thứ 40, trong giới thọ giới không đúng nghi thức có điều: 1. Oai nghi thọ giới, 2. Tăng không lạy tục.
Từ trong 16 điều của hai loại lớn: Trong khinh mang trọng và trong một gồm nhiều này, chúng ta có thể biết giới khinh của Phạm Võng tuy chỉ có 48 điều, kỳ thật cộng chung có 79 giới. Xin hãy đếm xem: trong 6 điều “mang trọng” thành 12, trong 10 điều “gồm nhiều” thành 35, và 32 điều thành lập đơn độc, tổng cộng lại không phải là 79 giới sao? Nếu cộng 10 giới trọng vào thì thành 89 giới tướng khinh trọng của Kinh Phạm Võng.
Giới khinh rốt cuộc có bao nhiêu điều, căn cứ theo Đại sư Pháp Tạng có 10 thứ nội dung bất đồng như sau:
1. Du già có 44 giới.
2. Hai kinh Địa Trì, Thiện Giới tuy có hơi thêm bớt, nhưng vẫn đồng với Du già.
3. Bồ tát Nội Giới Kinh có 42 giới.
4. Kinh Thiện Sanh (Ưu bà tắc Giới) trừ 6 điều trọng ra, riêng có 28 giới khinh.
5. Kinh Phương Đẳng trừ 24 thứ giới ra còn có 25 thứ chế không nên làm.
6. Kinh Phạm Võng có 48 giới.
7. Nếu tìm kỹ nội dung văn tự giới kinh của Phạm Võng, hoặc trong một giới có nhiều thứ giới, luận chung gần một trăm giới.
8. Như Phạm Võng dẫn văn trong phẩm “Bát Vạn Oai Nghi nói”, thì có 8 vạn thứ giới.
9. Theo như Nhiếp Luận, bản dịch đời Lương dẫn Kinh Tỳ Nại Da Cù Sa La nói Bồ tát giới có 10 vạn thứ sai biệt.
10. Nếu theo Luận Trí Độ nói, ít thì có 8 vạn, nhiều thì có số như trần sa (cát bụi).
Ngoài ra còn thấy Kinh Dược Sư nói “Bồ tát 400 giới”, nhưng chưa thấy nêu ra điều mục của 400 giới.
Trên thực tế, nội dung của Bồ tát giới bao gồm tất cả, không thể dùng chữ số điều văn để liệt kê, nếu có phạm vi để liệt kê thì thành hữu hạn, chẳng thể xứng danh tánh, như lý. Nội dung của Bồ tát giới phải vô cực, vô hạn. Vì thế, Luận Trí Độ phải nói: “Nhiều như số cát bụi”, là lý này vậy. Điều văn nêu ra trong các loại giới kinh chỉ là thô, là thiết yếu, là hiển, là nêu đại cương mà thôi. Vì thế, chúng ta chẳng cần nghiên cứu theo cách so sánh nội dung các điều văn và vấn đề giới mục nhiều ít, mà chỉ cần các điều văn này là tâm hạnh của Bồ tát mới phát tâm phải y theo làm cho đúng không được xao lãng, không được không học. Để tiện cho độc giả tham khảo, nay đem giới mục giới khinh của năm loại giới bổn liệt vào biểu đồ đối chiếu như sau:HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).21/4/2012.
I. NGUYÊN DO CỦA GIỚI LUẬT
Chúng ta đã nói giới luật của Phật giáo được chế định là do sự cần thiết thật sự. Việc hoàn thành của giới Tỳ kheo và Tỳ kheo ni cũng không phải là việc của một ngày. Trong Tăng đoàn Phật giáo buổi ban đầu vốn không có điều văn giới luật ghi thành văn, đệ tử xuất gia thời ấy đều có căn khí rất sâu, rất dày, thường thường đều ở ngay nơi hai ba lời khai thị của Đức Phật liền ngộ chứng được Thánh vị, thấp thì được pháp Nhãn tịnh, kiến đạo chứng Sơ quả, cao thì chứng thẳng Tứ quả A la hán. Như nói: “Sơ quả cày đất côn trùng lìa lưỡi cày 4 tấc”, đây là đạo cộng giới do đạo lực của Thánh vị mà ra. Trong Tăng đoàn phần nhiều là đệ tử chứng Thánh quả, vì thế dưới đạo lực của Đạo cộng giới tự nhiên hợp với yêu cầu của giới nên không phạm tội. Đã không phạm tội nên không cần phải chế giới.
Căn cứ trong luật ghi chép, Ngài Xá Lợi Phất trước tiên thỉnh Phật chế giới, Đức Phật nói không phạm không chế. Trong Ngũ Phần Luật quyển 1 Phật nói: “Này Xá Lợi Phất! Trong chúng của ta chưa từng có pháp hữu lậu. Trong chúng này của ta người nhỏ nhất đắc Tu đà hoàn. Các Đức Phật Như Lai không vì chưa có pháp hữu lậu mà kết giới cho các đệ tử”. Đây cùng với Bồ tát giới bất đồng. Bồ tát giới là “Chư Phật pháp nhĩ”. Ba đời chư Phật đều do Bồ tát giới mà thành Phật. Bồ tát giới không do một vị Phật nào chế ra mà là chư Phật đồng chế, bản lai như vậy. Tỳ kheo giới là căn cứ vào sự cần thiết của sự thật để chế định, Đức Phật tuy biết cần phải chế những giới nào nhưng Ngài quyết chẳng chế định trước. Điều này có lý do: Một là biểu thị dân chủ, hai là tôn trọng nhân cách của các đệ tử. Nếu như không phạm mà chế, các đệ tử đương nhiên phải tiếp thọ, nhưng đó không phải xuất phát từ ý tứ của các đệ tử mà lại xuất phát từ sự cưỡng chế của Đức Phật. Phạm tội mới chế giới, đây là xuất phát từ sự nhất trí của đại chúng trong Tăng đoàn. Từ trong luật chúng ta thấy Đức Phật chưa từng chủ động chế qua một điều giới, chẳng qua là vì do nơi người phạm lỗi lầm bị sự chê trách của người ngoài, rồi do các đệ tử thiểu dục, tri túc, thích hạnh đầu đà, biết hổ thẹn, trình bạch với Đức Phật. Đức Phật chế giới. Vì thuận theo yêu cầu của đại chúng, Đức Phật lại còn đem những điều giới Ngài đã chế ra tu chính hai ba phen, đây là biểu hiện tinh thần dân chủ một cách đầy đủ. Đức Phật tuyệt nhiên không muốn các đệ tử có lỗi lầm, các đệ tử hảo tâm xuất gia tự họ cũng không muốn trong Tăng đoàn có người phạm lỗi; đây là một thứ yêu cầu của tâm tự trọng. Nếu Đức Phật dự bị chế giới trước thì biểu thị sự khinh thường các đệ tử của Ngài và thấy chắc các đệ tử sẽ có lỗi lầm xuất hiện; đây là đối với Tăng đòan dường như có nhiều lo lắng, thậm chí làm cho người chưa phạm tội cảm thấy như bị chồng thêm một lớp xiềng xích, và như thế là coi rẻ nhân cách của các đệ tử. Phạm lỗi lầm rồi mới chế giới, đó là nguyên nhân từ nơi phạm giới mới chế giới, chứ không phải Đức Phật cưỡng chế.
Tinh thần của Đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của Đức Phật, nhìn từ thực tế là ý của đại chúng trong Tăng đoàn. Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng. Người ra toa hoặc hốt thuốc phòng ngừa sự hư đốn này là Đức Phật, người yêu cầu ra toa và xin hốt thuốc chính là đại chúng trong Tăng đoàn. Đức Phật là vị thầy thuốc khám bệnh cho chúng Tăng trong Tăng đoàn, đại chúng trong Tăng đoàn là người bệnh hoạn nhờ Phật chữa bệnh. Do đó, nếu người không bệnh mà ra toa hốt thuốc cho họ, họ sẽ nhất định mắng anh là xúc phạm đến họ. Người mắc bệnh nếu được trị liệu, người ấy sẽ cảm kích muôn phần, đây là tâm lý thông thường của chúng sinh.
Nhân đây chúng ta hiểu một cách sâu sắc rằng Đức Phật là một vị Đại Đạo Sư rất vĩ đại và từ bi. Phật cứu hộ tất cả chúng sinh, dụng tâm không có chỗ vi tế nào không đến; đã tôn trọng ý tứ đại chúng, lại luôn luôn hộ niệm đến khuyết điểm của chúng sinh. Nghĩ đến điều này khiến chúng ta cảm đông rơi nước mắt.
Trừ Đại thừa Bồ tát giới là chư Phật đồng chế; giới Tỳ kheo Tỳ kheo ni của chư Phật chế không đồng nhau hết, chỉ có bốn điều đại giới căn bản: Hành dâm, trộm cướp, giết người, đại vọng ngữ là chư Phật chế đồng nhau. Như trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà sa quyển 8 nói: “Tất cả chư Phật đối với tội Ba la di không kết khác nhau. Bốn Ba la di không thêm, không bớt”. Trừ bốn điều này ra, chẳng những chư Phật chế bất đồng, mà chúng ta cũng thấy trong các bộ Quảng Luật thu tập các điều giới khác cũng đều riêng có nhiều ít, thêm bớt.
Căn cứ vào sự ghi chép của Tăng Kỳ Luật, Đức Phật vì các Tỳ kheo chế một điều giới thứ nhất là giới dâm, đó là: “Đức Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, thành Phật 5 năm, nửa tháng thứ 5 của mùa Đông ngày 12 sau khi dùng bữa ăn giữa trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Đông một người rưỡi, Phật chế giới cho con trai của Trưởng giả Da Xá Ca Lan Đà.
Điều giới thứ hai là giới trộm cướp: Thế Tôn ở thành Vương Xá, thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 2 của mùa Đông ngày mùng 10 sau bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Đông hai người rưỡi, Phật chế giới cho con người thợ gốm tên Đạt Ni Ca, Bình Sa Vương và Tỳ kheo Phấn tảo y.
Điều giới thứ ba là giới sát sinh: Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 3 của mùa Đông, ngày mùng 9 trước bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Bắc, nhân Tỳ kheo tu tập bất tịnh quán đâm ra chán ghét sắc thân, nhờ ngoại đạo Lộc Trượng giết, mà chế giới.
Điều giới thứ tư là đại vọng ngữ: Thế Tôn ở thành Xá Vệ thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 4 của mùa Đông, ngày 13 sau bữa ăn trưa, bóng ngã về hướng Đông ba người rưỡi, vì nhiều Tỳ kheo đi vào xóm làng cùng nhau gọi là A la hán (để được tín thí cúng dường nhiều) và vì Tỳ kheo tăng thượng mạn mà chế giới”.
Trong các bộ Luật, chỉ có Tăng Kỳ Luật ghi rõ ràng ngày giờ tháng năm chế giới, mà cũng chỉ ghi được ngày giờ tháng năm chế giới của bốn điều giới Ba la di. Nhưng căn cứ vào Luật nói 12 năm đầu, chỉ có người phạm một giới chế một giới, chứ không có người tái phạm.
Như thế, chúng ta đã biết rõ Đức Phật vì Tỳ kheo chế giới là từ cuối mùa Đông của năm thứ 5 sau khi thành Phật. Điều này cũng nói lên cho chúng ta biết trong Tăng đoàn của Phật giáo đến năm thứ 5 trở về sau, phần tử dần dần phức tạp, có những người căn cơ hơi cạn tiến nhập vào Tăng đoàn Tỳ kheo phát sinh ra vấn đề, vì thế cần phải chế giới đề phòng sự hủ bại. Từ năm thứ 6 trở về sau, vấn đề càng nhiều, vì thế trong một thời gian ngắn không đầy 50 ngày trong cuối mùa Đông lại liên tiếp chế ra ba điều giới trọng. Do đó, sự chế ra Tỳ kheo giới có thể đứt đứt nối nối một mạch đến trước lúc Đức Phật nhập diệt mới đình chỉ. Dường như giới luật này hoàn toàn căn cứ vào nhu cầu của tình huống thực tế đương thời đương xứ mà chế thành, nhưng không cùng với giới luật của chư Phật chế hoàn toàn giống nhau, cho nên cũng không thể đem toàn bộ điều văn của giới luật này hoàn toàn thích ứng với sinh họat Tỳ kheo trong thời đại và địa phương bất đồng. Vì thế, Đức Phật trong Ngũ Phần Luật quyển 22 đã nói: “Tuy là giới của ta chế, nhưng ở phương khác không cho là thanh tịnh thì đều không được dùng. Tuy chẳng phải giới của ta chế, nhưng ở phương khác phải nên làm thì không được chẳng làm”. Đây là Thánh giáo sáng suốt biết bao!
Đến như Tỳ kheo ni giới, trừ bộ phận đặc biệt Phật chế riêng cho phái nữ ra, đa số giới tướng đồng và giới tướng Tỳ kheo. Sự xuất hiện của Tỳ kheo ni giới đương nhiên sau Tỳ kheo giới rất xa.
II. LÀM THẾ NÀO HOÀN THÀNH THÂN PHẬN TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI?
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni cố nhiên phải giữ gìn Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới. Nhưng thân phận và tư cách của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni không phải do sự thủ trì Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới mà ra. Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba (Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Diệp La) trong 7 Đức Phật quá khứ không có kiết giới cũng không thuyết giới. Các Ngài cũng có 7 chúng đệ tử (nhưng sau khi Phật diệt độ, Phật pháp cũng tiêu mất). Năm năm đầu tiên sau khi Thích Ca Thế Tôn thành Phật chưa có chế giới, nhưng đã có rất nhiều đệ tử Tỳ kheo, đủ biết Tỳ kheo và Tỳ kheo ni không phải có ra là do nơi giới luật; trái lại, sự có mặt của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới là do nhu yếu của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Như vậy, thân phận hoặc tư cách của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm sao hoàn thành ? Ở đây cần phải nói đến chủng loại của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Trước hết là nói về chủng loại của Tỳ kheo. Điều này trong các bộ luật cũng có ít nhiều bất đồng.
A. Tứ Phần Luật có 11 thứ Tỳ kheo
1. Tỳ kheo xin ăn.
2. Tỳ kheo trì y hoại sắc có cắt rọc.
3. Tỳ kheo phá ác.
4. Tỳ kheo thật.
5. Tỳ kheo kiên cố.
6. Tỳ kheo thấy lỗi.
7. Tỳ kheo do một lời thọ giới.
8. Tỳ kheo do hai lời thọ giới.
9. Tỳ kheo do ba lời thọ giới.
10. Tỳ kheo thiện lai.
11. Tỳ kheo đúng như pháp bạch tứ yết ma thọ giới.
B. Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp có 10 thứ Cận viên:
1. Không có thầy, như Phật Thế Tôn.
2. Chứng trí, như trường hợp 5 vị Bí sô.
3. Vấn tấn, như trường hợp ông Ô Đà Bi.
4. Quy y như trường hợp Đại Ca Diếp.
5. Năm người, là trường hợp ở vùng biên địa, 5 vị Luật sư có thể truyền thọ giới cho người.
6. Mười người, là trường hợp tại nơi Phật pháp thịnh hành (trung phương) phải đủ 10 vị luật sư truyền giới cho người.
7. Thọ kinh pháp, như trường hợp Đại Thế Chủ.
8. Khiến sứ, như trường hợp cô Đạt Ma Trần Na.
9. Hai chúng, nghĩa là hai bộ tập hợp.
10. Thiện lai nghĩa là chính Đại sư (Phật) đích thân nói.
Trên đây, ba pháp: 7, 8, 9 là pháp thọ giới của Tỳ kheo ni, 7 pháp kia đều là pháp thọ giới của Tỳ kheo.
C. Thập Tụng Luật có 10 thứ pháp thọ Cụ túc giới:
1. Phật Thế Tôn tự nhiên không có thầy đắc Cụ túc giới.
2. Năm Tỳ kheo đắc đạo tức đắc Cụ túc giới.
3. Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp tự thệ liền đắc Cụ túc giới.
4. Ông Tô Đà vì tùy thuận đáp Phật luận nên đắc Cụ túc giới.
5. Biên địa do 5 vị tăng trì luật truyền được thọ Cụ túc giới.
6. Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề thọ Bát kỉnh pháp liền đắc Cụ túc giới.
7. Bán Ca Thi Na sai sứ được thọ Cụ túc giới.
8. Phật nói thiện lai Tỳ kheo đắc Cụ túc giới.
9. Quy mạng Tam bảo rồi, ba lần xướng tôi theo Phật xuất gia tức đắc Cụ túc giới.
10. Bạch tứ yết ma đắc Cụ túc giới.
Trên đây, hai pháp 6 và 7 là pháp thọ giới của Tỳ kheo ni, 8 pháp kia là pháp thọ giới của Tỳ kheo.
D. Kinh Tỳ Ni Mẫu có 5 thứ pháp thọ Cụ túc giới
1. Thiện lai Tỳ kheo liền được thọ Cụ túc giới.
2. Ba lời (tức tam quy ) liền được thọ Cụ túc giới.
3. Bạch tứ yết ma tức đắc Cụ túc giới.
4. Phật chấp nhận cho thọ Cụ túc giới (Bát kỉnh pháp) liền được thọ Cụ túc giới.
5. Thọ Cụ túc giới bậc thượng, lúc Phật tại thế không có người truyền giới mà chỉ trực tiếp ở bên Phật nghe pháp đắc quả A la hán.
E. Tứ Phần Luật có 8 thứ Tỳ kheo:
1. Danh tự Tỳ kheo.
2. Tương tự Tỳ kheo.
3. Tự xưng Tỳ kheo.
4. Thiện lai Tỳ kheo.
5. Khất cầu Tỳ kheo.
6. Tỳ kheo mặc y cắt rọc.
7. Tỳ kheo phá kiết sử (dứt bặt phiền não chứng A la hán).
8. Thọ đại giới bạch tứ yết ma, như pháp thành tựu được xứ sở Tỳ kheo.
Trên đây chỉ có ba thứ Tỳ kheo số 4, 7, 8 là thật Tỳ kheo đúng như pháp, năm thứ kia là giả chứ không phải là Tỳ kheo đúng như pháp. Tuy chủng loại Tỳ kheo trong năm bộ luật nêu trên đều có chút ít bất đồng, nhưng có thể quy nạp làm 10 lọai:
1. Không có thầy.
2. Một lời.
3. Hai lời.
4. Ba lời.
5. Phá kiết sử.
6. Tự thệ.
7. Thiện lai.
8. Vấn tấn.
9. Luận đáp.
10. Baïch tứ yết ma ( bao hàm cả biên địa 5 vị Tăng truyền giới và trung phương 10 vị Tăng truyền giới).
Tỳ kheo đắc Cụ túc giới đại khái chẳng ra ngoài mười phương pháp này. Nhưng lúc Phật còn tại thế, thông thường sử dụng chỉ có Thiện lai Tỳ kheo và Bạch tứ yết ma Tỳ kheo. Tám loại kia là hạn cuộc vào căn tánh đặc thù của nhân vật, so ra Tỳ kheo phá kiết sử có nhiều hơn 7 loại Tỳ kheo kia. Ngoài ra, như trường hợp không có thầy thọ giới, chỉ có một mình Đức Phật; tự thệ thọ giới, chỉ có một mình Ngài Đại Ca Diếp; vấn tấn thọ giới, chỉ có một mình Ngài Ô Đà Di (tức là Ca Lưu Đà Di); tùy thuận đáp Phật luận thọ giới, chỉ có một mình ông Tô Đà. Đến như Thiện lai Tỳ kheo chỉ dùng một mạch đến khi Đức Phật nhập diệt là dứt. Sau khi Phật diệt độ, chỉ có một phương pháp thọ giới của Bạch tứ yết ma thọ Tỳ kheo giới. Trong thời đại Đức Phật, Thiện lai và Bạch tứ yết ma đều dùng, đều làm, nhưng có một sự phân biệt: Đức Phật đích thân độ người xuất gia, Đức Phật chỉ nói một tiếng “Thiện lai Tỳ kheo”, người được độ nhờ túc căn của mình nương vào oai thân của Phật lập tức râu tóc tự rụng, ca sa hiện trên thân, bình bát nơi tay, nghiễm nhiên giống oai nghi Tỳ kheo của Thượng tọa lão tham. Nhưng đây cần phải là người túc căn sâu dày có thể lập tức chứng quả mới làm. Ý nghĩa của Thiện lai Tỳ kheo, căn cứ vào lý suy diễn phải có ba tầng:
1. Ông muốn xuất ly sinh tử, đến đây thật đúng thời cơ.
2. Ông đến làm Tỳ kheo thật là một việc rất tốt.
3. Ông đến xuất gia làm Tỳ kheo, Phật giáo vô cùng hoan nghinh ông.
Trong suốt cuộc đời Đức Phật, Ngài độ được bao nhiêu “Thiện lai Tỳ kheo”? Các vị đại đệ tử được Đức Phật độ ở thời kì đầu tiên gần như đều là Thiện lai Tỳ kheo, tỷ như năm người trong nhóm ông Kiều Trần Như, 30 người trong nhóm ông Mẫn Từ Tử, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp và 500 đệ tử. Dà Da Ca Diếp và 200 đệ tử, Ưu Ba Tư Na và 250 đệ tử, Đại Mục Kiền Liên và 250 đệ tử, con cháu dòng Vương thất Thích Ca 500 người, nhóm ông Bạt Độ Đế 500 người, nhóm quần tặc 500 người ( tư liệu này thấy trong Ma ha Tăng Kỳ Luật). Do đây đủ thấy Thiện lai Tỳ kheo ở trong Tăng đoàn đương thời là giai tầng lãnh đạo, cũng là thành phần chủ yếu.
Tỳ kheo của bạch tứ yết ma thọ Cụ túc giới, đó là các vị đệ tử Tỳ kheo của Đức Thích Ca độ cho các vị Tỳ kheo xuất gia đời thứ ba mới có. Nhân vì khu vực đất đai của Ấn Độ rất rộng, các đại đệ tử của Phật mỗi người giáo hóa một phương, mỗi phương đều có người cầu xin xuất gia, nếu phải lặn lội từ xa đến xin Phật độ thì quá phiền phức, thậm chí ở dọc đường phát sinh tai biến. Vì thế, Phật quy định các đệ tử Tỳ kheo cũng được độ người xuất gia thọ Cụ túc giới. Người thọ Cụ túc giới cần phải ở trong Tăng đoàn có 10 vị Tỳ kheo trở lên cầu được sự thông qua và thừa nhận nhất trí, mới được kể là Tỳ kheo hợp pháp. Bạch tứ yết ma nghĩa là một phen báo cáo, ba phen trưng cầu sự im lặng chấp thuận. Trong 10 người chỉ cần có một người phản đối là Tăng không hòa hợp bèn không thành yết ma thọ giới và người thọ giới không đắc Cụ túc giới. Đây là một nghi thức giản đơn mà thiêng liêng , mục đích là có được sự chấp thuận của Tăng chúng, chứ chẳng phải truyền thọ riêng tư. Tuy nhiên, trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế, thọ Cụ túc giới cũng là Phật sự bình thường, thông thường đều lấy cơ hội thuyết giới mỗi nửa tháng để cử hành, vì đây là ngày quy định chư Tăng tập họp. Ngoài ra, các ngày an cư và tự tứ cũng đều là cơ hội tốt để truyền thọ Cụ túc giới.
Như trong Ngũ Phần Luật quyển 16 nói, Phật nói “Cho phép nhân ngày Bố tát tự tứ, lúc Tăng tự tập họp, truyền thọ Cụ túc giới”. Hoàn toàn không giống như Phật giáo Trung Quốc phân thành Thiền tự, Giảng tự và Luật tự ; chỉ có Luật tự học luật, trì luật và truyền giới ; còn Thiền tự và Giảng tự không học, không trì, cũng không truyền giới. Điều này hình thành đương nhiên là do nhân tố của bối cảnh xã hội, chúng ta chẳng nên phiền trách, cho đến sự truyền giới của ngày nay lại cũng có chút lạm.
Chủng lọai thọ giới của Tỳ kheo ni:
A. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí Sô Tỳ Naïi Da có 5 thứ Bí Sô Ni:
1. Danh tự Bí sô ni.
2. Tự nói Bí sô ni.
3. Khất cầu Bí sô ni (người nữ thế tục vì mưu cầu sinh sống).
4. Phá phiền não Bí sô ni.
5. Bạch tứ yết ma Bí sô ni.
(Hai loại thứ 4, 5 hợp pháp, ba lọai kia đều phi pháp)
B. Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 1, Tỳ kheo ni có 5 cách thọ Cụ túc giới:
1. Theo lời thầy dạy thực hành (Bát kỉnh pháp) gọi là thọ Cụ túc giới.
2. Bạch tứ yết ma mà được thọ Cụ túc giới.
3. Sai sứ đại diện mà được thọ Cụ túc giới.
4. Thiện lai mà được thọ Cụ túc giới.
5. Thượng thọ Cụ túc giới (phá kiết sử).
Thật ra trong hai bản luật liệt kê Tỳ kheo ni hợp pháp chỉ có bốn loại: Phá kiết sử, Bát kỉnh pháp, Sai sứ, Bạch tứ yết ma. Thiện lai Tỳ kheo ni, nếu chiếu theo lệ Đức Phật không đích thân tự độ ni (Luận Tát Bà Đa quyển 2); đây không phải Đức Phật đích thân độ mà là do đại đệ tử Tỳ kheo ni độ. Nhưng theo sự xuất hiện của Tỳ kheo ni sau Tỳ kheo 14 năm hoặc hơn 20 năm, Tăng đoàn Tỳ kheo lúc ấy đã có nghi thức bạch tứ yết ma độ người xuất gia, Tỳ kheo ni sao không làm theo? Không lẽ còn học theo phương pháp Phật độ Tỳ kheo mà dùng thiện lai độ Tỳ kheo ni? Vì thế, đây là một vấn đề còn đợi khảo chứng.
Ai là Tỳ kheo ni phá kiết sử? Chưa thấy văn tự ghi chép. Tỳ kheo ni dùng Bát kỉnh pháp thọ Cụ túc giới chỉ có bà Đại Ái Đạo cùng 500 người nữ dòng học Thích. Sai sứ thọ, trên Phật giáo sử chỉ có một người là Đạt Ma Trần Na (Tạp Sự quyển 32 dịch là Pháp Dự), hoặc Bán Ca Thi Ni, vì cô rất đẹp nhiều người nam nghe nói cô xuất gia muốn chặn đường phá cô, nếu cô từ chùa Ni đích thân đi đến chùa Tăng thọ giới thì không thể xuất gia được. Vì thế, Đức Phật đặc biệt cho người nữ đẹp tuyệt trần khi xuất gia nếu ngại dọc dường bị phá, có thể phái đại biểu đi qua chùa Tăng cầu được yết ma cũng đắc giới. Ngoài ra, các Tỳ kheo khác thọ Cụ túc giới đều ở trong hai bộ Tăng bạch tứ yết ma thọ. Trong hai bộ Tăng thọ là trước ở trong Tăng 10 Tỳ kheo ni bạch tứ yết ma mà thọ giới. Đắc giới là tại trong Tỳ kheo Tăng đắc. Nếu không tác bổn pháp mà trực tiếp qua Tỳ kheo Tăng thọ Cụ túc giới, có thể đắc giới nhưng Giới sư đắc tội. Tỳ kheo ni giới Trung Quốc có từng kiến lập qua chế độ ở trong hai bộ Tăng thọ hay không, đến nay không làm sao tra cứu. Có sử để kê cứu đều là trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ. Giới sư Trung Quốc tuy trải qua nhiều đời do vì truyền Tỳ kheo ni giới mà đắc tội, nhưng cũng cam chịu, vì chưa có thể làm đúng pháp như luật.
Thọ Cụ túc giới là nói tiếp thọ toàn bộ Tỳ kheo giới hoặc Tỳ kheo ni giới. Sau khi thọ trì toàn bộ có thể bước lên Thánh vị thẳng đến quả A la hán và liễu thoát sinh tử. Không giống như thọ ngũ giới, bát giới, thập giới, chỉ là một bộ phận của giới chứ chưa đầy đủ toàn bộ giới như trong luật điển của Tân dịch không gọi là Cụ Túc giới mà gọi là Cận viên. Viên là viên mãn tịch diệt, cũng là viên tịch, cũng là Niết bàn, cũng là liễu sinh thoát tử, cũng là bất sinh bất tử, cũng là chỉ cho cảnh giới của quả A la hán. Chữ “Cận” có thể giải theo hình dung từ, nghĩa là ranh giới của viên tịch, cũng có thể giải theo động từ, nghĩa là đi đến gần cảnh giới viên tịch. Nếu nói về công năng của Tỳ kheo ni giới, thì chữ cận của cận viên, dùng động từ giải thích lại đúng hơn.
Chúng ta có thể nhờ sự thọ trì và kiên trì Tỳ kheo giới hoặc Tỳ kheo ni giới để dần dần tiếp cận với viên tịch, và cũng từ tiếp cận với viên tịch sau cùng tiếp nhập vào viên tịch. Do đây, Tỳ kheo giới là cây cầu đưa chúng ta đến cảnh Niết Bàn. Viên tịch vốn là nghĩa của Niết bàn, nhưng mà sau này Tăng tử vong đều gọi là viên tịch, nếu nói theo luật thì đó là thay thế người chết vọng ngữ!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).21/4/2012.